Ví du quản lý nhà nước về du lịch

Skip to content

Ví du quản lý nhà nước về du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.67 KB, 79 trang )

Bạn đang đọc: BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH (2TC) – Tài liệu text

KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI GIẢNGQUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH (2TC)

Bậc đào tạo: Đại học

GIẢNG VIÊN: TH.S TRẦN THỊ HƯƠNG LY

HÀ NỘI, 2016

KHOA KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI GIẢNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH

GIẢNG VIÊN

: TH.S TRẦN THỊ HƯƠNG LY

SỐ ĐIỆN THOẠI

: 0987.398.303

EMAIL

: [email protected]

GD CHO CÁC LỚP

: ĐH5QTDL

HÀ NỘI, 2016

MỤC LỤC
b. Quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương………………………….20

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀDU LỊCH

1.1

Một số vấn đề chung về quản lý nhà nước

1.1.1 Một số khái niệma. Khái niệm quản lýHiện nay có nhiều cách giải thích thuật ngữ quản lý, có quan niệm chorằng quản lý là cai trị; cũng có quan niệm cho rằng quản lý là điều hành, điềukhiển, chỉ huy.Quan niệm chung nhất về quản lý được nhiều người chấp nhận: Quản lý làsự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa vàhướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Quan niệm nàykhông những phù hợp với hệ thống máy móc thiết bị, cơ thể sống, mà còn phùhợp với một tập thể người, một tổ chức hay một cơ quan nhà nước.Hiểu theo góc độ hành động, quản lý là điều khiển và được phân thành 3loại. Các loại hình này giống nhau là đều do con người điều khiển nhưng khácnhau về đối tượng quản lý.

Loại hình thứ nhất: là việc con người điều khiển các vật hữu sinh không

phải con người, để bắt chúng phải thực hiện ý đồ của người điều khiển. Loạihình này được gọi là quản lý sinh học, quản lý thiên nhiên, quản lý môi trường…Ví dụ con người quản lý vật nuôi, cây trồng…Loại hình thứ hai: là việc con người điều khiển các vật vô tri vô giác để bắtchúng thực hiện ý đồ của người điều khiển. Loại hình này được gọi là quản lýkỹ thuật. Ví dụ, con người điều khiển các loại máy móc…Loại hình thứ ba: là việc con người điều khiển con người. Loại hình nàyđược gọi là quản lý xã hội (hay quản lý con người). Quản lý xã hội được Máccoi là chức năng quản lý đặc biệt được sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động.Hiện nay, khi nói đến quản lý, thường người ta chỉ nghĩ đến quản lý xã hội. Vìvậy sau đây chúng ta chỉ nghiên cứu loại hình quản lý thứ ba này, tức là quản lýxã hội.

1

Từ đó có thể đưa ra khái niệm quản lý theo nghĩa hẹp (tức là quản lý xãhội) như sau: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội vàhành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạttới mục đích đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý.Quản lý Xã hội là một yếu tố hết sức quan trọng không thể thiếu trong đờisống xã hội. Xã hội càng phát triển thì vai trò của người quản lý càng lớn, nộidung quản lý càng phức tạp.b. Khái niệm về quản lý nhà nướcTrong hệ thống các chủ thể quản lý xã hội Nhà nước là chủ thể duy nhấtquản lý xã hội toàn dân, toàn diện bằng pháp luật. Cụ thể như sau:– Nhà nước quản lý toàn dân là nhà nước quản lý toàn bộ những ngườisống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia, bao gồm công dân và những ngườikhông phải là công dân.– Nhà nước quản lý toàn diện là nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực của

đời sống xã hội theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo

lãnh thổ.– Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội có nghĩa là các cơquan quản lý điều chỉnh mọi khía cạnh hoạt động của xã hội trên cơ sở phápluật quy định.– Nhà nước quản lý bằng pháp luật là nhà nước lấy pháp luật làm công cụxử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo luật định một cách nghiêm minh.Vậy Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhànước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội vàhành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội,trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.Quản lý xã hội là thực hiện các chức năng tổ chức nhằm tạo những điềukiện cần thiết để đạt những mục đích đề ra trong quá trình hoạt động chung củacon người trong xã hội. Vì vậy, từ khi xuất hiện nhà nước, quản lý xã hội đượcnhà nước đảm nhận. Nhưng quản lý xã hội không chỉ do nhà nước với tư cách là

2

một tổ chức chính trị đặc biệt thực hiện, mà còn do tất cả các bộ phận khác cấuthành hệ thống chính trị thực hiện như: các chính đảng, tổ chức xã hội… Ở gócđộ hoạt động kinh tế, văn hoá – xã hội, chủ thể quản lý xã hội còn là gia đình,các tổ chức tư nhân.Quản lý nhà nước là các công việc của nhà nước, được thực hiện bởi tất cảcác cơ quan nhà nước cũng có khi do nhân dân trực tiếp thực hiện bằng hìnhthức bỏ phiếu hoặc do các tổ chức xã hội, các cơ quan xã hội thực hiện nếuđược nhà nước giao quyền thực hiện chức năng nhà nước. Quản lý nhà nướcthực chất là sự quản lý có tính chất nhà nước, do nhà nước thực hiện thông quabộ máy nhà nước trên cơ sở quyền lực nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ,chức năng của Chính phủ là hệ thống cơ quan được thành lập để chuyên thựchiện hoạt động quản lý nhà nước.

c. Khái niệm về quản lý hành chính nhà nước

Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thiquyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực củađời sống xã hội theo quy định của pháp luật, đó là Chính phủ và Uỷ ban nhândân các cấp. Tuy hệ thống các cơ quan: quyền lực, xét xử và kiểm sát thực hiệnquyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành chính nhà nướcnhưng trong cơ chế vận hành của nó cũng có công tác hành chính như chếđộcông vụ, công tác tổ chức cán bộ… và phần công tác này cũng phải tuân thủnhững quy định thống nhất của nền hành chính nhà nước.Quyền hành pháp có 2 nội dung:– Một là được thực hiện bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luậtđể hướng dẫn thực hiện pháp luật.– Hai là quản lý hành chính nhà nước tức là tổ chức, điều hành, phối hợp cáchoạt động kinh tế – xã hội để đưa luật pháp vào đời sống xã hội. Các cơ quanhành chính nhà nước thực thi quyền hành pháp, không có quyền lập pháp và tư

pháp nhưng góp phần quan trọng vào quá trình lập pháp và tư pháp. Như vậy, tổ

3

chức và hoạt động hành chính có phạm vi rộng hơn việc thực thi quyền hànhpháp.Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý. Phápluật là thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân,phải được thực hiện thống nhất trong cả nước tuân theo pháp luật là chấp hànhđường lối, chủ trương của Đảng.Như vậy, có thể hiểu: Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thiquyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnhbằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạtđộng của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự

pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, docác cơ quan trong hệ thông quản lý hành chính từ Chính phủở Trung ươngxuống Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương tiến hành.Từ khái niệm về quản lý hành chính nhà nước như trên, chúng ta thấy quảnlý hành chính nhà nước có 3 nội dung sau:Quản lý hành chính nhà nước là sự hoạt động thực thi quyền hành pháp:Hành pháp là một trong ba quyền của quyền lực nhà nước thống nhất mang tínhquyền lực chính trị. Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất (cơquan chấp hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàndân, toàn xã hội. Nhưng, Chính phủ thực hiện chức năng của mình thông qua hệthống thể chế hành chính của nền hành chính nhà nước cao nhất. Hành pháp làquyền lực chính trị; quản lý hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp,nó phục tùng và phục vụ quyền hành pháp nhưng bản thân nó không phải làquyền lực chính trị.Quản lý hành chính là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh: Trong quản lýhành chính nhà nước, chức năng tổ chức là quan trọng nhất vì không có tổ chứcthì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức như thế nào để mọi ngườiđều có vị trí tích cực đối với xã hội, góp phần tạo ra lợi ích cho xã hội. Điều

4

chỉnh là quy định về mặt pháp lý thể hiện bằng các quyết định quản lý về quytắc, tiêu chuẩn, biện pháp… nhằm tạo ra sự phù hợp giữa chủ thể và khách thểquản lý, tạo sự cân bằng, cân đối giữa các mặt hoạt động của quá trình xã hội vàhành vi hoạt động của con người.Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động bằng quyền lực nhà nước: Sựtác động bằng quyền lực nhà nước là sự tác động bằng pháp luật theo nguyêntắc pháp chế. Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổchức rất cao. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình

đẳng trước pháp luật.

1.1.2 Bản chất của quản lý nhà nướcBản chất của quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành và điềuhành. Điều hành là việc chỉ đạo trực tiếp đối tượng bị quản lý. Trong hoạt độngđiều hành, cơ quan quản lý có thể đụng những hình thức tác động trực tiếp vànhững hình thức ít mang tính pháp lý. Chấp hành thể hiện ở việc thực thiệnhtrên thực tế các luật và các văn bản mang tính luật của nhà nước.1.1.3 Đặc điểm của quản lý nhà nướcQuản lý hành chính nhà nước mang những đặc điểm chủ yếu sau:Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực, tính tổ chức và tínhmệnh lệnh đơn phương của nhà nước: Khách thể quản lý phải phục tùng chủ thểquản lý một cách nghiêm túc nếu không, phải truy cứu trách nhiệm và xử lýtheo pháp luật một cách nghiêm minh, bình đẳng. Quản lý hành chính nhà nướccó mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kê’ hoạch để thực hiện mục tiêu.Đặc điểm này đòi hỏi công tác quản lý nhà nước phải có chương trình, kế hoạchdài hạn, trung hạn và hàng năm có chỉ tiêu và biện pháp cụ thểđể thực hiện cácchỉ tiêu.Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, tính sáng tạo và linhhoạt cao: Tính chủ động, sáng tạo thể hiện ở hoạt động xây dựng các văn bảnpháp quy hành chính điều chỉnh các hoạt động quản lý, điều chỉnh những quanhệ mới phát sinh chưa ổn định và chưa được luật điều chỉnh. Nó được quy định

5

bởi chính bản thân sự phức tạp, phong phú đa dạng của khách thể quản lý.Những khách thể đó là mọi mặt của đời sống xã hội luôn biến động và pháttriển, đòi hỏi phải ứng phó nhanh nhạy kịp thời, vận dụng sáng tạo pháp luật,tìm kiếm biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả.Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật: luật thểhiện ở chỗ bản thân hoạt động quản lý là hoạt động chấp hành pháp luật và điều

hành trên cơ sở luật. Các quyết định ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước

phải phù hợp với pháp luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên,nếu mâu thuẫn sẽ bị đình chỉ và bãi bỏ.Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được đảm bảo về phươngdiện tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất mà trước hết là bộ máy cơ quan hànhchính: Đây là hệ thống nhiều về số lượng cơ quan cũng như số lượng biên chế,phức tạp về tổ chức, cơ cấu và rất đa dạng về chức năng, nhiệm vụ cũng nhưhình thức, phương pháp hoạt động. Đặc điểm này thể hiện tiềm năng to lớn củaquản lý hành chính nhà nước song cũng làm phát sinh những ảnh hưởng tiêucực do bộ máy quá cồng kềnh. Đồng thời, hoạt động quản lý hành chính nhànước được đảm bảo về nguồn lực và phương tiện tài chính dồi dào cũng như cáctài sản khác (nhà xưởng, thiết bị, máy móc…).Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính kinh tế: Hoạt độngkinh tế là chức năng quan trọng của bất kỳ nhà nước. Mọi nhà nước thực hiệnchức năng quản lý hành chính của mình cũng là nhằm phục vụ nền kinh tế đó,nên có thể nói quản lý hành chính nhà nước mang tính kinh tế.Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chính trị rõ rệt:Nhà nước là một tổ chức chính trị thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và ý chíđó được các cơ quan nhà nước đưa vào cuộc sống. Khi bộ máy nhà nước hoạtđộng, quản lý hành chính nhà nước là những kênh thực hiện quyền lực nhànước. Vì vậy, khi giải quyết bất cứ vấn đề nào trong công tác quản lý hành

chính luôn luôn phải tính đến nhiệm vụ và mục tiêu chính trị.

