Vẻ đẹp con người Việt Nam là gì

Du khách nước ngoài đến Việt Nam không chỉ vì Việt Nam có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, nhiều di tích văn hóa lịch sử mà còn vì sự thân thiện của con người Việt Nam và nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Những nét đẹp đó là một cái gì đó rất cao quý mà cũng vô cùng chân thật và giản dị mà mỗi chúng ta không thể phủ nhận. Bên cạnh những nét tính cách tốt đẹp đó cũng có không ít những điểm hạn chế. Để làm rõ hơn về vấn đề này em xin phép được trình bày đề bài: Phân tích những phẩm chất nổi trội trong tính cách người Việt Nam. Chỉ ra những điểm hạn chế và giải pháp khắc phục những điểm hạn chế của nó trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.


Danh mục tài liệu tham khảo

  • Đại cương về Văn hóa Việt Nam, TS. Phạm Thái Việt (Chủ biên), TS. Đào Ngọc Tuấn, Nhà xuất bản văn hóa thông tin.
  • Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi, GS.TS.Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), NXB chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2014.

Khái quát chung

Giải thích thuật ngữ

Phẩm chất là tính chất riêng tốt xấu của mỗi người mỗi vật, là các yếu tố làm nên giá trị con người hay vật.

Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức tạp bao gồm hệ thống thái độ và hành vi quen thuộc mang tính đạo đức của cá nhân đối với hiện thực.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những phẩm chất nổi trội trong tính cách con người Việt Nam

Yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên của Việt Nam vô cùng thuận lợi để trở thành một xứ sở phát triển nông nghiệp. Việt Nam nằm trong một khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa: nắng nóng, nhiệt độ cao, có hai mùa gió, độ ẩm cao, lượng mưa lớn. Điều kiện tự nhiên này quy định loại hình văn hóa Việt Nam gắn với nông nghiệp với những đặc điểm: trồng lúa nước, sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên, đề cao vai trò người phụ nữ, sùng bái mùa màng, sinh nở. Trải qua hàng ngàn năm, người Việt vẫn duy trì một nền nông nghiệp lúa nước trên châu thổ các con sông lớn, như: sông Hồng, sông Mã, sông Lam, sông Cửu Long, và dọc theo duyên hải. Chính vì vậy người Việt bị trói chặt vào kinh tế nông nghiệp. Cho đến nay ba hằng số lớn của lịch sử dân tộc: kinh tế nông nghiệp, cư dân nông dân, sã hội nông thôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện người Việt Nam. Do đó, những căn tính nông dân, những đặc trưng của một xã hội nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi truyền thống Việt Nam.

Yếu tố lịch sử cũng là một yếu tố để hình thành lên phẩm chất của con người Việt Nam. Nước Việt Nam ta nằm ở một vị trí địa lý có ý nghĩa chiến lược nên luôn là mục tiêu xâm lược của các nước lớn trên thế giới. Vì vậy mà nước ta luôn luôn phải chống lại mưu đồ xâm lược của các nước lớn trên thế giới. Từ đó đã hình thành nên lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, đối phó linh hoạt với mọi tình thế.

Phân tích những phẩm chất nổi trội trong tính cách người Việt Nam

Phân tích những phẩm chất nổi trội trong tính cách con người Việt Nam và những điểm còn hạn chế

Cái nhìn của người nước ngoài về Việt Nam

Người Trung Quốc nhận xét Việt Nam là một dân tộc trí trá và láu cá. Người Pháp thì nhận xét người Việt thường không nói theo cái tôi mà hay nói theo chúng tôi.

Người Mỹ thì lại có cái nhìn khách quan hơn, Viện nghiên cứu Mỹ đánh giá về người Việt: Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn còn nặng; thông minh, sáng tạo song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn; chủ động, khéo léo song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm); vừa thực tế, vừa mơ mộng song không có ý thức nâng lên thành lý luận; ham học hỏi, tiếp thu nhanh, song ít khi học đến đầu đến đuôi nên kiến thức mất hệ thống mất cơ bản. Ngoài ra học tập không phải là mục tiêu tự thân của người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí đam mê); xởi lởi, chiều khách, song không bền; tiết kiệm song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời); có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong trường hợp khó khăn, bần hàn còn trong điều kiện tốt hơn, tinh thần này ít khi xuất hiện; yêu hòa bình, nhẫn nhịn song nhiều khi lại hiếu chiến vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất địa cục; thích tụ tập song lại thiếu đoàn kết để làm nên sức mạnh (cùng một việc, 1 người làm thì tốt, 3 người làm thì kém, 7 người làm thì bất đồng quan điểm). Như vậy, Viện nghiên cứu của Mỹ đã nhận định một cách khách quan về các phẩm chất của con người Việt Nam.

