Vật ngang giá trong hình thái chung khác nhau như thế nào trong hình thái tiền

 Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ? (CH62)

Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Về mặt giá trị sử dụng, ta có thể nhận biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, chúng ta thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa là trong mối quan hệ giữa các hàng hóa với nhau. 

Chính vì vậy, thông qua sự nghiên cứu các hình thái biểu hiện của giá trị, qua các giai đoạn phát triển lịch sử, chúng ta sẽ tìm ra nguồn gốc phát sinh của tiền tệ, hình thái giá trị nổi bật và tiêu biểu nhất.

–   Sự phát triển các hình thái giá trị

+ Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:

*   Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

*    Gọi là giản đơn hay ngẫu nhiên, vì khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, trong thời kỳ ban đầu của trao đổi, hàng hóa bất kỳ, tỷ lệ trao đổi bất kỳ, miễn là hai chủ thể của hàng hóa đồng ý trao đổi.

*    Vế trái của phương trình (1 m vải) tự nó không nói lên được giá trị của nó, giá trị của nó chỉ được biểu hiện và phải nhờ hàng hóa đứng đối diện với nó (10 kg thóc) nói hộ giá trị của nó, vì thế nó được gọi là hình thái tương đối.

Vế phải của phương trình (10 kg thóc) là hình thái vật ngang giá, vì giá trị sử dụng của nó được dùng để biểu hiện giá trị của hàng hóa khác (1 m vải). Hình thái vật ngang giá là mầm mống phôi thai của tiền tệ.

*    Nhược điểm của hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: trao đổi vật lấy vật, tỷ lệ trao đổi ngẫu nhiên, vật ngang giá chưa cố định, giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hóa nhất định khác với nó, chứ không biểu hiện ở mọi hàng hóa khác. Khi trao đổi hàng hóa phát triển cao hơn, có nhiều mặt hàng hơn. đòi hỏi giá trị của một hàng hóa phải được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác với nó. Do đó, hình thái giá trị giản đơn tự nó chuyển sang hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.

+ Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:

*     Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau khi có phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.

*    Ví dụ:

*     Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Trong ví dụ trên, giá trị của 1 m vải được biêu hiện ở 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác nhau.

*    Nhược điểm: trao đổi vật lấy vật, vật ngang giá chưa cố định…

+ Hình thái chung của giá trị:

*     Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi con đường vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem hàng hoá đó đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.

*    Ví dụ:

*      Đến đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung.

*      Nhược điểm: vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hoá. Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.

+ Hình thái tiền tệ:

*     Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.

*  Ví dụ:

*    Trong lịch sử, lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng.

Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn.

*     Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá được phân thành hai cực: một cực là các hàng hoá thông thường; còn một cực là hàng hoá (vàng; đóng vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị. Đến đây giá trị các hàng hoá đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.

–    Bản chất của tiền tệ

Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá, là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Các nhà kinh tế trước C. Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, bởi vậy đã không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C. Mác nghiên ứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao dổi hàng hoá, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hoá, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.

Vậy, tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.

Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt vì:

+ Tiền tệ cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của tiền tệ cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất ra vàng (bạc) quyết định. Giá trị sử dụng của tiền tệ làm môi giới trong mua bán và làm chức năng tư bản.

+ Là hàng hóa, tiền tệ cũng có người mua, người bán, cũng có giá cả (lợi tức). Giá cả của hàng hóa tiên tệ cũng lên xuống xoay quanh quan hệ cung cầu.

+ Đóng vai trò làm vật ngang giá chung.

(Last Updated On: 02/04/2022)

Tiền tệ và lưu thông tiền tệ theo quan điểm của Karl Marx. – Karl Marx nghiên cứu tiền tệ có đầy đủ giá trị nội tại (tiền vàng – tiền bản vị), tiền tệ trực tiếp sinh ra từ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, từ đó hiểu được ưu điểm và hạn chế khi sử dụng tiền tệ.

1. Nguồn gốc ra đời của tiền tệ

Có rất nhiều các học thuyết bàn đến nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Nhưng có thể chia ra hai trường phái chính. Trường phái thứ nhất cho rằng: tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hóa. Trường phái thứ hai cho rằng tiền tệ không sinh ra từ hàng hóa mà phát sinh do ý muốn chủ quan của con người.

Môi trường phải nghiên cứu nguồn gốc của tiền tệ có sự khác nhau cơ bản. Trường phải thứ nhất nghiên cứu tiền tệ là tiền thực, tiền có đầy đủ giá trị nội tại – tiền vàng, còn trường phái thứ hai nghiên cứu các dấu hiệu giá trị mà hình thái điển hình của các dấu hiệu giá trị là tiền giấy và tiền kim loại kém giá.