6

Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính chuyên nghiệp, liêntục: Tính chuyên nghiệp đòi hỏi cán bộ quản lý không chỉ cần có kiến thức và lýluận quản lý hành chính nhà nước mà còn phải vững vàng về mặt pháp lý, hiểubiết về bộ máy nhà nước, có kinh nghiệm thực tiễn và đòi hỏi phải có kiến thức

chuyên môn nghiệp vụ về ngành, về lĩnh vực khoa học kỹ thuật hoặc sản xuất

mà mình đảm nhiệm. Tính liên tục đòi hỏi hoạt động quản lý hành chính nhànước phải được tiến hành thường xuyên liên tục không bị gián đoạn.Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính thứ bậc chặt chẽ:Quản lý hành chính nhà nước là hệ thống thông suốt lừ trên xuống dưới, cấpdưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấptrên (khác với các cơ quan dân cử hay hệ thống cơ quan xét xử).Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động không mang tính vụ lợi: Quảnlý hành chính nhà nước có nhiệm vụ là phục vụ lợi ích công và Quản lý hànhchính nhà nước có nhiệm vụ là phục vụ lợi ích công và lợi ích của công dân nênkhông được đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao, không được theo đuổimục tiêu doanh lợi nên hơn bất cứ tổ chức nào trong xã hội, nó phải mang tínhchất vô tư, công tâm, trong sạch, liêm khiết nhất.1.1.4 Chức năng của quản lý nhà nướcQuản lý hành chính nhà nước có một số chức năng cơ bản như sau:Chức năng dự báo: là sự phán đoán trước trên cơ sở thông tin chính xácvà kết luận khoa học về khả năng phát triển, thiếu nó không thể xác định trạngthái tương lai của xã hội vì thế nó có ý nghĩa đặc biệt để thực hiện tết các chứcnăng quản lý khác.Chức năng kế hoạch hóa: là xác định mục tiêu nhiệm vụ cụ thể về tỷ lệ,tốc độ, phương hướng và chỉ tiêu về số lượng, chất lượng cụ thể.Chức năng tổ chức: là hoạt tạo lập hệ thống quản lý và bị quản lý. Tổchức là hoạt động thành lập, giải thể, hợp nhất, phân định chức năng, nhiệm vụ,

xác định các quan hệ qua lại, lựa chọn sắp xếp cán bộ.

7

Chức năng điều chỉnh: là chức năng có mục đích thiết lập chế độ cho hoạtđộng nào đó mà không tác động trực tiếp đến nội dung hoạt động, nó được thực

hiện bằng việc ban hành các văn bản pháp quy.

Chức năng lãnh đạo: là chức năng định hướng cho hoạt động quản lý,xác định cách xử sự của các đối tượng bị quản lý thông qua hình thức ban hànhcác chủ trương đường lối có tính chất chiến lược.Chức năng điều hành: là hoạt động chỉ đạo trực tiếp hành vi của đốitượng bị quản lý thông qua việc ban hành các quyết định cá biệt, cụ thể có tínhchất tác nghiệp. Đây là chức năng đặc trưng của các chủ thể quản lý cấp “vĩmô”.Chức năng phối hợp (còn gọi là chức năng điều hoà): là sự phối hợp cáchoạt động riêng rẽ của từng người, cơ quan, tổ chức thừa hành để thực hiện cácnhiệm vụ chung. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, quá trình chuyênmôn hoá sâu sắc, nhiều quá trình diễn ra đồng thời với xu hướng ngày càng xuấthiện nhiều vấn đề phải giải quyết theo quan điểm tổng thể thì hoạt động điềuhòa phối hợp càng có ý nghĩa quan trọng.Chức năng kiểm tra: là chức năng quản lý có ý nghĩa xác định xem thựctế hoạt động của đối tượng bị quản lý phù hợp hay không phù hợp với trạng tháiđịnh trước. Nó cho phép phát hiện và loại bỏ các lệch lạc có thể có của đốitượng bị quản lý hoặc chỉnh lý lại các quyết định đã ban hành trước đây cho phùhợp với thực tế và yêu cầu của nhiệm vụ quản lý. Các chức năng quản lý nằmtrong một hệ thống thống nhất liên quan chặt chẽ với nhau. Chức năng này cóthể là khách thể của một chức năng khác và ngược lại.Ví dụ: điều chỉnh công tác tổ chức, kiểm tra công việc dự báo – điềuhành, điều hoà phối hợp hoạt động kế hoạch.1.1.5 Nguyên tắc trong quản lý nhà nướcNguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo, làmnền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước Nguyên tắcquản lý hành chính nhà nước Việt Nam có các đặc điểm sau:

8

– Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính pháp lý vì các

nguyên tắc này thường được chỉ ra trong các nghị quyết của Đảng, được ghinhận trong các văn bản của các cơ quan quản lý nhà nước, chúng còn được ghinhận trong văn bản của các tổ chức xã hội khi được giao quyền hạn quản lý nhànước hoặc tham gia quản lý nhà nước.– Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính khách quan khoahọc bởi vì chúng được xây dựng, được rút ra từ thực tế cuộc sống trên cơ sởnghiên cứu một cách sâu sắc các quy luật phát triển khách quan, cơ bản của đờisống xã hội.– Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chủ quan bởi vìchúng là tư tưởng, chúng được con người xây dựng nên, được rút ra từ thực tếcuộc sống nhờ có con người thông qua bộ óc con người.– Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định cao bởi chúngphản ánh những nguyên lý cơ bản nhất của các quy luật cơ bản nhất của thựctiễn quản lý mà bản thân quy luật này mang tính ổn định.Tuy vậy, chúng không phải là bất biến bởi vì cuộc sống luôn luôn pháttriển cùng với các quy luật đó. Trong quản lý hành chính Nhà nước Việt Nam có9 nguyên tắc cơ bản sau:a. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước.Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là sự lãnh đạo chính trị. Đảng đềra đường lối chính trị (cương lĩnh chiến lược), những chủ trương phương hướnglớn, những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và thông qua Nhà nước chúngđược thể chế hoá thành pháp luật. Trước hết, Đảng lãnh đạo quản lý nhà nướcbằng nghị quyết của các cơ quan của Đảng ở các cấp; trong đó vạch ra đườnglối, chủ trương chính sách, nhiệm vụ cho quản lý nhà nước, cho các mắt xíchkhác nhau của bộ máy quản lý hội. Các cơ quan nhà nước ở địa phương và cáccơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước trung ương và các cơ quancấp trên. Trong phạm vi thẩm quyền, các cơ quan nhà nước địa phương và cáccơ quan nhà nước cấp dưới tự quyết định và chịu trách nhiệm về những vấn đề

9

của địa phương. Các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan cấp trênphải tạo điều kiện cho cơ quan ở địa phương và cấp dưới phát huy quyền chủđộng, sáng tạo góp phần vào sự nghiệp chung của cả nước.b. Nguyên tắc tập trung dân chủĐòi hỏi cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới trong việc thực hiệncác quyết định và chỉ thị của cơ quan cấp trên, thực hiện chế độ thông tin, báocáo thường xuyên giữa cấp trên và cấp dưới; phải bảo đảm kỷ luật nghiêm minhtrong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải vận dụng linh hoạt,tuỳ tình hình thực tế và điều kiện ở mỗi địa phương mà thay đổi cho phù hợp.Như vậy nghệ thuật của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là tìm tỷ lệkết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động củatừng lĩnh vực từng ngành cụ thể trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm chílà từng vấn đề cụ thể. Nguyên tắc này được xác lập trong Điều 6, Hiến pháp1992: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổchức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.c. Nguyên tắc thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nướcNguyên tắc này thể hiện bản chất của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa làcủa nhân dân, do dân và vì nhân dân. Thực hiện nguyên tắc đảm bảo sự thamgia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước không những tạo rakhả năng phát huy sức lực và trí tuệ của nhân dân mà còn là một trong nhữngphương pháp tết để ngăn chặn tệ nạn quan liêu, thói cửa quyền trong bộ máynhà nước.d. Nguyên tắc đảm bảo quyền tham gia của nhân dân vào quản lý nhànướcĐiều 53, Hiến pháp 1992 ghi rõ: “Công dân có quyền tham gia quản lýNhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địaphương, kiên nghị và các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chứctrưng cầu ý dân”. Nhân dân chính là người tạo lập ra bộ máy nhà nước thông

qua việc bầu các đại diện của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Nhân

10

dân tham gia quản lý nhà nước dưới các hình thức như: trực tiếp bỏ phiếu quyếtđịnh các vấn đề trọng đại của địa phương, trực tiếp làm việc với cơ quan nhànước, tham gia thảo luận các dự án pháp luật, giám sát hoạt động của các đạibiểu do mình bầu ra, các nhân viên, các cơ quan nhà nước. Nhân dân còn thamgia quản lý nhà nước thông qua các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xãhội, các hội tự nguyện, các cơ quan, các tổ chức kinh tế tập thể.e. Nguyên tắc pháp chế Pháp chế xã hội chủ nghĩaLà việc đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dânphải tuân thủ pháp luật một cách triệt để và chính xác. Như vậy, pháp chế xã hộichủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, của các tổchức xã hội và các đoàn thể quần chúng; là nguyên tắc xử sự của công dân vàcác chủ thể khác trong xã hội. Điều 12, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nướcquản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủnghĩa… “chế trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý trong bộmáy nhà nước và ngay trong hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nướccũng có những cơ quan chuyên thực hiện chức năng này.f. Nguyên tắc Kế hoạch hóa Kế hoạch hoáLà việc đưa các hoạt động trong quản lý thành kế hoạch. Chỉ khi các hoạtđộng quản lý được lập thành kế hoạch thì mới tránh được sự tuỳ tiện trong quảnlý. Trong quản lý nhà nước, kế hoạch hoá là nguyên tắc cơ bản và cũng là đặctrưng của quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở chỗ: tất cả các cơ quanquản lý nhà nước đều tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch ở các cấp; hoạtđộng của bộ máy quản lý nhà nước nhằm thực hiện kế hoạch hoá việc phát triểnkinh tế – xã hội.g. Nguyên tác kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ Nhà nước làmột thể thống nhất.

Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo 4 cấp hành chính và theo

quy định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trungương; đó là quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương. Các đơn vị thuộc

11

các ngành kinh tế, kỹ thuật đều nằm trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Đơnvịđó phải chịu sự quản lý của ngành (bộ), đồng thời đơn vịđó cũng phải chịu sựquản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trên một số mặt theo chế độquy định. Hai mặt đó tạo thành một sự thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành vớicơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung. Vì vậy, phải kết hợpquản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Quản lý theo ngành và lãnh thổ phảicó sự kết hợp chặt chẽ. Quản lý theo ngành mà tách rời yếu tố lãnh thổ sẽ hàmchứa nguy cơ phá vỡ sự thống nhất của các quan hệ kinh tế trên lãnh thổ, sửdụng đồng bộ nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, năng lượng tại chỗ, làmphát triển xu hướng tập trung, quan liêu, cục bộ và khép kín trong ngành. Quảnlý theo lãnh thổ mà tách rời yếu tố ngành sẽ dẫn đến cục bộ địa phương, phá vỡtính hệ thống từ trung ương xuống địa phương của các ngành.h. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo quan hệ trực tuyến với chức năng trêncơ sở trực tuyến.Tổ chức cơ quan hay hệ thống cơ quan theo nguyên tắc trực tuyến có nghĩalà mỗi cơ quan cấp dưới chỉ có một cơ quan cấp trên có thẩm quyền ra lệnh chonó về mọi vấn đề để thực hiện mọi chức năng quản lý. Ở đây không có sự phâncông lao động giữa những chủ thể quản lý trong việc lãnh đạo một đối tượng bịquản lý. Tổ chức quản lý theo nguyên tắc chức năng có nghĩa là mỗi chức nănghay một nhóm chức năng quản lý một đối tượng bị quản lý được giao cho mộtcơ quan chuyên môn cấp trên của đối tượng đó thực hiện. Như vậy một đốitượng bị quản lý sẽ đồng thời trực thuộc nhiều các cơ quan chức năng cấp trên.Nguyên tắc trực tuyến đơn giản, quan hệ trách nhiệm giữa cấp trên và cấp dướirõ ràng, dễ dàng đảm bảo tính tổng thể đồng bộ trong quản lý. Nguyên tắc chức

năng trong tổ chức hệ thống quản lý có ưu thế là có điều kiện tăng cường tính

chuyên môn hoá trong quản lý, bảo đảm thực hiện có chất lượng từng chứcnăng quản lý riêng biệt. Song, tổ chức theo nguyên tắc chức năng làm phát sinhtình trạng một số đối lượng bị quản lý đồng thời trực thuộc nhiều quyền lực cấptrên, dễ nảy sinh mâu thuẫn trong quyết định của các cơ quan cấp trên đó trong