Những phẩm chất nổi trội

Ưu điểm:

Thứ nhất, khả năng đối phó rất linh hoạt với mọi tình thế và lối ứng xử mềm dẻo:

Một trong số những giá trị tinh thần của di sản dân tộc phi vật thể dã trở thành hành trang cần thiết và đặc biệt của người Việt Nam trong cuộc sống hiện tại là lối ứng xử giao tiếp:

Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Khi giao tiếp, người Việt ta luôn đề cao ngôn ngữ, chọn lựa lời nói sao cho hài hòa, phù hợp ngữ cảnh, bảo đảm sự đoàn kết, thân mật, cho cuộc sống vui vẻ. Mỗi đứa trẻ luôn được ông bà, cha mẹ chỉ dạy phải biết chào hỏi, xưng hô đúng mực, Ăn phải nhai, nói phải nghĩ. Việc giao tiếp luôn là vấn đề quan trọng đáng lưu ý trong cuộc sống hàng ngày.

Thứ hai, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng để tạo nên sức mạnh vượt qua khó khăn, thử thách:

Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng xuất hiện nay từ những ngày đầu tiên xuất hiện người Việt nhưng nó được phát triển và trở thành giá trị văn hóa của chúng ta khi trải qua quá trình chống giặc ngoại xâm. Như vậy, phẩm chất này của người Việt bắt nguồn trước hết từ việc giữ nước, phải đoàn kết quy tụ thành sức mạnh mới có khả năng chiến thắng giặc ngoại xâm, chống lại thiên tai, bão lụt.

Những trang sử vẻ vang ta đã ghi lại kết quả của tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng của dân tộc ta: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã lập tức lôi kéo quần chúng hàng xứ ở ba quận đứng lên chiến đấu, cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi cũng vậy, dù cho ông khởi nghĩa ở Lam Sơn, nhưng tinh thần cố kết cộng đồng tạo ra sự nổi dậy của toàn bô dân chúng. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược chính tinh thần đoàn kết dân tộc cả hai miền Bắc Nam đã làm nên những chiến thắng to lớn trên khắp các mặt trận. Những thắng lợi ấy không thể có nếu thiếu đi tinh thần đoàn kết của dân tộc ta.

Thứ ba, giản dị, chất phác, ưa đơn giản, ghét cầu kỳ, xa hoa:

Sự giản dị, chất phác, đơn giản dường như đã trở thành nét đặc trưng của người Việt Nam. Tà áo dài hay chính chiếc áo bà ba chính là biểu tượng của sự giản dị cùng nét thuần khiết của người con gái Việt. Nguyên nhân của phẩm chất đó do văn hóa gốc nông nghiệp, đời sống phụ thuộc vào tự nhiên mang tính bấp bênh, thất thường, thiên tai xảy ra thường xuyên và khó lường trước. Người Việt phải làm việc vất vả nhưng năng suất, sản lượng lao động không cao nên đã quen sống giản dị, tiết kiệm, ưa giản đơn, ghét cầu kỳ xa hoa.

Thứ tư, tấm lòng rộng mở và giàu cảm xúc lãng mạn.

Ta luôn bắt gặp trong các tác phẩm nghệ thuật những cái tôi trữ tình đầy lãng mạn, người nghệ sỹ gửi gắm vào trong đó bao cảm xúc, tình cảm, vào trong những lời văn, ý thơ ngọt ngào. Người dân quen với cuộc sống gắn liền với thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên, nên tâm hồn họ cũng bay bổng, lãng mạn.

Một số câu ca dao, tục ngữ, tác phẩm thơ văn là minh chứng rõ ràng nhất cho điều này:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

Hay:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

(Vội vàng Xuân Diệu)

Thứ năm, cần cù, chịu thương chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ.