Karl Marx nghiên cứu hình thái tiền tệ trực tiếp sinh ra từ quá trình trao đổi hàng hóa, chứ không nghiên cứu các hình thái tiền tệ thuộc về một giai đoạn cao hơn của quá trình trao đổi.

Để nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ, Karl Marx đi từ việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái giá trị. Theo học thuyết giá trị của mình KMarx nghiên cứu bốn hình thái giá trị sau:

– Hình thái giá trị giản đơn còn gọi là hình thái giá trị ngẫu nhiên.

– Hình thái giá trị mở rộng còn gọi là hình thái giá trị đẩy đủ.

– Hình thái giá trị chung còn gọi là hình thái giá trị phổ biến.

– Hình thái tiền tệ.

1.1. Hình thái giá trị giản đơn (ngẫu nhiên)

Đây là hình thái giá trị đầu tiên, xuất hiện vào giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thủy, khi trình độ sản xuất trong các công xã đã bắt đầu phát triển, là tiền đề nảy sinh quan hệ trao đổi. Quan hệ trao đổi trong công xã chỉ mang tính chất ngẫu nhiên, cá biệt và giản đơn mà thôi.

Phương trình trao đổi:

x hàng hóa A = y hàng hóa B

Hình thái giá trị giản đơn có những đặc trưng sau đây:

– Trao đổi hàng hóa chưa trở thành nhu cầu của con người.

– Giá trị của một hàng hóa này chỉ có thể biểu hiện thông qua một hàng hóa khác một cách ngẫu nhiên.

– Trao đổi rất giản đơn và mang tính trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác (vật – vật), quan hệ trao đổi chỉ có thể được thực hiện khi nào được thỏa mãn tất cả các điều kiện về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian. – Vật ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính giản đơn.

1.2. Hình thái giá trị mở rộng (đầy đủ)

Hình thái này xuất xứ khi trình độ sản xuất trong các công xã ngày càng phát triển hơn, hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, tạo khả năng trao đổi ngày càng lớn hơn.

Mặt khác, do sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sự hình thành chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và xuất hiện cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề cho sự phát triển của trao đổi hàng hóa, làm cho trao đổi hàng hóa trở thành nhu cầu và đã được mở rộng hơn.

Phương trình trao đổi:

Vật ngang giá trong hình thái chung khác nhau như thế nào trong hình thái tiền

Đặc trưng của hình thái này:

– Trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu của con người và phức tạp hơn. – Giá trị của một hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau.

– Trao đổi hàng hóa vẫn là trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác, nghĩa là quá trình mua đồng thời là quá trình bán, nên vẫn phải lệ thuộc vào các điều kiện về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian.

– Vật ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính đặc thù và riêng biệt.

1.3. Hình thái giá trị chung

Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, nên trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu thường xuyên hơn, chuỗi hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá ngày càng dài vô tận và chồng chéo lên nhau, làm cho quan hệ trao đổi rất khó khăn và phức tạp.

Mặt khác trình độ phân công lao động xã hội ngày càng cao làm cho sản xuất và đời sống bị lệ thuộc vào trao đổi. Do đó trao đổi không chỉ là nhu cầu thường xuyên mà còn mang tính cấp bách. Trao đổi trực tiếp vật – vật không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải thay thế bằng hình thức trao đổi hoàn thiện hơn, đó là trao đổi gián tiếp thông qua một hàng hóa trung gian.

Phương trình trao đổi:

Vật ngang giá trong hình thái chung khác nhau như thế nào trong hình thái tiền

Đặc trưng:

– Trao đổi đã trở thành cầu thường xuyên hơn và mang tính cấp bách.

– Giá trị hàng hóa được biểu hiện một cách thống nhất. Không còn trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác nữa, mà trao đổi thông qua một hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung

1.4. Hình thái tiền tệ

Khi cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai xuất hiện, sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà thậm chí còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, đã dẫn tới quan hệ trao đổi trở thành nhu cầu thường xuyên và mang tỉnh cấp bách hơn, mở rộng hơn làm phá vỡ phạm vi địa phương chặt hẹp trước đây, do đó đòi hỏi:

– Vật ngang giá chung phải thống nhất vào một hàng hóa duy

nhất trong phạm vi quốc gia, quốc tế.