12

việc chỉ đạo cùng một đối tượng bị quản lý vì thiếu sự phối hợp hoặc quan điểmcục bộ ngành, từ đó dễ gây cản trở cho hoạt động của đối tượng bị quản lý; chếđộ, trách nhiệm không rõ ràng. Trong thời đại hiện nay, khối lượng chung củahoạt động quản lý tăng nhanh, đồng thời với việc phức tạp hoá của các mốiquan hệ quản lý nên việc tăng cường nguyên tắc chức năng nhằm bảo đảmchuyên môn hoá cao trong quản lý là cần thiết.Tuy vậy, vai trò quyết định vẫn thuộc về các cơ quan, bộ phận cấu thànhtheo nguyên tắc trực tuyến. Sở dĩ như vậy là vì:– Các cơ quan chức năng (ví dụ Uỷ ban nhà nước) cũng như các cơ quanquản lý ngành (ví dụ các Bộ) đều trực thuộc một trung tâm quản lý trực tuyếncơ bản (ví dụ Chính phủ). Các cơ quan quản lý ngành và các tổ chức quản lýchức năng (vụ, cục, ban) đều trực thuộc Bộ trưởng, Thứ trưởng, tức là nhữngngười lãnh đạo trực tuyến. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước cũng làngười lãnh đạo trực tuyến đối với các đơn vị, tổ chức cơ sở trực thuộc mà ởđâycác cơ quan chức năng của Bộ chỉđóng vai trò giúp Bộ trưởng chỉ đạo kiểm tragiám sát các cơ quan, đơn vị do Bộ quản lý.k. Nguyên tắc kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo với chế độ thủ trưởngTổ chức cơ quan theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo tức là bản thân cơ quanđó hoặc đứng đầu các cơ quan đó là một hội đồng, một uỷ ban hoặc một ban.Chế độ tập thể lãnh đạo tạo khả năng đưa vào bộ phận lãnh đạo cơ quanthànhviên là đại biểu của nhiều tổ chức, của nhiều tầng lớp, của các cấp, của cácngành khác nhau mở rộng cơ sở xã hội của cơ quan nhà nước làm tăng khả năng

nắm bắt và hiểu thêm các quá trình khác nhau, dư luận xã hội, nhu cầu của các

tầng lớp nhân dân… tạo điều kiện để thảo luận một cách đầy đủ, sâu sắc mọikhía cạnh của vấn đề, đảm bảo dân chủ trước khi quyết định, tránh bệnh quanliêu, lạm dụng quyền lực. Quyết định được thông qua theo đa số nhưng nhữngthành viên thuộc thiểu số vẫn có quyền bảo lưu, đề xuất lên cấp trên ý kiến củamình. Tổ chức theo chế độ tập thể bảo lãnh dễ làm nảy sinh tình trạng thiếutrách nhiệm của từng thành viên với góc độ cá nhân đối với quyết định đã thông

13

qua. Tổ chức cơ quan theo chế độ thủ trưởng lãnh đạo tức là đứng đầu cơ quanlà một người lãnh đạo. Chế độ thủ trưởng lãnh đạo có ưu thế là ra quyết địnhnhanh, đảm bảo tính kịp thời của quản lý, trách nhiệm đối với quyết định đã banhành rõ ràng. Điều đóđòi hỏi người thủ trưởng phải thực sự có năng lực, amhiểu và nắm chắc mọi việc thuộc phạm vi thẩm quyền, quyết đoán, năng độngvà dám chịu trách nhiệm Tổ chức theo chế độ thủ trưởng lãnh đạo dễ làm nảysinh khả năng xem xét vấn đề không toàn diện, thiếu sâu sắc, ra những quyếtđịnh vội vàng, phiến diện chủ quan, đôi khi cả lạm quyền. Vì cả hai hình thứcđều có những mặt ưu điểm và hạn chế nên phải kết hợp chúng thật hợp lý. Nộidung của nguyên tắc kết hợp 2 hình thức đã được Lênin chỉ rõ: “Nếu chế độ tậpthể lãnh đạo còn cần thiết trong việc thảo luận các vấn đề cơ bản thì cũng cần cóchế độ trách nhiệm cá nhân và cá nhân điều khiển để tránh hiện tượng lề mề vàhiện tượng trốn tránh trách nhiệm”.l. Nguyên tắc phân định chức năng và quyền hạnNguyên tắc này đòi hỏi phải phân định rõ thẩm quyền mỗi cơ quan, mỗicán bộ và quan hệ qua lại giữa các chủ thểđó với nhau. Việc tổ chức sắp xếp bộmáy quản lý phải căn cứ vào nhiệm vụ, chức năng quản lý, nhưng khi đã giaocho một cơ quan, một cán bộ thực hiện nhiệm vụ, chức năng nào đó thì phải traocho họ quyền hạn bởi đó là phương tiện thực hiện chức năng, nhiệm vụ đượcgiao. Đi đôi với vấn đề này phải lựa chọn và bố trí cán bộ đủ khả năng thực

hiệnchức năng và quyền hạn của cơ quan đó, nghĩa là phải đủ số lượng cán bộ

cần thiết, có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm thực tế. Liên quan vớinguyên tắc trên là nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan và người có thẩm quyền.Nguyên tắc này đòi hỏi khi thông qua quyết định quản lý phải xác định rõ ai làngười chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nó.Trong 9 nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính Nhà nước Việt Nam đãnêu trên đây thì 5 nguyên tắc đầu là các nguyên tắc chính trị – xã hội, 4 nguyên

tắc sau là các nguyên tắc kỹ thuật.

14

1.1.6 Các công cụ quản lý hành chính nhà nướcĐể thực hiện chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn mà Nhànước đã giao, các cơ quan hành chính nhà nước dùng 5 công cụ chủ yếu sau:– Công sở: Công sở là trụ sở cơ quan, là nơi làm việc của cơ quan; là nơiviên chức lãnh đạo, công chức và nhân viên thực thi công vụ, ban hành cácquyết định hành chính và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính; là nơigiao tiếp, đối nội, đối ngoại…– Công vụ: Công vụ là một dạng lao động xã hội của những người làmviệc trong công sở nhà nước. Công vụ được xác định từ chức năng, nhiệm vụ vàquyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước. Có 3 loại công vụ là lãnh đạo,chuyên gia và giúp việc. Số lượng công vụ được xác định từ số lượng nhiệm vụvà theo nguyên tắc một nhiệm vụ chỉ giao cho một người nhưng một người cóthể đảm nhiệm nhiều chức vụ.– Công chức: Công chức là người thực hiện công vụ nhà nước, đượchưởng lương và phụ cấp theo công việc được giao từ ngân sách nhà nước.– Công sản: Công sản là vốn và các điều kiện, phương tiện để hoạt động.– Quyết định hành chính: Quyết định hành chính nhà nước là sự biểu thị ýchí của Nhà nước, là kết quả thực hiện quyền hành pháp, mang tính mệnh lệnh

đơn phương của quyền lực nhà nước.

Ví dụ: Vấn đề quản lý tài sản công và công chức nhà nước hiện nayđang gặp nhiều khó khăn: việc sử dụng xa công để làm việc riêng hay sử dụngxe riêng gắn biển công cùng với việc dư thừa số công chức, viên chức trong cácbộ máy hành chính.

1.2

Một số vấn đề quản lý nhà nước về du lịch

1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước về du lịcha. Du lịch và một số khái niệm liên quanNgành kinh tế du lịch được hình thành và phát triển từ khi xã hội loài

người bước vào quá trình phân công lao động lớn. Lúc đầu có thể là những hiện

15

tượng riêng lẻ và cá biệt, sau đó trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến và trởthành nhu cầu không thể thiếu của con người.Trước thực tế phát triển của du lịch, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đếnthống nhất một số khái niệm cơ bản về du lịch, trong đó khái niệm du lịch làmột đòi hỏi cần thiết. Tuy nhiên do hoàn cảnh khác nhau, dưới góc độ nghiêncứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Ở nước ta,trong cuốn ” Du lịch và kinh doanh du lịch”, tiến sĩ Trần Nhạn đã viết: ” Du lịchlà quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác vớimục đích là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáovà khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được tính bằng đồngtiền”.Hiện nay, tổ chức du lịch thế giới WTO (Word Torism organisation) đãthống nhất khái niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên

trong làm cơ sở cho việc nghiên cứu các xu hướng và quy luật phát triển của nó.

Theo đó ” Du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phátsinh do sự tác động qua lại khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chínhquyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữkhách du lịch”. Định nghĩa này đã nêu bật lên được mối quan hệ, tác động qualại của cả hệ thống con người, tổ chức thực hiện du lịch.Du lịch được coi như một quá trình mà ở đớ có sự gặp nhau giữa lợi íchtinh thần của khách du lịch và lợi ích kinh tế của người kinh doanh du lịch. Nhucầu của khách du lịch càng cao thì đòi hỏi của hệ thống tổ chức thực hiện, kinhdoanh du lịch càng phải hoàn thiện.Như vậy:1. Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con ngườingoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìmhiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.2. Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợpđi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.

16

3. Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinhdoanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đếndu lịch.4. Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịchsử – văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân vănkhác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản đểhình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.5. Tham quan là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi có tàinguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài nguyêndu lịch.6. Đô thị du lịch là đô thị có lợi thế phát triển du lịch và du lịch có vai trò

quan trọng trong hoạt động của đô thị.

7. Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tàinguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhucầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môitrường.8. Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu thamquan của khách du lịch.9. Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sởcung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt,đường thuỷ, đường hàng không.10. Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầucủa khách du lịch trong chuyến đi du lịch.11. Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển,lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khácnhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.12. Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp cácdịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịchchủ yếu.

17

13. Chương trình du lịch là lịch trình, các dịch vụ và giá bán chương trìnhđược định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ nơi xuất phát đến điểm kếtthúc chuyến đi.14. Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toànbộ chương trình du lịch cho khách du lịch.15. Hướng dẫn du lịch là hoạt động hướng dẫn cho khách du lịch theochương trình du lịch.Người thực hiện hoạt động hướng dẫn được gọi là hướng dẫn viên và đượcthanh toán cho dịch vụ hướng dẫn du lịch.