Đặc tính cần cù, chịu thương chịu gian khó, chịu đựng gian khổ là một đức tính quan trọng của người Việt Nam và đã trở thành giá trị văn hóa Việt Nam. Đức tính cần cù hay chịu thương chịu khó có ngay từ khi loài người xuất hiện, các yếu tố lao động đã chứa đựng trong nó đặc tính cần cù và chịu đựng gian khó của con người: Những dấu hiệu khác biệt của con người như một loài sinh học, chung quy chỉ là đi bằng hai chân gắn iên với việc giải phóng đôi tay khỏi chức năng đi lại và tiến tới phát triển đại não. Cả hai đặc điểm ấy không còn nghi ngờ gì nữa, nằm trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động lao động (Nguồn gốc loài người- G.N. Machunsin). Do đó, đặc tính cần cù, chịu đựng gian khó là giá trị mang tính cố hữu của con người. Tuy nhiên, để các đặc tính ấy trở thành phẩm chất đặc trưng của một dân tộc lại là chuyện khác và điều đó cần môi trường xã hội và sự quy định về hệ tư tưởng, tính cách văn hóa. Và đối với việc nghiên cứu cũng cần có phương pháp luận chứ không phải là những phát ngôn định tính.

Đối với dân tộc Việt Nam, nền sản xuất nông nghiệp phát triển đòi hỏi con người phải chịu đựng gian khó và lao động hết sức. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên cùng với những lần chiến tranh gian khổ đã hình thành và phát triển nên những đức tính trên.

Đất nước ta được như ngày hôm nay tất cả là nhờ công lao của ông cha ta trong việc cần cù lao động và can đảm chiến đấu trước những thiên tai: bão, lũ lụt, hạn hán, Cùng với đó là tinh thần bất khuất chống trọi với các lực lượng quân sự đông đảo, hùng mạnh như: quân Nguyên Mông, quân Minh Thanh, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Lúc đó đức tính cần cù, giỏi chịu đựng gian khó đã quyết định thắng lợi nước ta.

Thứ sáu, trọng tuổi tác, trọng người già (Lão quyền).

Truyền thống người Việt dó chính là tiên học lễ, hậu học văn. Vì vậy cái lẽ của người Việt luôn tôn trọng những người trên, những người cao tuổi. Một phần xuất phát từ nền văn hóa gốc nông nghiệp, họ quan niệm người đi trước là người có nhiều kinh nghiệm, thế hệ sau cần noi gương học hỏi. Nhũng người càng nhiều tuổi sẽ có càng nhiều kinh nghiệm hơn, biết phòng tránh rủi ro tốt hơn.

Thứ bảy, Nhân ái, vị tha và rộng lượng.

Lòng nhân ái là phẩm chất cao quý của người Việt từ xa xưa, đó là lòng thương yêu con người, là thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách. Truyền thống này xuất phát từ cuộc sống của người Việt cổ và phát triển theo lịch sử của dân tộc, thể hiện rõ nét trong lao động, học tập và chiến đấu.

Vị tha và rộng lượng là một biểu hiện của lòng nhân ái, là biểu hiện cho con người giàu tình thương, yêu hòa bình đã được nhân dân ta đúc kết trong hàng ngàn năm lịch sử. Nó được biểu hiệm ở việc trong các cuộc xâm lăng của quân thù đã khiến dân ta mất mát rất nhiều: những người mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những người con mất cha, nhà cửa ruộng vườn làng mạc bị tàn phá Ấy vậy, sau khi dân ta giành chiến thắng, chúng ta vẫn thả tự do cho quân thù, bỏ qua những tội ác mà chúng đã đem lại cho đồng bào ta khiến cho thế giới phải ghi nhận: Việt Nam nhân ái, vị tha và rộng lượng.

Hạn chế:

Thứ nhất, tập tính kém hạch toán, không quen lường tính xa.

Người Việt ta luôn mang đặc điểm kém hạch toán, không quen lường tính xa. Việc sắp xếp công việc trước, hoạch định công việc sao cho hợp lý, có kết quả tốt đối với người Việt khá khó khăn. Đứng trước công việc, người Việt ta luôn nước đến chân mới nhảy, không tính trước mọi trường hợp có thể xảy ra để tìm ra cách giải quyết trước vì vậy dễ thất bại.

Thứ hai, tác phong tùy tiện, kỷ luật không chặt chẽ.

Do tính chất mùa vụ của nghề trồng lúa nước nên thói quen làm việc của nông dân thất thường, có hôm ra đồng sớm, có hôm ra đồng muộn, làm nhiều làm ít tùy theo công việc cần làm mỗi ngày. Có hôm làm cả ngày, cũng có thể nghỉ nếu mệt mỏi tùy theo ý thích của họ, không ai có thể quản lý được giờ giấc làm việc cũng như thời gian làm việc của họ. Dần dần, các thói quen ấy đi sâu vào tiềm thức mỗi người và trở thành tác phong tùy tiện, kỷ luật không chặt chẽ.