– Vật ngang giá chung phải đáp ứng điều kiện:

+ Có giá trị cao. + Thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, dễ gộp lại, ít bị hao mòn giá trị.

+ Không bị các phản ứng hóa học làm hư hỏng .

Hàng hóa được chọn làm vật ngang giá độc quyền để biểu hiện và đo lường giá trị của mọi hàng hóa trong phạm vi quốc gia và phạm vi quốc tế phải là vàng.

Vì sao lại phải là vàng? vì chỉ có vàng mới là thứ kim loại duy nhất thỏa mãn các điều kiện trên đây nên vàng trở thành tiền tệ và có tên gọi là tiền tệ.

Phương trình trao đổi:

Vật ngang giá trong hình thái chung khác nhau như thế nào trong hình thái tiền

Thông qua việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái giá trị của Karl Marx chúng ta thấy rằng:

Lúc đầu vật ngang giá chung là những hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho từng bộ lạc hoặc từng địa phương. Sau đó vật ngang giá chung có ý nghĩa tượng trưng như: vỏ sò, xương thủ, vòng đá. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng và trở thành nhu cầu thường xuyên hơn, cấp bách hơn của các bộ tộc, lúc đó vật ngang giá chung được lựa chọn là các kim loại.

Kim loại được sử dụng đầu tiên làm vật ngang giá chung là đồng, sau đồng là bạc, đến đầu thế kỷ XIX vàng đóng vai trò vật ngang giá chung. Khi vàng độc quyền đóng vai trò vật ngang giả chung, nó được gọi là kim loại tiền tệ, hay tiền tệ.

Như vậy tiền tệ là một loại hàng hóa, nhưng nó lại có khả năng trao đổi trực tiếp với nhiều loại hàng hóa khác và trước khi trao đổi với chúng, vàng phải do được giá trị của những hàng hóa này. Chính vì vậy mà tiền tệ không chỉ là hàng hóa thông thường mà còn là hàng hóa đặc biệt.

2. Bản chất của tiền tệ

2.1. Khái niệm

Tiền tệ là một hàng hóa – hàng hóa đặc biệt, độc quyền đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường, biểu hiện giá trị của các hàng hóa và là phương tiện lưu thông hàng hóa.

Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ là phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. Quá trình xuất hiện của tiền tệ cho ta thấy, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Điều đó có nghĩa rằng: tiền tệ phát sinh, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và tổn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bởi vậy ở đâu còn sản xuất và trao đổi hàng hóa ở đó còn tồn tại tiền tệ và khi nào không còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì lúc đó sẽ không còn tiền tệ nữa.

Tiền tệ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa, đã chứng minh nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế thị trường. Quá trình này thể hiện ở chỗ “cùng với sự chuyển hóa chung của sản phẩm lao động thành hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển hóa thành tiền tệ”.

Vàng trở thành tiền tệ. Vì sao vàng lại trở thành tiền tệ? Vì bản thân kim loại này vốn đã là hàng hóa. Do đó cũng như các hàng hóa khác tiền tệ có hai thuộc tỉnh: Giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì nó có giá trị sử dụng đặc biệt. Đó là giá trị sử dụng xã hội, tiền tệ là thước do giá trị và phương tiện lưu thông cho cả thế giới hàng hóa. Vị trí này cho đến nay chưa có hàng hóa nào thay thế được vàng.

Khi đề cập về vấn đề này Karl Marx đã viết: “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”

Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực rõ rệt. Một cực là tất cả các hàng hóa thông thường có nhu cầu biểu hiện giá trị của mình ở tiền tệ và các hàng hóa này có thể thỏa mãn được một hoặc một vài nhu cầu nào đó của con người. Còn bên kia – cực đối lập, là tiền tệ – vàng, trực tiếp biểu hiện giá trị các hàng hóa. Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều kiện nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được tất cả các nhu cầu của con người.

2.2. Bản chất

– Tiền tệ là hàng hóa vì tiền tệ có hai thuộc tính như các hàng hóa thông thường khác, đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng.

– Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì ngoài giá trị sử dụng riêng ra tiền tệ còn có giá trị đặc biệt, đó là có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều kiện nào, trong bất kỳ không gian và thời gian nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu của con người.

Bản chất của tiền chỉ được hiểu một cách đầy đủ thông qua các chức năng của tiền tệ.

(Nguồn tài liệu: TS. Lê Thị Mận, Lý thuyết Tài chính Tiền tệ, 2010)