16. Phương tiện chuyên vận chuyển khách du lịch là phương tiện bảo đảm

các điều kiện phục vụ khách du lịch, được sử dụng để vận chuyển khách du lịchtheo chương trình du lịch.17. Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằmtìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.18. Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầuhiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch củatương lai.19. Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bảnsắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bềnvững.20. Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộcvới sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoátruyền thống.21. Môi trường du lịch là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhânvăn nơi diễn ra các hoạt động du lịch.b. Quản lý nhà nước về du lịchDu lịch là một ngành kinh tế tương đối mới mẻ đối với các nước đang pháttriển, đặc biệt là đối với nước ta. Tuy vậy đây là một ngành kinh doanh dịch vụmang tính chiến lược trong giai đoạn phát triển của đất nước. Do vậy, quản lý

18

Nhà nước về du lịch là hết sức cần thiết. Bởi vì quản lý Nhà nước về du lịchchính là làm cho du lịch phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huymọi tiềm năng du lịch, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đóng góp vàongân sách Nhà nước.Quản lý nhà nước về du lịch là quà trình tác động của Nhà nước đến dulịch thông qua hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống chính sách phápluật với mục tiêu phát triển du lịch đúng định hướng của nhà nước. Tạo nên

trật tự trong hoạt động du lịch, làm cho du lịch thật sự trở thành một ngành

kinh tế mũi nhọn.1.2.2 Vai trò quản lý nhà nước về du lịchNgành kinh doanh du lịch giống như một cơ thể sống và luôn đòi hỏi sựquản lý sáng tạo để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngànhdu lịch cũng như nhu cầu nền kinh tế của một nước phụ thuộc hoàn toàn vàoviệc xây dựng một cách sáng tạo những chính sách thích hợp với điều kiện vàtrình độ phát triển của một đất nước. Do vậy, vấn đề quản lý Nhà nước đối vớidu lịch là một vấn đề cần thiết được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, du lịch mớitrong giai đoạn đầu phát triển, còn gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn do vậycần có sự tham gia chỉ đạo và định hướng của Nhà nước để du lịch phát triển. Vìvậy, quản lý du lịch trong nền kinh tế thị trường của Nhà nước có vai trò hết sứcquan trọng.– Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên,mặt khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở việcđịnh hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như ngành kinh tế du lịchnói riêng trong từng thời kỳ.– Để giải quyết các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường, duy trì sự ổnđịnh cũng như thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.– Tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối hợp các hoạt động của cơ

quan quản lý Nhà nước về du lịch. Đồng thời giúp cho việc khai thác các thế

19

mạnh của từng vùng, từng địa phương đạt kết quả. Hơn nữa, phát huy lợi thế sosánh của quốc gia trong phát triển du lịch quốc tế.– Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Nó liên quan đếnnhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau do vậy cần có sự quản lý của Nhà nướcđể điều hoà mối quan hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vực liên quan.

1.2.3 Đối tượng quản lý nhà nước về du lịch

• Đối tượng quản lý nhà nước về du lịch bao gồm:a. Quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương-Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung ương gồm:+Tổng cục du lịch cùng các vụ chức năng+Các bộ ngành quản lya các lĩnh vực kinh tế xã hội cùng các bộ phận củanó có chức năng quản lý ngành như: Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, Bộ Kếhoạch đàu tư,..+Các Bộ, ngành hữu quan tạo điều kiện cho phát triển du lịch: Hàngkhông, Hải quan, Ngoại giao, Công an,…-Nội dung của quản lý nhà nước về du lịch:+Lập quy hoạch tổng thể phát triển về du lịch của quốc gia+Ban hành các chính sách chung cho toàn ngành du lịch+Phối kết hợp với các bộ ngành có liên quan đến phát triển du lịch: Giaothông vận tải, Bưu chính viến thông,…b. Quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương– Ở địa phương, trong cơ cấu bộ máy nhà nước cũng có các cơ quantương tự như ở cấp trung ương, nhưng chỉ có chức năng quản lý ở địa bàn vàchịu sự chỉ đạo của các cơ quan ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước trungương.– Nội dung quản lý nhà nước về du lịch ở cấp trung ương:+Xây dựng các đề án và kế hoạchphát triển du lịch trên địa bàn+Nghiên cứu đề xuất việc xây dựng các chính sách phù hợp với tình hìnhhoạt động c ủa địa phương.

20

+Hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện các chính sách quy định và nghiệpvụ chuyên môn+Xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt

động du lịch

Xem thêm: Học Lý Thuyết 600 Câu – Thầy Tâm

+Giúp đỡ đào tạo bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ chuyên môn cho các doanhnghiệp du lịch..• Đối tượng của quản lý nhà nước về du lịch là: hoạt động du lịch, cơ quantổ chức các hoạt động du lịch, khách du lịch.1.2.4 Chức năng quản lý nhà nước về du lịcha. Chức năng hoạch định.– Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động dulịch, xác lập các chương trình, các dự án, cụ thể hoá các chiến lược, đặc biệt làcác lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.– Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thựchiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý chohoạt động du lịch.– Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phươnghướng hình thành các phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúptạo lập môi trường kinh doanh vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soát hoạtđộng của các doanh nghiệp và các chủ kinh doanh du lịch trên thị trường.b. Chức năng tổ chức và phối hợp.– Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý vềdu lịch, sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, các chínhsách, các văn bản quy phạm pháp luật… đồng thời thực hiện những vấn đề thuộcvề quản lý Nhà nước nhằm đưa chính sách phù hợp về du lịch và thực tiễn, biếnquy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.– Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý Nhà nước vềdu lịch với các cấp trong hệ thống quản lý du lịch của trung ương, tỉnh ( thànhphố), quận (huyện, thị xã).

21

– Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự phối
hợp giữa các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh

tế, thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hoá đa phương thức quan hệhợp tác quốc tế trong du lịch đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các camkết đã ký.– Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồnnhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyêndu lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tụccủa dân tộc trong hoạt động du lịch.c. Chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường.– Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt độngtheo định hướng đã vạch ra. Can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết đảm bảoổn định kinh tế vĩ mô.– Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết, canthiệp thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mẫu các quanhệ trao đổi.– Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tài chính, kết cấu hạtầng của thị trường và bảo vệ kinh tế Nhà nước đúng pháp luật nhằm chống thấtthoát, đảm bảo sinh lợi và tăng thu cho nhân sách Nhà nước.d. Chức năng kiểm soát.– Giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độquản lý của các chủ thể đó. Cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạtđộng du lịch.– Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạp pháp luậtvà những quy định của Nhà nước.– Kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý du lịch củaNhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước

về du lịch.