Do ý thức còn kém, trình độ nhận thức thấp nên tác phong tùy tiện, kỷ luật không chặt chẽ như khi Luật an toàn giao thông quy định khi tham gia giao thông bằng phương tiện xe mô tô, xe gắn máy người tham gia phải đội mũ bảo hiểm thì người Việt Nam hoặc không đội, hoặc chỉ đội để đối phó với cảnh sát giao thông, để không bị xử lý vi phạm hành chính.

Thứ ba, tâm lý bình quân chủ nghĩa.

Tư tưởng trung bình chủ nghĩa vốn là hậu quả của cơ chế phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Những biểu hiện này đã và đang xuất hiện trong điều kiện công cuộc Đổi mới được triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều thành tựu quan trọng, song cũng có không ít hạn chế, khuyết điểm đáng lo ngại; trong bối cảnh đất nước vừa thời cơ, vận hội lớn, vừa đứng trước nguy cơ, thách thức nghiêm trọng. Thực chất của tư tưởng trung bình chủ nghĩa là chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh. Trong quan hệ xã hội, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh biểu hiện thành nhóm trung gian, nhóm trung gian chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, hoàn cảnh xuất hiện tư tưởng trung bình chủ nghĩa có nét đặc thù. Theo Hồ Chí Minh, trước hết đó là sự đồng cam cộng khổ trong kháng chiến chống Pháp. Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có để kháng chiến thắng lợi. Trong điều kiện xây dựng hòa bình, vẫn cần đồng cam cộng khổ. Nhưng theo Bác, không được lẫn lộn giữa đồng cam cộng khổ và bình quân chủ nghĩa.

Thứ tư, nặng tình nhẹ lý, chín bỏ làm mười ( cơ sở của chủ nghĩa thân tộc một người làm quan cả họ được nhờ).

Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệ cũng khiến cho việc hành xử thường nặng tính chủ quan, tùy tiện, thiếu tính nguyên tắc. Đặc điểm này cũng được những câu ca dao, tục ngữ ghi chép lại:

Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình

Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bổ hòn cũng méo

Việc xử lý các quan hệ theo tình cảm sẽ dẫn đến thiếu tôn trọng tính nguyên tắc, tùy tiện là một điều tất yếu. Truyền thống duy tình đã làm cho người ta có thể có nhiều cách xử sự khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, trong khi đó pháp luật lại phải là chuẩn mực chung để điều tiết các mối quan hệ một cách nghiêm khắc dựa trên tiêu chí khách quan và thống nhất.

Thứ năm, tâm lý sống lâu lên lão làng, đề cao chủ nghĩa kinh nghiệm.

Đề cao một chiều trăm hay không bằng tay quen, tức là tán dương chủ nghĩa kinh nghiệm mà khước từ sự tìm tòi, sáng tạo và tự học hỏi. Chính điều đó đã dẫn đến sự trì trệ, bảo thủ, con người chỉ bước theo lối mòn cũ mà không tìm đến một lối đi mới mang lại hiệu quả tốt đẹp hơn, cổ vũ cho lối suy nghĩ ngựa quen đường cũ. Đó là lực cản ghê gớm vì nó bóp chết sự phấn đấu, vươn lên của thế hệ trẻ, làm cho đất nước phát triển chậm chạp và trì trệ.

Thứ sáu, tư tưởng bảo thủ đóng cửa, tự thu xếp mọi việc không cầu thị.

Người dân Việt Nam không muốn nói đến sự thất bại. Dường như dù khó khăn hay thất bại thì họ vẫn tự mình giải quyết, không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Người Việt sợ thua kém hơn người khác, sợ người khác nhận thấy sự kém cỏi của mình, không chấp nhận lắng nghe người khác để hoàn thiện mình.


Giải pháp khắc phụ những hạn chế đo trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

Thực hiện phát triển trình độ lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, kết hợp tốt phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn, áp dụng khoa học công nghệ vào nông thôn. Thực tiễn này đòi hỏi chúng ta phải đổi mới, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm để nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, khó khăn, khắc phục sự lạc hậu về kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực nông thôn. Người dân cần có cái nhìn bao quát, hạch toán kĩ lưỡng và lường tính xa hơn. Cần phải xã hội hóa khu vực nông thôn và nông dân, mở rộng quan hệ giao lưu của họ, với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác, nhất là với công nhân và trí thức. Để vừa đảm bảo nền tảng liên minh công nông vững chắc, vừa cải biến tư tưởng, tâm lý, tập quán, thói quen của người nông dân đã tồn tại từ bao đời do tính chất của sản xuất nhỏ, nhằm hình thành tư duy mới, phong cách công nghiệp trng lối nghĩ và cách làm.

Khắc phục những mặt tiêu cực, lạc hậu của truyền thống không còn phù hợp với điều kiện xã hội hiện đại. Hàng ngàn năm lao động trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu đã tạo cho đa số người dân Việt Nam một cách nghĩ và lối sống tùy tiện. Những đặc điểm về lối sống, lối suy nghĩ và làm việc như tư tưởng tiểu nông, trọng nông ức thương, thụ động, cách sống thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, kỹ luật lao động lỏng lẻo và sự thiếu ý thức tôn trọng pháp luật đang là những hạn chế, thậm chí là lực cản cho sự phát triển con người Việt Nam hôm nay trong điều kiện đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chú ý giáo dục và bồi dưỡng tư duy chấp nhận mâu thuẫn là chủ động khắc phục lối tư duy duy gạt bỏ mâu thuẫn một chiều, trung bình chủ nghĩa trong tư tưởng, đạo đức lối sống. Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh yêu cầu nhìn nhận thế giới một cách toàn diện trong tính khách quan của sự xem xét, trong sự vận động, phát triển lịch sử cụ thể và thực tiễn. Muốn vậy, phải đoạn tuyệt với lối tư duy một chiều, trung bình chủ nghĩa, tức lối tư duy gạt bỏ mâu thuẫn. Tư duy biện chứng là tư duy chấp nhận mâu thuẫn; chỉ như vậy mới phản ánh đầy đủ và chính xác được thực tế sinh động muôn hình muôn vẻ đang vận động phát triển thông qua phát hiện mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn; tăng cường động viên, biểu dương những tấm gương điển hình, người tốt, việc tốt. Theo Hồ Chí Minh, trong ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, trung kiên đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém tiến lên; thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế xã hội là chủ yếu, để tạo cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.

Xây dựng môi trường văn hóa tiến bộ, lành mạnh nhằm khắc phục và loại bỏ những mặt tiêu cực của tâm lý sản xuất nhỏ, những tập quán lạc hậu, các tệ nạn xã hội và hủ tục mê tín dị đoan trong nhân dân. Môi trường văn hóa là nơi thể hiện sự thống nhất trong đa dạng, vừa có yếu tố của truyền thống vừa có yếu tố của hiện đại, do đó vừa là điều kiện để giữ gìn, phát triển, nuôi dưỡng, vun trồng tình người , những giá trị chân, thiện, mỹ, vừa là điều kiện để khắc phục loại bỏ những gì trái với bản chất tốt đẹp của con người, những tính xấu, sự thấp hèn, Bao trùm nhất là xây dựng môi trường văn hóa với nội dung là kỷ cương tình thương trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Xây dựng môi trường văn hó phải đi từ cái gốc, từ cơ sở đó là văn hóa làng xã, văn hóa gia đình Việt Nam.

Cần có chính sách đảm bảo và khuyến khích người lao động, nhất là lao động trẻ, như chính sách lương phù hợp, chính sách nhà ở, bảo hiểm xã hội, chính sách khen thưởng những người có sáng kiến, cải tiến đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Các chính sách kinh tế xã hội phải hướng kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, tạo sự công bằng trong xã hội. Tạo mọi điều kiện để mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát huy hết khả năng đóng góp xây dựng đất nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, làm giàu chính đáng, từ đó thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế.

Làm giàu các giá trị đạo đức truyền thống đạo đức thông qua giao lưu, học hỏi và hội nhập. Trên thế giới, sự phát triển các nền văn mih nhân loại cho thấy rằng: không có một nền văn hóa nào lại có thể phát triển một cách liên tục trong địa bàn khép kín, biệt lập, tách rời sự tiếp xúc với các dân tộc khác. Điều cốt lõi là phải xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh, để một nền văn hóa của một dân tộc có thể biến đổi và phát triển mà không mất đi bản sắc của mình; vừa tiếp nhận được những yếu tố từ ben ngoài mà không rơi vào tình trạng tha hóa, biến chất.

Qua giao lưu, học hỏi kinh nghiệm các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần xây dựng được một hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức vừa mang tính tính truyền thống, mang tính hiện đại, với mục tiêu là định hướng cho thế hệ trẻ phát huy tiềm năng sáng tạo tích cực của mình và đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới,khắc phục được những điểm còn hạn chế và phát huy điểm mạnh, ưu thê của con người Việt Nam, từ đó góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.


Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Phân tích những phẩm chất nổi trội trong tính cách người Việt Nam. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyếnquaHOTLINE 19006588củaLuật Quang Huyđể được giải đáp.

Trân trọng./.