22

: ĐH5QTDLHÀ NỘI, 2016M ỤC LỤCb. Quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương …………………………. 20C hương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀDU LỊCH1. 1M ột số yếu tố chung về quản lý nhà nước1. 1.1 Một số khái niệma. Khái niệm quản lýHiện nay có nhiều cách lý giải thuật ngữ quản lý, có ý niệm chorằng quản lý là quản lý ; cũng có ý niệm cho rằng quản lý là quản lý và điều hành, điềukhiển, chỉ huy. Quan niệm chung nhất về quản lý được nhiều người đồng ý : Quản lý làsự ảnh hưởng tác động xu thế bất kể lên một mạng lưới hệ thống nào đó nhằm mục đích trật tự hóa vàhướng nó tăng trưởng tương thích với những quy luật nhất định. Quan niệm nàykhông những tương thích với mạng lưới hệ thống máy móc thiết bị, khung hình sống, mà còn phùhợp với một tập thể người, một tổ chức triển khai hay một cơ quan nhà nước. Hiểu theo góc nhìn hành vi, quản lý là tinh chỉnh và điều khiển và được phân thành 3 loại. Các mô hình này giống nhau là đều do con người tinh chỉnh và điều khiển nhưng khácnhau về đối tượng người dùng quản lý. Loại hình thứ nhất : là việc con người điều khiển và tinh chỉnh những vật hữu sinh khôngphải con người, để bắt chúng phải triển khai ý đồ của người tinh chỉnh và điều khiển. Loạihình này được gọi là quản lý sinh học, quản lý vạn vật thiên nhiên, quản lý môi trường tự nhiên … Ví dụ con người quản lý vật nuôi, cây xanh … Loại hình thứ hai : là việc con người tinh chỉnh và điều khiển những vật vô tri vô giác để bắtchúng thực thi ý đồ của người điều khiển và tinh chỉnh. Loại hình này được gọi là quản lýkỹ thuật. Ví dụ, con người điều khiển và tinh chỉnh những loại máy móc … Loại hình thứ ba : là việc con người điều khiển và tinh chỉnh con người. Loại hình nàyđược gọi là quản lý xã hội ( hay quản lý con người ). Quản lý xã hội được Máccoi là công dụng quản lý đặc biệt quan trọng được sinh ra từ đặc thù xã hội hoá lao động. Hiện nay, khi nói đến quản lý, thường người ta chỉ nghĩ đến quản lý xã hội. Vìvậy sau đây tất cả chúng ta chỉ nghiên cứu và điều tra mô hình quản lý thứ ba này, tức là quản lýxã hội. Từ đó hoàn toàn có thể đưa ra khái niệm quản lý theo nghĩa hẹp ( tức là quản lý xãhội ) như sau : Quản lý là sự tác động ảnh hưởng chỉ huy, điều khiển và tinh chỉnh những quy trình xã hội vàhành vi hoạt động giải trí của con người để chúng tăng trưởng tương thích với quy luật, đạttới mục tiêu đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý. Quản lý Xã hội là một yếu tố rất là quan trọng không hề thiếu trong đờisống xã hội. Xã hội càng tăng trưởng thì vai trò của người quản lý càng lớn, nộidung quản lý càng phức tạp. b. Khái niệm về quản lý nhà nướcTrong mạng lưới hệ thống những chủ thể quản lý xã hội Nhà nước là chủ thể duy nhấtquản lý xã hội toàn dân, tổng lực bằng pháp lý. Cụ thể như sau : – Nhà nước quản lý toàn dân là nhà nước quản lý hàng loạt những ngườisống và thao tác trên chủ quyền lãnh thổ vương quốc, gồm có công dân và những ngườikhông phải là công dân. – Nhà nước quản lý tổng lực là nhà nước quản lý hàng loạt những nghành củađời sống xã hội theo nguyên tắc phối hợp quản lý theo ngành với quản lý theolãnh thổ. – Nhà nước quản lý hàng loạt những nghành đời sống xã hội có nghĩa là những cơquan quản lý kiểm soát và điều chỉnh mọi góc nhìn hoạt động giải trí của xã hội trên cơ sở phápluật lao lý. – Nhà nước quản lý bằng pháp lý là nhà nước lấy pháp lý làm công cụxử lý những hành vi vi phạm pháp lý theo luật định một cách nghiêm minh. Vậy Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực tối cao nhànước, được sử dụng quyền lực tối cao nhà nước để kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội vàhành vi hoạt động giải trí của con người để duy trì, tăng trưởng những mối quan hệ xã hội, trật tự pháp lý nhằm mục đích thực thi công dụng và trách nhiệm của Nhà nước. Quản lý xã hội là triển khai những công dụng tổ chức triển khai nhằm mục đích tạo những điềukiện thiết yếu để đạt những mục tiêu đề ra trong quy trình hoạt động giải trí chung củacon người trong xã hội. Vì vậy, từ khi Open nhà nước, quản lý xã hội đượcnhà nước tiếp đón. Nhưng quản lý xã hội không chỉ do nhà nước với tư cách làmột tổ chức triển khai chính trị đặc biệt quan trọng thực thi, mà còn do tổng thể những bộ phận khác cấuthành mạng lưới hệ thống chính trị thực thi như : những chính đảng, tổ chức triển khai xã hội … Ở gócđộ hoạt động giải trí kinh tế tài chính, văn hoá – xã hội, chủ thể quản lý xã hội còn là mái ấm gia đình, những tổ chức triển khai tư nhân. Quản lý nhà nước là những việc làm của nhà nước, được thực thi bởi tất cảcác cơ quan nhà nước cũng có khi do nhân dân trực tiếp thực thi bằng hìnhthức bỏ phiếu hoặc do những tổ chức triển khai xã hội, những cơ quan xã hội thực thi nếuđược nhà nước giao quyền triển khai tính năng nhà nước. Quản lý nhà nướcthực chất là sự quản lý có đặc thù nhà nước, do nhà nước thực thi thông quabộ máy nhà nước trên cơ sở quyền lực tối cao nhà nước nhằm mục đích thực thi những trách nhiệm, công dụng của nhà nước là mạng lưới hệ thống cơ quan được xây dựng để chuyên thựchiện hoạt động giải trí quản lý nhà nước. c. Khái niệm về quản lý hành chính nhà nướcQuản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí hành chính của cơ quan thực thiquyền lực nhà nước ( quyền hành pháp ) để quản lý, quản lý và điều hành những nghành nghề dịch vụ củađời sống xã hội theo pháp luật của pháp lý, đó là nhà nước và Uỷ ban nhândân những cấp. Tuy mạng lưới hệ thống những cơ quan : quyền lực tối cao, xét xử và kiểm sát thực hiệnquyền lập pháp và tư pháp không thuộc mạng lưới hệ thống quản lý hành chính nhà nướcnhưng trong chính sách quản lý và vận hành của nó cũng có công tác làm việc hành chính như chếđộcông vụ, công tác làm việc tổ chức triển khai cán bộ … và phần công tác làm việc này cũng phải tuân thủnhững lao lý thống nhất của nền hành chính nhà nước. Quyền hành pháp có 2 nội dung : – Một là được triển khai bằng việc phát hành những văn bản quy phạm pháp luậtđể hướng dẫn thực thi pháp lý. – Hai là quản lý hành chính nhà nước tức là tổ chức triển khai, điều hành quản lý, phối hợp cáchoạt động kinh tế – xã hội để đưa lao lý vào đời sống xã hội. Các cơ quanhành chính nhà nước thực thi quyền hành pháp, không có quyền lập pháp và tưpháp nhưng góp thêm phần quan trọng vào quy trình lập pháp và tư pháp. Như vậy, tổchức và hoạt động giải trí hành chính có khoanh vùng phạm vi rộng hơn việc thực thi quyền hànhpháp. Nhà nước quản lý quốc gia bằng pháp lý chứ không chỉ bằng đạo lý. Phápluật là thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, biểu lộ ý chí của nhân dân, phải được thực thi thống nhất trong cả nước tuân theo pháp lý là chấp hànhđường lối, chủ trương của Đảng. Như vậy, hoàn toàn có thể hiểu : Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí thực thiquyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác động ảnh hưởng có tổ chức triển khai và điều chỉnhbằng quyền lực tối cao pháp lý nhà nước so với những quy trình xã hội và hành vi hoạtđộng của con người để duy trì và tăng trưởng những mối quan hệ xã hội và trật tựpháp luật nhằm mục đích thực thi những công dụng và trách nhiệm của Nhà nước trongcông cuộc kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, docác cơ quan trong hệ thông quản lý hành chính từ Chính phủở Trung ươngxuống Uỷ ban nhân dân những cấp ở địa phương thực thi. Từ khái niệm về quản lý hành chính nhà nước như trên, tất cả chúng ta thấy quảnlý hành chính nhà nước có 3 nội dung sau : Quản lý hành chính nhà nước là sự hoạt động giải trí thực thi quyền hành pháp : Hành pháp là một trong ba quyền của quyền lực tối cao nhà nước thống nhất mang tínhquyền lực chính trị. nhà nước với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất ( cơquan chấp hành của Quốc hội ) thực thi quyền hành pháp cao nhất so với toàndân, toàn xã hội. Nhưng, nhà nước triển khai công dụng của mình trải qua hệthống thể chế hành chính của nền hành chính nhà nước cao nhất. Hành pháp làquyền lực chính trị ; quản lý hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp, nó phục tùng và Giao hàng quyền hành pháp nhưng bản thân nó không phải làquyền lực chính trị. Quản lý hành chính là sự tác động ảnh hưởng có tổ chức triển khai và kiểm soát và điều chỉnh : Trong quản lýhành chính nhà nước, tính năng tổ chức triển khai là quan trọng nhất vì không có tổ chứcthì không hề quản lý được. Nhà nước phải tổ chức triển khai như thế nào để mọi ngườiđều có vị trí tích cực so với xã hội, góp thêm phần tạo ra quyền lợi cho xã hội. Điềuchỉnh là pháp luật về mặt pháp lý bộc lộ bằng những quyết định hành động quản lý về quytắc, tiêu chuẩn, giải pháp … nhằm mục đích tạo ra sự tương thích giữa chủ thể và khách thểquản lý, tạo sự cân đối, cân đối giữa những mặt hoạt động giải trí của quy trình xã hội vàhành vi hoạt động giải trí của con người. Quản lý hành chính nhà nước là sự ảnh hưởng tác động bằng quyền lực tối cao nhà nước : Sựtác động bằng quyền lực tối cao nhà nước là sự tác động ảnh hưởng bằng pháp lý theo nguyêntắc pháp chế. Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổchức rất cao. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bìnhđẳng trước pháp lý. 1.1.2 Bản chất của quản lý nhà nướcBản chất của quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí chấp hành và điềuhành. Điều hành là việc chỉ huy trực tiếp đối tượng người tiêu dùng bị quản lý. Trong hoạt độngđiều hành, cơ quan quản lý hoàn toàn có thể đụng những hình thức ảnh hưởng tác động trực tiếp vànhững hình thức ít mang tính pháp lý. Chấp hành biểu lộ ở việc thực thiệnhtrên trong thực tiễn những luật và những văn bản mang tính luật của nhà nước. 1.1.3 Đặc điểm của quản lý nhà nướcQuản lý hành chính nhà nước mang những đặc thù đa phần sau : Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực tối cao, tính tổ chức triển khai và tínhmệnh lệnh đơn phương của nhà nước : Khách thể quản lý phải phục tùng chủ thểquản lý một cách tráng lệ nếu không, phải truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm và xử lýtheo pháp lý một cách nghiêm minh, bình đẳng. Quản lý hành chính nhà nướccó tiềm năng kế hoạch, có chương trình và có kê ‘ hoạch để thực thi tiềm năng. Đặc điểm này yên cầu công tác làm việc quản lý nhà nước phải có chương trình, kế hoạchdài hạn, trung hạn và hàng năm có chỉ tiêu và giải pháp cụ thểđể thực thi cácchỉ tiêu. Quản lý hành chính nhà nước có tính dữ thế chủ động, tính phát minh sáng tạo và linhhoạt cao : Tính dữ thế chủ động, phát minh sáng tạo biểu lộ ở hoạt động giải trí thiết kế xây dựng những văn bảnpháp quy hành chính kiểm soát và điều chỉnh những hoạt động giải trí quản lý, kiểm soát và điều chỉnh những quanhệ mới phát sinh chưa không thay đổi và chưa được luật kiểm soát và điều chỉnh. Nó được quy địnhbởi chính bản thân sự phức tạp, đa dạng chủng loại phong phú của khách thể quản lý. Những khách thể đó là mọi mặt của đời sống xã hội luôn dịch chuyển và pháttriển, yên cầu phải ứng phó nhạy bén kịp thời, vận dụng phát minh sáng tạo pháp lý, tìm kiếm giải pháp xử lý mọi trường hợp phát sinh một cách có hiệu suất cao. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí mang tính dưới luật : luật thểhiện ở chỗ bản thân hoạt động giải trí quản lý là hoạt động giải trí chấp hành pháp lý và điềuhành trên cơ sở luật. Các quyết định hành động phát hành trong hoạt động giải trí quản lý nhà nướcphải tương thích với pháp lý và những văn bản của những cơ quan nhà nước cấp trên, nếu xích míc sẽ bị đình chỉ và bãi bỏ. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí được bảo vệ về phươngdiện tổ chức triển khai cỗ máy và cơ sở vật chất mà trước hết là cỗ máy cơ quan hànhchính : Đây là mạng lưới hệ thống nhiều về số lượng cơ quan cũng như số lượng biên chế, phức tạp về tổ chức triển khai, cơ cấu tổ chức và rất phong phú về công dụng, trách nhiệm cũng nhưhình thức, giải pháp hoạt động giải trí. Đặc điểm này bộc lộ tiềm năng to lớn củaquản lý hành chính nhà nước tuy nhiên cũng làm phát sinh những tác động ảnh hưởng tiêucực do cỗ máy quá cồng kềnh. Đồng thời, hoạt động giải trí quản lý hành chính nhànước được bảo vệ về nguồn lực và phương tiện đi lại kinh tế tài chính dồi dào cũng như cáctài sản khác ( nhà xưởng, thiết bị, máy móc … ). Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí mang tính kinh tế tài chính : Hoạt độngkinh tế là công dụng quan trọng của bất kể nhà nước. Mọi nhà nước thực hiệnchức năng quản lý hành chính của mình cũng là nhằm mục đích Giao hàng nền kinh tế tài chính đó, nên hoàn toàn có thể nói quản lý hành chính nhà nước mang tính kinh tế tài chính. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí mang tính chính trị rõ ràng : Nhà nước là một tổ chức triển khai chính trị biểu lộ ý chí của giai cấp thống trị và ý chíđó được những cơ quan nhà nước đưa vào đời sống. Khi cỗ máy nhà nước hoạtđộng, quản lý hành chính nhà nước là những kênh triển khai quyền lực tối cao nhànước. Vì vậy, khi xử lý bất kể yếu tố nào trong công tác làm việc quản lý hànhchính luôn luôn phải tính đến trách nhiệm và tiềm năng chính trị. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí có tính chuyên nghiệp, liêntục : Tính chuyên nghiệp yên cầu cán bộ quản lý không chỉ cần có kiến thức và kỹ năng và lýluận quản lý hành chính nhà nước mà còn phải vững vàng về mặt pháp lý, hiểubiết về cỗ máy nhà nước, có kinh nghiệm tay nghề thực tiễn và yên cầu phải có kiến thứcchuyên môn nhiệm vụ về ngành, về nghành nghề dịch vụ khoa học kỹ thuật hoặc sản xuấtmà mình đảm nhiệm. Tính liên tục yên cầu hoạt động giải trí quản lý hành chính nhànước phải được triển khai tiếp tục liên tục không bị gián đoạn. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí có tính thứ bậc ngặt nghèo : Quản lý hành chính nhà nước là mạng lưới hệ thống thông suốt lừ trên xuống dưới, cấpdưới phục tùng cấp trên, nhận thông tư và chịu sự kiểm tra liên tục của cấptrên ( khác với những cơ quan dân cử hay mạng lưới hệ thống cơ quan xét xử ). Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động giải trí không mang tính vụ lợi : Quảnlý hành chính nhà nước có trách nhiệm là ship hàng quyền lợi công và Quản lý hànhchính nhà nước có trách nhiệm là ship hàng quyền lợi công và quyền lợi của công dân nênkhông được yên cầu người được ship hàng phải trả thù lao, không được theo đuổimục tiêu doanh lợi nên hơn bất kể tổ chức triển khai nào trong xã hội, nó phải mang tínhchất vô tư, công tâm, trong sáng, liêm khiết nhất. 1.1.4 Chức năng của quản lý nhà nướcQuản lý hành chính nhà nước có 1 số ít tính năng cơ bản như sau : Chức năng dự báo : là sự phán đoán trước trên cơ sở thông tin chính xácvà Tóm lại khoa học về năng lực tăng trưởng, thiếu nó không hề xác lập trạngthái tương lai của xã hội do đó nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để triển khai tết những chứcnăng quản lý khác. Chức năng kế hoạch hóa : là xác lập tiềm năng trách nhiệm đơn cử về tỷ suất, vận tốc, phương hướng và chỉ tiêu về số lượng, chất lượng đơn cử. Chức năng tổ chức triển khai : là hoạt tạo lập mạng lưới hệ thống quản lý và bị quản lý. Tổchức là hoạt động giải trí xây dựng, giải thể, hợp nhất, phân định công dụng, trách nhiệm, xác lập những quan hệ qua lại, lựa chọn sắp xếp cán bộ. Chức năng kiểm soát và điều chỉnh : là công dụng có mục tiêu thiết lập chính sách cho hoạtđộng nào đó mà không ảnh hưởng tác động trực tiếp đến nội dung hoạt động giải trí, nó được thựchiện bằng việc phát hành những văn bản pháp quy. Chức năng chỉ huy : là tính năng xu thế cho hoạt động giải trí quản lý, xác lập cách xử sự của những đối tượng người dùng bị quản lý trải qua hình thức ban hànhcác chủ trương đường lối có đặc thù kế hoạch. Chức năng điều hành quản lý : là hoạt động giải trí chỉ huy trực tiếp hành vi của đốitượng bị quản lý trải qua việc phát hành những quyết định hành động riêng biệt, đơn cử có tínhchất tác nghiệp. Đây là tính năng đặc trưng của những chủ thể quản lý cấp ” vĩmô “. Chức năng phối hợp ( còn gọi là công dụng điều hoà ) : là sự phối hợp cáchoạt động riêng rẽ của từng người, cơ quan, tổ chức triển khai thừa hành để triển khai cácnhiệm vụ chung. Trong điều kiện kèm theo khoa học kỹ thuật tăng trưởng, quy trình chuyênmôn hoá thâm thúy, nhiều quy trình diễn ra đồng thời với khuynh hướng ngày càng xuấthiện nhiều yếu tố phải xử lý theo quan điểm tổng thể và toàn diện thì hoạt động giải trí điềuhòa phối hợp càng có ý nghĩa quan trọng. Chức năng kiểm tra : là tính năng quản lý có ý nghĩa xác lập xem thựctế hoạt động giải trí của đối tượng người dùng bị quản lý tương thích hay không tương thích với trạng tháiđịnh trước. Nó được cho phép phát hiện và vô hiệu những rơi lệch hoàn toàn có thể có của đốitượng bị quản lý hoặc chỉnh lý lại những quyết định hành động đã phát hành trước đây cho phùhợp với trong thực tiễn và nhu yếu của trách nhiệm quản lý. Các công dụng quản lý nằmtrong một mạng lưới hệ thống thống nhất tương quan ngặt nghèo với nhau. Chức năng này cóthể là khách thể của một tính năng khác và ngược lại. Ví dụ : kiểm soát và điều chỉnh công tác làm việc tổ chức triển khai, kiểm tra việc làm dự báo – điềuhành, điều hoà phối hợp hoạt động giải trí kế hoạch. 1.1.5 Nguyên tắc trong quản lý nhà nướcNguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng chỉ huy, làmnền tảng cho tổ chức triển khai và hoạt động giải trí quản lý hành chính nhà nước Nguyên tắcquản lý hành chính nhà nước Nước Ta có những đặc thù sau : – Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính pháp lý vì cácnguyên tắc này thường được chỉ ra trong những nghị quyết của Đảng, được ghinhận trong những văn bản của những cơ quan quản lý nhà nước, chúng còn được ghinhận trong văn bản của những tổ chức triển khai xã hội khi được giao quyền hạn quản lý nhànước hoặc tham gia quản lý nhà nước. – Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính khách quan khoahọc chính bới chúng được thiết kế xây dựng, được rút ra từ thực tiễn đời sống trên cơ sởnghiên cứu một cách thâm thúy những quy luật tăng trưởng khách quan, cơ bản của đờisống xã hội. – Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chủ quan bởi vìchúng là tư tưởng, chúng được con người kiến thiết xây dựng nên, được rút ra từ thực tếcuộc sống nhờ có con người trải qua bộ óc con người. – Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính không thay đổi cao bởi chúngphản ánh những nguyên tắc cơ bản nhất của những quy luật cơ bản nhất của thựctiễn quản lý mà bản thân quy luật này mang tính không thay đổi. Tuy vậy, chúng không phải là không bao giờ thay đổi do tại đời sống luôn luôn pháttriển cùng với những quy luật đó. Trong quản lý hành chính Nhà nước Nước Ta có9 nguyên tắc cơ bản sau : a. Nguyên tắc bảo vệ sự chỉ huy của Đảng cộng sản so với Nhà nước. Sự chỉ huy của Đảng so với Nhà nước là sự chỉ huy chính trị. Đảng đềra đường lối chính trị ( cương lĩnh kế hoạch ), những chủ trương phương hướnglớn, những yếu tố quan trọng về tổ chức triển khai cỗ máy và trải qua Nhà nước chúngđược thể chế hoá thành pháp lý. Trước hết, Đảng chỉ huy quản lý nhà nướcbằng nghị quyết của những cơ quan của Đảng ở những cấp ; trong đó vạch ra đườnglối, chủ trương chủ trương, trách nhiệm cho quản lý nhà nước, cho những mắt xíchkhác nhau của cỗ máy quản lý hội. Các cơ quan nhà nước ở địa phương và cáccơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước TW và những cơ quancấp trên. Trong khoanh vùng phạm vi thẩm quyền, những cơ quan nhà nước địa phương và cáccơ quan nhà nước cấp dưới tự quyết định hành động và chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về những vấn đềcủa địa phương. Các cơ quan nhà nước ở TW và những cơ quan cấp trênphải tạo điều kiện kèm theo cho cơ quan ở địa phương và cấp dưới phát huy quyền chủđộng, phát minh sáng tạo góp thêm phần vào sự nghiệp chung của cả nước. b. Nguyên tắc tập trung chuyên sâu dân chủĐòi hỏi cấp trên phải liên tục kiểm tra cấp dưới trong việc thực hiệncác quyết định hành động và thông tư của cơ quan cấp trên, triển khai chính sách thông tin, báocáo liên tục giữa cấp trên và cấp dưới ; phải bảo vệ kỷ luật nghiêm minhtrong tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của những cơ quan nhà nước phải vận dụng linh động, tuỳ tình hình thực tiễn và điều kiện kèm theo ở mỗi địa phương mà biến hóa cho tương thích. Như vậy nghệ thuật và thẩm mỹ của việc vận dụng nguyên tắc tập trung chuyên sâu dân chủ là tìm tỷ lệkết hợp tối ưu của hai mặt tập trung chuyên sâu và dân chủ trong tổ chức triển khai và hoạt động giải trí củatừng nghành từng ngành đơn cử trong từng quá trình, từng thực trạng, thậm chílà từng yếu tố đơn cử. Nguyên tắc này được xác lập trong Điều 6, Hiến pháp1992 : ” Quốc hội, Hội đồng nhân dân và những cơ quan khác của nhà nước đều tổchức và hoạt động giải trí theo nguyên tắc tập trung chuyên sâu dân chủ “. c. Nguyên tắc lôi cuốn nhân dân tham gia quản lý nhà nướcNguyên tắc này bộc lộ thực chất của cỗ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa làcủa nhân dân, do dân và vì nhân dân. Thực hiện nguyên tắc bảo vệ sự thamgia phần đông của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước không những tạo rakhả năng phát huy sức lực lao động và trí tuệ của nhân dân mà còn là một trong nhữngphương pháp tết để ngăn ngừa tệ nạn quan liêu, thói cửa quyền trong bộ máynhà nước. d. Nguyên tắc bảo vệ quyền tham gia của nhân dân vào quản lý nhànướcĐiều 53, Hiến pháp 1992 ghi rõ : ” Công dân có quyền tham gia quản lýNhà nước và xã hội, tham gia tranh luận những yếu tố chung của cả nước và địaphương, kiên nghị và những cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chứctrưng cầu ý dân “. Nhân dân chính là người tạo lập ra cỗ máy nhà nước thôngqua việc bầu những đại diện thay mặt của mình vào những cơ quan quyền lực nhà nước. Nhân10dân tham gia quản lý nhà nước dưới những hình thức như : trực tiếp bỏ phiếu quyếtđịnh những yếu tố trọng đại của địa phương, trực tiếp thao tác với cơ quan nhànước, tham gia luận bàn những dự án Bất Động Sản pháp lý, giám sát hoạt động giải trí của những đạibiểu do mình bầu ra, những nhân viên cấp dưới, những cơ quan nhà nước. Nhân dân còn thamgia quản lý nhà nước trải qua những tổ chức triển khai chính trị – xã hội, những tổ chức triển khai xãhội, những hội tự nguyện, những cơ quan, những tổ chức triển khai kinh tế tài chính tập thể. e. Nguyên tắc pháp chế Pháp chế xã hội chủ nghĩaLà việc yên cầu những cơ quan nhà nước, những tổ chức triển khai xã hội và mọi công dânphải tuân thủ pháp lý một cách triệt để và đúng mực. Như vậy, pháp chế xã hộichủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức triển khai hoạt động giải trí của cỗ máy nhà nước, của những tổchức xã hội và những đoàn thể quần chúng ; là nguyên tắc xử sự của công dân vàcác chủ thể khác trong xã hội. Điều 12, Hiến pháp 1992 lao lý : ” Nhà nướcquản lý xã hội bằng pháp lý, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủnghĩa … ” chế trở thành công dụng quan trọng của mọi cơ quan quản lý trong bộmáy nhà nước và ngay trong mạng lưới hệ thống những cơ quan quản lý hành chính nhà nướccũng có những cơ quan chuyên triển khai tính năng này. f. Nguyên tắc Kế hoạch hóa Kế hoạch hoáLà việc đưa những hoạt động giải trí trong quản lý thành kế hoạch. Chỉ khi những hoạtđộng quản lý được lập thành kế hoạch thì mới tránh được sự tuỳ tiện trong quảnlý. Trong quản lý nhà nước, kế hoạch hoá là nguyên tắc cơ bản và cũng là đặctrưng của quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, biểu lộ ở chỗ : toàn bộ những cơ quanquản lý nhà nước đều tham gia vào quy trình thiết kế xây dựng kế hoạch ở những cấp ; hoạtđộng của cỗ máy quản lý nhà nước nhằm mục đích thực thi kế hoạch hoá việc phát triểnkinh tế – xã hội. g. Nguyên tác phối hợp quản lý theo ngành và theo chủ quyền lãnh thổ Nhà nước làmột thể thống nhất. Bộ máy nhà nước được tổ chức triển khai và hoạt động giải trí theo 4 cấp hành chính và theoquy định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trungương ; đó là quản lý theo chủ quyền lãnh thổ của chính quyền sở tại địa phương. Các đơn vị chức năng thuộc11các ngành kinh tế tài chính, kỹ thuật đều nằm trên một địa phận chủ quyền lãnh thổ nhất định. Đơnvịđó phải chịu sự quản lý của ngành ( bộ ), đồng thời đơn vịđó cũng phải chịu sựquản lý theo chủ quyền lãnh thổ của chính quyền sở tại địa phương trên 1 số ít mặt theo chế độquy định. Hai mặt đó tạo thành một sự thống nhất giữa cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính ngành vớicơ cấu kinh tế tài chính chủ quyền lãnh thổ trong một cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính chung. Vì vậy, phải kết hợpquản lý theo ngành và theo vùng chủ quyền lãnh thổ. Quản lý theo ngành và chủ quyền lãnh thổ phảicó sự phối hợp ngặt nghèo. Quản lý theo ngành mà tách rời yếu tố chủ quyền lãnh thổ sẽ hàmchứa rủi ro tiềm ẩn phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ kinh tế tài chính trên chủ quyền lãnh thổ, sửdụng đồng điệu nguồn nhân lực, tài nguyên vạn vật thiên nhiên, nguồn năng lượng tại chỗ, làmphát triển khuynh hướng tập trung chuyên sâu, quan liêu, cục bộ và khép kín trong ngành. Quảnlý theo chủ quyền lãnh thổ mà tách rời yếu tố ngành sẽ dẫn đến cục bộ địa phương, phá vỡtính mạng lưới hệ thống từ TW xuống địa phương của những ngành. h. Nguyên tắc tích hợp quản lý theo quan hệ trực tuyến với tính năng trêncơ sở trực tuyến. Tổ chức cơ quan hay mạng lưới hệ thống cơ quan theo nguyên tắc trực tuyến có nghĩalà mỗi cơ quan cấp dưới chỉ có một cơ quan cấp trên có thẩm quyền ra lệnh chonó về mọi yếu tố để thực thi mọi công dụng quản lý. Ở đây không có sự phâncông lao động giữa những chủ thể quản lý trong việc chỉ huy một đối tượng người dùng bịquản lý. Tổ chức quản lý theo nguyên tắc tính năng có nghĩa là mỗi chức nănghay một nhóm chức năng quản lý một đối tượng người tiêu dùng bị quản lý được giao cho mộtcơ quan chuyên môn cấp trên của đối tượng người tiêu dùng đó triển khai. Như vậy một đốitượng bị quản lý sẽ đồng thời thường trực nhiều những cơ quan chức năng cấp trên. Nguyên tắc trực tuyến đơn thuần, quan hệ nghĩa vụ và trách nhiệm giữa cấp trên và cấp dướirõ ràng, thuận tiện bảo vệ tính tổng thể và toàn diện đồng điệu trong quản lý. Nguyên tắc chứcnăng trong tổ chức triển khai mạng lưới hệ thống quản lý có lợi thế là có điều kiện kèm theo tăng cường tínhchuyên môn hoá trong quản lý, bảo vệ triển khai có chất lượng từng chứcnăng quản lý riêng không liên quan gì đến nhau. Song, tổ chức triển khai theo nguyên tắc tính năng làm phát sinhtình trạng 1 số ít đối lượng bị quản lý đồng thời thường trực nhiều quyền lực tối cao cấptrên, dễ phát sinh xích míc trong quyết định hành động của những cơ quan cấp trên đó trong12việc chỉ huy cùng một đối tượng người tiêu dùng bị quản lý vì thiếu sự phối hợp hoặc quan điểmcục bộ ngành, từ đó dễ gây cản trở cho hoạt động giải trí của đối tượng người tiêu dùng bị quản lý ; chếđộ, nghĩa vụ và trách nhiệm không rõ ràng. Trong thời đại lúc bấy giờ, khối lượng chung củahoạt động quản lý tăng nhanh, đồng thời với việc phức tạp hoá của những mốiquan hệ quản lý nên việc tăng cường nguyên tắc công dụng nhằm mục đích bảo đảmchuyên môn hoá cao trong quản lý là thiết yếu. Tuy vậy, vai trò quyết định hành động vẫn thuộc về những cơ quan, bộ phận cấu thànhtheo nguyên tắc trực tuyến. Sở dĩ như vậy là vì : – Các cơ quan chức năng ( ví dụ Uỷ ban nhà nước ) cũng như những cơ quanquản lý ngành ( ví dụ những Bộ ) đều thường trực một TT quản lý trực tuyếncơ bản ( ví dụ nhà nước ). Các cơ quan quản lý ngành và những tổ chức triển khai quản lýchức năng ( vụ, cục, ban ) đều thường trực Bộ trưởng, Thứ trưởng, tức là nhữngngười chỉ huy trực tuyến. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước cũng làngười chỉ huy trực tuyến so với những đơn vị chức năng, tổ chức triển khai cơ sở thường trực mà ởđâycác cơ quan chức năng của Bộ chỉđóng vai trò giúp Bộ trưởng chỉ huy kiểm tragiám sát những cơ quan, đơn vị chức năng do Bộ quản lý. k. Nguyên tắc tích hợp chính sách tập thể chỉ huy với chính sách thủ trưởngTổ chức cơ quan theo nguyên tắc tập thể chỉ huy tức là bản thân cơ quanđó hoặc đứng đầu những cơ quan đó là một hội đồng, một uỷ ban hoặc một ban. Chế độ tập thể chỉ huy tạo năng lực đưa vào bộ phận chỉ huy cơ quanthànhviên là đại biểu của nhiều tổ chức triển khai, của nhiều những tầng lớp, của những cấp, của cácngành khác nhau lan rộng ra cơ sở xã hội của cơ quan nhà nước làm tăng khả năngnắm bắt và hiểu thêm những quy trình khác nhau, dư luận xã hội, nhu yếu của cáctầng lớp nhân dân … tạo điều kiện kèm theo để tranh luận một cách khá đầy đủ, thâm thúy mọikhía cạnh của yếu tố, bảo vệ dân chủ trước khi quyết định hành động, tránh bệnh quanliêu, lạm dụng quyền lực tối cao. Quyết định được trải qua theo hầu hết nhưng nhữngthành viên thuộc thiểu số vẫn có quyền bảo lưu, đề xuất kiến nghị lên cấp trên quan điểm củamình. Tổ chức theo chính sách tập thể bảo lãnh dễ làm phát sinh thực trạng thiếutrách nhiệm của từng thành viên với góc nhìn cá thể so với quyết định hành động đã thông13qua. Tổ chức cơ quan theo chính sách thủ trưởng chỉ huy tức là đứng đầu cơ quanlà một người chỉ huy. Chế độ thủ trưởng chỉ huy có lợi thế là ra quyết địnhnhanh, bảo vệ tính kịp thời của quản lý, nghĩa vụ và trách nhiệm so với quyết định hành động đã banhành rõ ràng. Điều đóđòi hỏi người thủ trưởng phải thực sự có năng lượng, amhiểu và nắm chắc mọi việc thuộc khoanh vùng phạm vi thẩm quyền, quyết đoán, năng độngvà dám chịu nghĩa vụ và trách nhiệm Tổ chức theo chính sách thủ trưởng chỉ huy dễ làm nảysinh năng lực xem xét yếu tố không tổng lực, thiếu thâm thúy, ra những quyếtđịnh hấp tấp vội vàng, phiến diện chủ quan, đôi lúc cả lạm quyền. Vì cả hai hình thứcđều có những mặt ưu điểm và hạn chế nên phải phối hợp chúng thật hài hòa và hợp lý. Nộidung của nguyên tắc phối hợp 2 hình thức đã được Lênin chỉ rõ : ” Nếu chính sách tậpthể chỉ huy còn thiết yếu trong việc tranh luận những yếu tố cơ bản thì cũng cần cóchế độ nghĩa vụ và trách nhiệm cá thể và cá thể điều khiển và tinh chỉnh để tránh hiện tượng kỳ lạ lề mề vàhiện tượng trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm “. l. Nguyên tắc phân định tính năng và quyền hạnNguyên tắc này yên cầu phải phân định rõ thẩm quyền mỗi cơ quan, mỗicán bộ và quan hệ qua lại giữa những chủ thểđó với nhau. Việc tổ chức triển khai sắp xếp bộmáy quản lý phải địa thế căn cứ vào trách nhiệm, tính năng quản lý, nhưng khi đã giaocho một cơ quan, một cán bộ triển khai trách nhiệm, công dụng nào đó thì phải traocho họ quyền hạn bởi đó là phương tiện đi lại triển khai công dụng, trách nhiệm đượcgiao. Đi đôi với yếu tố này phải lựa chọn và sắp xếp cán bộ đủ năng lực thựchiệnchức năng và quyền hạn của cơ quan đó, nghĩa là phải đủ số lượng cán bộcần thiết, có kỹ năng và kiến thức trình độ, có kinh nghiệm tay nghề trong thực tiễn. Liên quan vớinguyên tắc trên là nguyên tắc nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan và người có thẩm quyền. Nguyên tắc này yên cầu khi trải qua quyết định hành động quản lý phải xác lập rõ ai làngười chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc thực thi nó. Trong 9 nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính Nhà nước Nước Ta đãnêu trên đây thì 5 nguyên tắc đầu là những nguyên tắc chính trị – xã hội, 4 nguyêntắc sau là những nguyên tắc kỹ thuật. 141.1.6 Các công cụ quản lý hành chính nhà nướcĐể triển khai tính năng, trách nhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm và quyền hạn mà Nhànước đã giao, những cơ quan hành chính nhà nước dùng 5 công cụ đa phần sau : – Công sở : Công sở là trụ sở cơ quan, là nơi thao tác của cơ quan ; là nơiviên chức chỉ huy, công chức và nhân viên cấp dưới thực thi công vụ, phát hành cácquyết định hành chính và tổ chức triển khai triển khai những quyết định hành động hành chính ; là nơigiao tiếp, đối nội, đối ngoại … – Công vụ : Công vụ là một dạng lao động xã hội của những người làmviệc trong văn phòng nhà nước. Công vụ được xác lập từ tính năng, trách nhiệm vàquyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước. Có 3 loại công vụ là chỉ huy, chuyên viên và giúp việc. Số lượng công vụ được xác lập từ số lượng nhiệm vụvà theo nguyên tắc một trách nhiệm chỉ giao cho một người nhưng một người cóthể đảm nhiệm nhiều chức vụ. – Công chức : Công chức là người thực thi công vụ nhà nước, đượchưởng lương và phụ cấp theo việc làm được giao từ ngân sách nhà nước. – Công sản : Công sản là vốn và những điều kiện kèm theo, phương tiện đi lại để hoạt động giải trí. – Quyết định hành chính : Quyết định hành chính nhà nước là sự biểu lộ ýchí của Nhà nước, là tác dụng triển khai quyền hành pháp, mang tính mệnh lệnhđơn phương của quyền lực tối cao nhà nước.  Ví dụ : Vấn đề quản lý tài sản công và công chức nhà nước hiện nayđang gặp nhiều khó khăn vất vả : việc sử dụng xa công để thao tác riêng hay sử dụngxe riêng gắn biển công cùng với việc dư thừa số công chức, viên chức trong cácbộ máy hành chính. 1.2 Một số yếu tố quản lý nhà nước về du lịch1. 2.1 Khái niệm quản lý nhà nước về du lịcha. Du lịch và 1 số ít khái niệm liên quanNgành kinh tế tài chính du lịch được hình thành và tăng trưởng từ khi xã hội loàingười bước vào quy trình phân công lao động lớn. Lúc đầu hoàn toàn có thể là những hiện15tượng riêng không liên quan gì đến nhau và riêng biệt, sau đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ xã hội thông dụng và trởthành nhu yếu không hề thiếu của con người. Trước trong thực tiễn tăng trưởng của du lịch, việc nghiên cứu và điều tra, bàn luận để đi đếnthống nhất một số ít khái niệm cơ bản về du lịch, trong đó khái niệm du lịch làmột yên cầu thiết yếu. Tuy nhiên do thực trạng khác nhau, dưới góc nhìn nghiêncứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Ở nước ta, trong cuốn ‘ ‘ Du lịch và kinh doanh thương mại du lịch ‘ ‘, tiến sỹ Trần Nhạn đã viết : ‘ ‘ Du lịchlà quy trình hoạt động giải trí của con người rời khỏi quê nhà đến một nơi khác vớimục đích là được thẩm nhận những giá trị vật chất và ý thức rực rỡ, độc đáovà khác lạ với quê nhà, không nhằm mục đích mục tiêu sinh lời được tính bằng đồngtiền ‘ ‘. Hiện nay, tổ chức triển khai du lịch quốc tế WTO ( Word Torism organisation ) đãthống nhất khái niệm du lịch phản ánh những mối quan hệ có tính thực chất bêntrong làm cơ sở cho việc nghiên cứu và điều tra những xu thế và quy luật tăng trưởng của nó. Theo đó ‘ ‘ Du lịch là toàn diện và tổng thể của những hiện tượng kỳ lạ và những mối quan hệ phátsinh do sự tác động ảnh hưởng qua lại khách du lịch, người kinh doanh thương mại du lịch, chínhquyền thường trực và hội đồng dân cư địa phương trong quy trình lôi cuốn và lưu giữkhách du lịch ‘ ‘. Định nghĩa này đã nêu bật lên được mối quan hệ, tác động ảnh hưởng qualại của cả mạng lưới hệ thống con người, tổ chức triển khai triển khai du lịch. Du lịch được coi như một quy trình mà ở đớ có sự gặp nhau giữa lợi íchtinh thần của khách du lịch và quyền lợi kinh tế tài chính của người kinh doanh thương mại du lịch. Nhucầu của khách du lịch càng cao thì yên cầu của mạng lưới hệ thống tổ chức triển khai triển khai, kinhdoanh du lịch càng phải triển khai xong. Như vậy : 1. Du lịch là những hoạt động giải trí có tương quan đến chuyến đi của con ngườingoài nơi cư trú liên tục của mình nhằm mục đích phân phối nhu yếu thăm quan, tìmhiểu, vui chơi, nghỉ ngơi trong một khoảng chừng thời hạn nhất định. 2. Khách du lịch là người đi du lịch hoặc phối hợp đi du lịch, trừ trường hợpđi học, thao tác hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. 163. Hoạt động du lịch là hoạt động giải trí của khách du lịch, tổ chức triển khai, cá thể kinhdoanh du lịch, hội đồng dân cư và cơ quan, tổ chức triển khai, cá thể có tương quan đếndu lịch. 4. Tài nguyên du lịch là cảnh sắc vạn vật thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử lịchsử – văn hoá, khu công trình lao động phát minh sáng tạo của con người và những giá trị nhân vănkhác hoàn toàn có thể được sử dụng nhằm mục đích phân phối nhu yếu du lịch, là yếu tố cơ bản đểhình thành những khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. 5. Tham quan là hoạt động giải trí của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi có tàinguyên du lịch với mục tiêu khám phá, chiêm ngưỡng và thưởng thức những giá trị của tài nguyêndu lịch. 6. Đô thị du lịch là đô thị có lợi thế tăng trưởng du lịch và du lịch có vai tròquan trọng trong hoạt động giải trí của đô thị. 7. Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch mê hoặc với lợi thế về tàinguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, góp vốn đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích cung ứng nhucầu phong phú của khách du lịch, đem lại hiệu suất cao về kinh tế tài chính – xã hội và môitrường. 8. Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch mê hoặc, ship hàng nhu yếu thamquan của khách du lịch. 9. Tuyến du lịch là lộ trình link những khu du lịch, điểm du lịch, cơ sởcung cấp dịch vụ du lịch, gắn với những tuyến giao thông vận tải đường đi bộ, đường tàu, đường thuỷ, đường hàng không. 10. Sản phẩm du lịch là tập hợp những dịch vụ thiết yếu để thoả mãn nhu cầucủa khách du lịch trong chuyến đi du lịch. 11. Dịch Vụ Thương Mại du lịch là việc cung ứng những dịch vụ về lữ hành, luân chuyển, lưu trú, siêu thị nhà hàng, đi dạo vui chơi, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khácnhằm phân phối nhu yếu của khách du lịch. 12. Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và phân phối cácdịch vụ khác ship hàng khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịchchủ yếu. 1713. Chương trình du lịch là lịch trình, những dịch vụ và giá cả chương trìnhđược định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ nơi xuất phát đến điểm kếtthúc chuyến đi. 14. Lữ hành là việc kiến thiết xây dựng, bán và tổ chức triển khai thực thi một phần hoặc toànbộ chương trình du lịch cho khách du lịch. 15. Hướng dẫn du lịch là hoạt động giải trí hướng dẫn cho khách du lịch theochương trình du lịch. Người triển khai hoạt động giải trí hướng dẫn được gọi là hướng dẫn viên du lịch và đượcthanh toán cho dịch vụ hướng dẫn du lịch. 16. Phương tiện chuyên luân chuyển khách du lịch là phương tiện đi lại bảo đảmcác điều kiện kèm theo ship hàng khách du lịch, được sử dụng để luân chuyển khách du lịchtheo chương trình du lịch. 17. Xúc tiến du lịch là hoạt động giải trí tuyên truyền, tiếp thị, hoạt động nhằmtìm kiếm, thôi thúc thời cơ tăng trưởng du lịch. 18. Du lịch bền vững và kiên cố là sự tăng trưởng du lịch phân phối được những nhu cầuhiện tại mà không làm tổn hại đến năng lực cung ứng nhu yếu về du lịch củatương lai. 19. Du lịch sinh thái xanh là hình thức du lịch dựa vào vạn vật thiên nhiên, gắn với bảnsắc văn hoá địa phương với sự tham gia của hội đồng nhằm mục đích tăng trưởng bềnvững. 20. Du lịch văn hóa truyền thống là hình thức du lịch dựa vào truyền thống văn hoá dân tộcvới sự tham gia của hội đồng nhằm mục đích bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoátruyền thống. 21. Môi trường du lịch là thiên nhiên và môi trường tự nhiên và thiên nhiên và môi trường xã hội nhânvăn nơi diễn ra những hoạt động giải trí du lịch. b. Quản lý nhà nước về du lịchDu lịch là một ngành kinh tế tài chính tương đối mới mẻ và lạ mắt so với những nước đang pháttriển, đặc biệt quan trọng là so với nước ta. Tuy vậy đây là một ngành kinh doanh thương mại dịch vụmang tính kế hoạch trong quá trình tăng trưởng của quốc gia. Do vậy, quản lý18Nhà nước về du lịch là rất là thiết yếu. Bởi vì quản lý Nhà nước về du lịchchính là làm cho du lịch tăng trưởng đúng xu thế xã hội chủ nghĩa, phát huymọi tiềm năng du lịch, lôi cuốn ngày càng nhiều khách du lịch góp phần vàongân sách Nhà nước. Quản lý nhà nước về du lịch là quà trình tác động ảnh hưởng của Nhà nước đến dulịch trải qua mạng lưới hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, mạng lưới hệ thống chủ trương phápluật với tiềm năng tăng trưởng du lịch đúng xu thế của nhà nước. Tạo nêntrật tự trong hoạt động giải trí du lịch, làm cho du lịch thật sự trở thành một ngànhkinh tế mũi nhọn. 1.2.2 Vai trò quản lý nhà nước về du lịchNgành kinh doanh thương mại du lịch giống như một khung hình sống và luôn yên cầu sựquản lý phát minh sáng tạo để duy trì và tăng trưởng. Việc thành công xuất sắc hay thất bại của ngànhdu lịch cũng như nhu yếu nền kinh tế tài chính của một nước nhờ vào trọn vẹn vàoviệc thiết kế xây dựng một cách phát minh sáng tạo những chủ trương thích hợp với điều kiện kèm theo vàtrình độ tăng trưởng của một quốc gia. Do vậy, yếu tố quản lý Nhà nước đối vớidu lịch là một yếu tố thiết yếu được đặt lên số 1. Hơn nữa, du lịch mớitrong quy trình tiến độ đầu tăng trưởng, còn gặp nhiều khó khăn vất vả và thử thách lớn do vậycần có sự tham gia chỉ huy và khuynh hướng của Nhà nước để du lịch tăng trưởng. Vìvậy, quản lý du lịch trong nền kinh tế thị trường của Nhà nước có vai trò hết sứcquan trọng. – Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên, mặt khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế tài chính, bộc lộ ở việcđịnh hướng tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội nói chung cũng như ngành kinh tế tài chính du lịchnói riêng trong từng thời kỳ. – Để xử lý những xích míc trong nền kinh tế thị trường, duy trì sự ổnđịnh cũng như thôi thúc tăng trưởng và tăng trưởng kinh tế tài chính. – Tạo ra sự thống nhất trong tổ chức triển khai và phối hợp những hoạt động giải trí của cơquan quản lý Nhà nước về du lịch. Đồng thời giúp cho việc khai thác những thế19mạnh của từng vùng, từng địa phương đạt hiệu quả. Hơn nữa, phát huy lợi thế sosánh của vương quốc trong tăng trưởng du lịch quốc tế. – Du lịch là một ngành kinh tế tài chính mũi nhọn của nước ta. Nó tương quan đếnnhiều ngành, nhiều nghành khác nhau do vậy cần có sự quản lý của Nhà nướcđể điều hoà mối quan hệ giữa du lịch với những ngành, những nghành nghề dịch vụ tương quan. 1.2.3 Đối tượng quản lý nhà nước về du lịch • Đối tượng quản lý nhà nước về du lịch gồm có : a. Quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương-Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung ương gồm : + Tổng cục du lịch cùng những vụ tính năng + Các bộ ngành quản lya những nghành kinh tế tài chính xã hội cùng những bộ phận củanó có công dụng quản lý ngành như : Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, Bộ Kếhoạch đàu tư, .. + Các Bộ, ngành hữu quan tạo điều kiện kèm theo cho tăng trưởng du lịch : Hàngkhông, Hải quan, Ngoại giao, Công an, … – Nội dung của quản lý nhà nước về du lịch : + Lập quy hoạch tổng thể và toàn diện tăng trưởng về du lịch của vương quốc + Ban hành những chủ trương chung cho toàn ngành du lịch + Phối kết hợp với những bộ ngành có tương quan đến tăng trưởng du lịch : Giaothông vận tải đường bộ, Bưu chính viến thông, … b. Quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương – Ở địa phương, trong cơ cấu tổ chức cỗ máy nhà nước cũng có những cơ quantương tự như ở cấp TW, nhưng chỉ có công dụng quản lý ở địa phận vàchịu sự chỉ huy của những cơ quan ngành dọc trong cơ cấu tổ chức cỗ máy nhà nước trungương. – Nội dung quản lý nhà nước về du lịch ở cấp TW : + Xây dựng những đề án và kế hoạchphát triển du lịch trên địa phận + Nghiên cứu đề xuất kiến nghị việc kiến thiết xây dựng những chủ trương tương thích với tình hìnhhoạt động c ủa địa phương. 20 + Hướng dẫn kiểm tra việc thực thi những chủ trương pháp luật và nghiệpvụ trình độ + Xét cấp giấy ghi nhận ĐK kinh doanh thương mại của những doanh nghiệp hoạtđộng du lịch + Giúp đỡ đào tạo và giảng dạy tu dưỡng cán bộ nhiệm vụ trình độ cho những doanhnghiệp du lịch .. • Đối tượng của quản lý nhà nước về du lịch là : hoạt động giải trí du lịch, cơ quantổ chức những hoạt động giải trí du lịch, khách du lịch. 1.2.4 Chức năng quản lý nhà nước về du lịcha. Chức năng hoạch định. – Nhà nước thực thi công dụng hoạch định để khuynh hướng hoạt động giải trí dulịch, xác lập những chương trình, những dự án Bất Động Sản, cụ thể hoá những kế hoạch, đặc biệt quan trọng làcác lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế. – Thiết lập khuôn khổ pháp lý trải qua việc phát hành và tổ chức triển khai thựchiện những văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường tự nhiên pháp lý chohoạt động du lịch. – Chức năng hoạch định giúp cho những doanh nghiệp du lịch có phươnghướng hình thành những giải pháp kế hoạch, kế hoạch kinh doanh thương mại. Nó vừa giúptạo lập thiên nhiên và môi trường kinh doanh thương mại vừa cho phép Nhà nước hoàn toàn có thể trấn áp hoạtđộng của những doanh nghiệp và những chủ kinh doanh thương mại du lịch trên thị trường. b. Chức năng tổ chức triển khai và phối hợp. – Nhà nước bằng việc tạo lập những cơ quan và mạng lưới hệ thống tổ chức triển khai quản lý vềdu lịch, sử dụng cỗ máy này để hoạch định những kế hoạch, quy hoạch, những chínhsách, những văn bản quy phạm pháp luật … đồng thời thực thi những yếu tố thuộcvề quản lý Nhà nước nhằm mục đích đưa chủ trương tương thích về du lịch và thực tiễn, biếnquy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện kèm theo cho du lịch tăng trưởng. – Hình thành chính sách phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý Nhà nước vềdu lịch với những cấp trong mạng lưới hệ thống quản lý du lịch của TW, tỉnh ( thànhphố ), Q. ( huyện, thị xã ). 21 – Trong nghành du lịch quốc tế, công dụng này được bộc lộ ở sự phốihợp giữa những vương quốc có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinhtế, thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm mục đích đa dạng hoá đa phương thức quan hệhợp tác quốc tế trong du lịch đạt tới những tiềm năng và bảo vệ triển khai những camkết đã ký. – Tổ chức và quản lý công tác làm việc huấn luyện và đào tạo, tu dưỡng và tăng trưởng nguồnnhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, bảo vệ tài nguyêndu lịch, thiên nhiên và môi trường, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá, thuần phong mỹ tụccủa dân tộc bản địa trong hoạt động giải trí du lịch. c. Chức năng điều tiết những hoạt động giải trí du lịch và can thiệp thị trường. – Nhà nước hướng dẫn, kích thích những doanh nghiệp du lịch hoạt độngtheo khuynh hướng đã vạch ra. Can thiệp, điều tiết thị trường khi thiết yếu đảm bảoổn định kinh tế tài chính vĩ mô. – Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, giải pháp khác nhau để điều tiết, canthiệp thị trường và hoạt động giải trí kinh doanh thương mại du lịch, giải quyết và xử lý đúng đắn mẫu những quanhệ trao đổi. – Nhà nước tương hỗ cho những doanh nghiệp về thông tin, kinh tế tài chính, cấu trúc hạtầng của thị trường và bảo vệ kinh tế tài chính Nhà nước đúng pháp lý nhằm mục đích chống thấtthoát, bảo vệ sinh lợi và tăng thu cho nhân sách Nhà nước. d. Chức năng trấn áp. – Giám sát hoạt động giải trí của mọi chủ thể kinh doanh thương mại du lịch cũng như chế độquản lý của những chủ thể đó. Cấp và tịch thu giấy phép, giấy hoạt động giải trí trong hoạtđộng du lịch. – Phát hiện những xô lệch, rủi ro tiềm ẩn chệch hướng hoặc vi phạp pháp luậtvà những pháp luật của Nhà nước. – Kiểm tra nhìn nhận sức mạnh của mạng lưới hệ thống tổ chức triển khai quản lý du lịch củaNhà nước cũng như năng lượng của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nướcvề du lịch. 22

Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục