Nhân vật chính trong truyện dế Mèn phiêu lưu ký là ai

Đề bài

Phân tích nhân vật Dế Mèn trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài.

Lời giải chi tiết

      Dế Mèn phiêu lưu ki là tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài viết về loài vật, dành cho lứa tuổi thiếu nhi (truyện đồng thoại). Trong truyện, Dế Mèn là nhân vật chính đã trải qua những cuộc phiêu lưu lí thú, đầy mạo hiểm. Sự trải nghiệm cuộc đời của Dế Mèn, những bài học mà Dế Mèn rút ra qua bao nhiêu hiểm nguy sóng gió chính là hành trang để Mèn bước vào đời và trỏ thành một chàng Dế cao thượng. Chính vì thế, có thể nói rằng cuộc đời của Dế Mèn là một bài học lớn - đi một ngày đàng, học một sàng khôn.

      Từ những ngày đầu, Dế Mèn được mẹ cho ra ở riêng, sống độc lập đế sau này ra đời khỏi bỡ ngỡ, Dế Mèn đã thấy được cuộc sống phức tạp như thế nào! Những suy nghĩ đầu tiên của chú là ý thức được rằng khổ quá, những kể yếu đuối vật lộn cật lực mà cũng không sống nổi. Thế nhưng một sự kiện đau lòng xảy ra và là một bài học lớn cho Dế Mèn. Đó là cái chết của Dế Choắt. Lần đầu tiên trong đời, Dế Mèn gây ra tội lỗi. Chỉ vì sự trêu chọc của chú với chị Cốc mà Dế Choắt chết oan. Những lời nói cuối cùng của Dế Choắt ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy đã là bài học đường đời đầu tiên mà Dế Mèn không thể nào quên. Nó ám ảnh Dế Mèn suốt đời về thói hung hăng, không biết suy nghĩ của tuổi trẻ. Những giọt nước mắt hối hận của Dế Mèn cũng là sự thức tĩnh lương tâm trên chặng đường vào đời của Mèn. Rồi sự sôi nổi, bồng bột của Mèn tưởng có thế làm lu mờ biến cố đầu tiên ấy. Nhưng cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ của Dế Mèn khi bị bọn trẻ bắt làm đồ chơi với sự xuất hiện của anh Xén Tóc đã làm cho Mèn thêm một bài học nữa.

      Dế Mèn đã biến mình thành một thứ trò chơi cho bọn trẻ con mà không hề hay biết. Mèn rất tự hào và kiêu hãnh ở vị trí của một con dế cụ bách chiến bách thắng, nông cạn và không biết suy nghĩ. Dế Mèn đã trở nên nhỏ bé, ích kỷ và tàn nhẫn. Nó thẳng tay đánh cả những con dế nhỏ bé, yếu đuối để đổi lấy những lời khen ngợi làm Mèn phổng mũi. Thế rồi! Theọ quy luật của cuộc đời, những kẻ hay cậy sức đi áp bức kẻ khác thì sẽ có kẻ mạnh hơn trị lại. Dế Mèn đã được anh Xén Tóc thức tình. Hai cái râu cụt là bài học đích đáng cho Mèn. Dế Mèn đã hiểu ra, nhận thức được lỗi lầm của mình và quyết tâm sửa chữa. Cuộc đời này tuy không thuận lợi, dễ dàng nhưng cũng đã đem đến cho Dế Mèn bao nhiêu là bài học. Mèn nhận thấy cần phải đi nhiều hơn nữa: Đời trai mà không biết bay nhảy, không biết đi đó đi đây thì cuộc sổng nhạt nhẽo lắm.

      Trốn thoát, trở về quê, Dế Mèn trở thành một chàng trai đứng đắn, làm nhiều việc nghĩa, trừng trị những kẻ hay bắt nạt chị Nhà Trò yếu ớt. Sau bao lần lầm lỗi, với việc làm nhân nghĩa, Dế Mèn đã lớn lên rất nhiều và nhận ra ích lợi của việc “đi” trong cuộc đời. Cuộc phiêu lưu lần- thứ hai của Dế Mèn mà chú mong mỏi đã xảy ra, đem lại bao bài học, bao nhiêu tri thức mới mẻ thú vị trong cuộc đời. Đúng là càng đi, tầm mắt của Dế Mèn càng được mở rộng. Những cuộc phiêu lưu dũng cảm đã náng Mèn lớn lên, dần dần hoàn thiện tính cách tốt đẹp của một thanh niên.

      Nhưng trong cuộc sống không ít những kẻ thiển cận theo kiểu “ếch ngồi đáy giếng”. Đó là người anh trai của Dế Mèn sống cuộc đời vô nghĩa, nhàm chán, “đớn hèn” và ốm yếu. Người anh cả tuy khoẻ mạnh, khá giả nhưng chỉ quanh quẩn bắt nạt những kẻ khác. Đó cũng chính là bài học của sự “không đi”. Ngạo mạn, khinh bỉ những kẻ không muốn mở mang trí óc, Dế Mèn lại ra đi. Lần này ra đi, Dế Mèn lại có thêm người bạn đồng hành là Dê, Trũi. Trũi tính tình cũng thẳng thắn và hay đi đây đó. Trải bao sóng gió Mèn đã “lớn lên” thực sự, nhất là sau mười ngày lênh đênh trên nước, không ăn. Mười ngày đáng nhớ đem đến cho Mèn ý thức yêu mến cuộc sống, tinh thần vươn lên để chống trọi khó khăn đôi khi tưởng không chịu nối ở đời. Dế Mèn hiểu được sức mạnh của tình bạn, của lòng kiên trì, và niềm lạc quan tin tưởng.

      Cuộc phiêu lưu của Dế Mèn còn đánh dấu những giây phút thiêng liêng của tình bạn. Dế Mèn bằng tất cả sức mình, cứu Trũi thoát khỏi cái chết, điều mà trước đây, Mèn đã không thể làm được với Dế Choắt. Chính cuộc đời này, chính cuộc hành trình trên đường đời đã rèn luyện để Mèn có một trái tim cao thượng. Hành động anh hùng, lòng nhân ái nơi Mèn là ở sự phát triển nhân cách cao nhất sau những chuyến đi ấy.

      Những trang cảm động nhất của Tô Hoài là những trang miêu tả tâm trạng Dế Mèn thương nhớ Trũi. Với tình cảm chân thành và lòng tin tưởng vào cuộc sống, Mèn đã chiến thắng. Sau bao chặn đường chông gai vất vả, Mèn và Trũi lại được gặp nhau. Sự hoàn thiện tính cách của Trũi cũng được hoàn thiện sau chuyên đi này. Trũi không còn bồng bột nữa, đã trở thành “người” chín chắn sau chuyên phiêu lưu thứ hai. Tất cả Dế Mèn, Dế Trũi, Xén Tóc đã trở thành những “người” có tâm hồn đầy nhân ái, tấm lòng cao thượng và trái tim dũng cảm. Dế Mèn đã rút ra được nhiều bài học thấm thìa qua bao nhiêu “ngày đàng”. Mèn và các bạn đã lớn lên cả về thể xác và tâm hồn. Cuộc phiêu lưu thứ ba là sự nối tiếp của tính cách ham học hỏi hiểu biết của Dế Mèn, với mục đích cao quí hơn đó là làm “sứ giả hoà bình”.

      Câu tục ngữ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn đã được chứng minh thật sống động qua Dế Mèn phiêu lưu kí mà tập trung cao độ ở nhân vật Dế Mèn.

      Dế Mèn là một nhân vật văn học quen thuộc, thân yêu của các em thiếu nhi. Qua những cuộc phiêu lưu của Dế Mèn, ta nhận ra rằng: trường đại học chân chính nhất để rèn luyện con người chính là cuộc đời. Trải qua những cuộc phiêu lưu mạo hiếm với đường đời đã giúp Dế Mèn thực sự trở thành một chàng dế “bình thường” chứ không “tầm thường” với trái tim “nhân ái, cao thượng”. Đó cũng chính là con đường mà mỗi chúng ta đã và sẽ đi.

Loigiaihay.com

1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC ******************** PHẠM THỊ TÂM THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG DẾ MÈN PHIÊU LƯU KÍ (TÔ HOÀI) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi Người hướng dẫn khoa học Th.S - GVC NGUYỄN NGỌC THI HÀ NỘI - 2011 2 Lời cảm ơn Tác giả khoá luận xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học, các thầy cô giáo giảng dạy bộ môn văn học thiếu nhi đã hớng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình làm khoá luận. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Ngọc Thi ngời đã trực tiếp hớng dẫn , chỉ bảo tận tình, chu đáo để tôi hoàn thành tốt khoá luận này. Đề tài Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí (Tô Hoài) là một đề tài hay và hấp dẫn. Song, do thời gian có hạn và sự hạn chế về năng nực nên khoá luận của tôi không tránh khỏi những hạn chế và thiếu xót. Rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến chân thành của thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài này đợc hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2011 Sinh viên Phạm Thị Tâm 3 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan kết quả của khoá luận này là kết quả của riêng bản thân tôi nghiên cứu. Các số liệu thống kê trong khoá luận là chân thực. Kết quả nghiên cứu không trùng với kết quả của các tác giả khác. Sinh viên Phạm Thị Tâm 4 Mục Lục Mở đầu 1.Lý do chọn đề tài 1.1. Lý do khách quan 1.2. Lý do chủ quan 2. Lịch sử vấn đề 3. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu 3.2. Đối tợng nghiên cứu 4. Mục đích nghiên cứu 5.Phơng pháp nghiên cứu 6. Giả thuyết khoa học Nội dung chính Chơng 1: Cơ sơ lí luận 1.1.Khái niệm 1.1.1.Khái niệm nhân vật 1.1.2.Khái niệm thế giới nhân vật 1.2. Vai trò của nhân vật văn học 1.3. Phân loại nhân vật văn học 1.4. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chơng 2: Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí-(Tô Hoài). 2.1. Nhân vật chính trung tâm 2.2. Nhân vật phụ Chơng 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí-(Tô Hoài). 3.1. Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật qua miêu tả ngoại hình nhân vật 3.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ 3.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ ngời kể chuyện 5 3.2.2. NghÖ thuËt x©y dùng tÝnh c¸ch nh©n v©t th«ng qua ng«n ng÷ nh©n vËt 3.3. NghÖ thuËt x©y dùng tÝnh c¸ch nh©n vËt th«ng qua x©y dùng t×nh huèng truyÖn KÕt luËn Tµi liÖu tham kh¶o 6 Mở đầu 1. lí do chọn đề tài. 1.1. Lí do khách quan. Đến với con đờng nghệ thuật từ cuối những năm 30 đến nay, Tô Hoài đã có những đóng góp lớn lao cho sự nghệp văn học nớc nhà với một số lợng tác phẩm đồ sộ. Phong phú về đề tài, đa dạng về thể loại và chất lợng đợc đánh giá cao mà ít ai có thể so sánh đợc. Từ truyện ngắn cho đến truyện dài, tiểu thuyết, bút kí, truyện ngời lớn, truyện thiếu nhi gắn với nhiều đề tài: hoà bình và chiến tranh; miền núi và miền xuôi, thành thị và nông thôn, lịch sử và hiện đại ở đề tài nào, thể loại nào ông cũng gặt hái đợc ít nhiều thành công. Hơn 60 năm tuổi viết, Tô Hoài đã có một mảng văn học đặc biệt dành cho tuổi thơ và ông là ngời có công đặt viên gạch đầu tiên dựng nên ngôi nhà văn học thiếu nhi Việt Nam hiện đại. Tô Hoài luôn dành cho các em những tình cảm u ái nhất và ông luôn đồng hành cùng các em trên các chặng đờng khám phá cuộc sống. Ông nh một ngời bạn lớn tuổi nhng vô cùng vui tính, thú vị vì đã mang đến cho thiếu nhi những câu chuyện kỳ thú, lôi cuốn rất phù hợp với lứa tuổi trẻ thơ. Ông đến với thiếu nhi từ những trang viết đầu tay của mình. Trong những sáng tác của ông chứa đựng những t tởng, khát vọng về lối sống cao đẹp, những chân trời rộng mở, lòng yêu cuộc sống và tạo vật bao la. Tình yêu thơng những ngời nghèo khổ, bất hạnh, sự cảm phục những tấm gơng anh hùng trong chiến đấu. Song, những t tởng biểu hiện nhất quán qua hàng mấy chục tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài là lòng yêu thơng và trân trọng con ngời. Là tình cảm u ái đặc biệt của nhà văn dành cho tuổi thơ, những mầm nụ còn tơi non đang cần đợc vun đắp. Những trang văn đầu tiên cho đến những tác phẩm gần đây nhất của Tô Hoài vẫn thể hiện một tâm hồn tơi trẻ, ân cần và cảm thông. Ông viết cho thiếu nhi với cả 7 ý thức, trách nhiệm, niềm say mê, tâm huyết của mình. Ông luôn xem văn học thiếu nhi là một công cụ có tác dụng giáo dục trực tiếp cho các em. Đặc biệt, Tô Hoài rất thành công với truyện đồng thoại- đợc coi là món quà vô giá giúp trẻ thơ giải trí lành mạnh. Các tác phẩm viết cho thiếu nhi của ông xuất phát từ những gì giản dị nhất, gần gũi và thân thiết nhất với các em. Thế giới nhân vật trong truyện đợc tác giả tái hiện gắn liền với cuộc sống xã hội loài ngời, với thiếu nhi, có tâm hồn, tình cảm, có tranh đấu vì lý tởng cao đẹp. Trong thế giới nhân vật đó không có Phợng, Hoàng, S Tử, Kì Lân, Cáo, Sóimà là Giun, Dế, Chuồn Chuồnnhững con vật rất đỗi gần gũi, thân thuộc trong đời sống của trẻ, chứa đựng những t tởng lớn lao, khát vọng hớng tới một cuộc sống tốt đẹp. Mỗi câu chuyện là một bài học lý thú dẫn các em vào thế giới của ớc mơ, đợc đi xa để mở mang tầm mắt, sống chan hoà với muôn loài, biết hành động vì lý tởng sống đó: Dế Mèn phiêu lu kí, Đám cới chuột, võ sỹ Bọ NgựaTô Hoài không đến với các em trong một khoảnh khắc nào đó của cuộc đời mà ông dành hết tâm huyết của mình cho các em, cho nền văn học nớc nhà. Truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của các em, những nhân vật đã thực sự bớc ra khỏi trang sách để đi vào cuộc sống hàng ngày một cách tự nhiên. Với Dế Mèn phiêu lu kí, thiên đồng thoại xuất sắc nhất của Tô Hoài(1941), các em đợc tiếp xúc với một thế giới côn trùng phong phú, đa dạng. Thế giới đó chính là một xã hội thu nhỏ, có cả ngời tốt, kẻ xấu và điều quan trọng là qua câu chuyện tác giả đã bày tỏ lòng tin vào điều thiện và cuộc sống hoà bình, thân ái, nêu cao lý tởng muôn loài cùng nhau kết thành anh em. Tác phẩm đã khẳng định tiếng nói đặc sắc cũng nh vị trí văn học độc đáo của Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam nói chung, văn học thiếu nhi nói riêng. Khi đọc truyện, tuổi thơ sẽ bị lôi cuốn vào thế giới li kì, giàu kịch tính, pha trộn cả hiện hực và huyền thoại bởi thế giới nhân vật gần gũi, bé nhỏ: 8 Chàng Dế Mèn khoẻ mạnh, thông minh, đờng hoàng đáng yêu; anh Dế Trũi cần cù, chung thuỷ; cô Nhà Trò yếu ớt; võ sỹBọ Ngựa kiêu căngBằng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, ông đã xây dựng nên một thế giới nhân vật- thế giới côn trùng sinh động làm cho những con vật quen thuộc ấy trở nên hấp dẫn, lý thú với bạn đọc. ở Dế Mèn phiêu lu kí, từ sự quan sát bên ngoài đến nội dung bên trong của nhân vật Dế Mèn chính là hình ảnh của Tô Hoài và cảnh sống của dân nghèo trong hoàn cảnh xã hội đơng thời, Tô Hoài đã từng tâm sự: Mọi chuyện loài vật thật ra là vấn đề của nhân vật, của con ngời. Chủ đề và triết lí của truyện loài vật hoàn toàn là các vấn đề của con ngời. Có điều đặc biệt là tôi đều dựa trên thực tế chi tiết về từng con vật và sinh hoạt của con vật đó chứ không phải tởng tợng vu vơ[8, 135]. Qua những trang viết về loài vật, đặc biệt là truyện Dế Mèn phiêu lu kí, chúng ta có thể khẳng định Tô Hoài là nhà văn có kiến thức rất phong phú của một nhà động vật học, nhà côn trùng học. Ông viết truyện loài vật không phải để nói chuyện khoa học mà nói chuyện của loài ngời. Những con vật, ngoài những đặc điểm vốn có, chúng đều đợc ông cho thêm những tính cách, những tâm t của con ngời. Thế giới vật gợi cho ngời đọc liên tởng tới thế giới ngời với những đầy đủ tính cách và số phận, suy nghĩ và hành động riêng. Đó chính là cảm hứng hiện thực trữ tình, cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nhà văn nói riêng và của văn học nói chung bao giờ văn học cũng hớng tới con ngời, vì con ngời. 1.2. Lý do chủ quan. Nghiên cứu đề tài Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí của Tô Hoài có ý nghĩa rất lớn đối với tôi trong công tác giảng dạy sau này. Nó giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về thể loại đồng thoại, sự yêu thích của thiếu nhi khi tiếp nhận các tác phẩm văn chơng, nhất là các tác phẩm viết về loài vật của Tô Hoài và những giá trị to lớn, những đóng góp tâm huyết của nhà văn đã đóng góp vào kho tàng văn học thiếu nhi Việt Nam. 9 Là giáo viên Mầm non trong tơng lai, nhiệm vụ không chỉ cung cấp cho các em những kiến thức sơ đẳng về cuộc sống mà còn giáo dục cho các em những bài học đạo đức qua các câu chuyện, góp phần làm nền tảng cho sự phát triển nhân cách trẻ. Do đó, các bài học đạo đức đợc rút ra từ câu chuyện là một công cụ giáo dục sắc bén đối với các em. Nhờ thế giới nhân vật phong phú, đa dạng mà tác phẩm đã có đợc sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt, khiến ngời đọc càng khao khát muốn tìm hiểu, khám phá. Hiểu đợc nghệ thuật ấy giúp tôi có thể cảm thụ tác phẩm sâu sắc hơn, từ đó việc truyền đạt tới các em thuận lợi và hiệu quả hơn, phát huy tối đa tính giáo dục của tác phẩm. Xuất phát từ những lý do trên nên tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài Thế giới nhân vật trong Dế mèn phiêu lu kí_ (Tô Hoài). 2. lịch sử vấn đề. Đến với nghệ thuật từ những năm 30, nhà văn Tô Hoài đã có những cống hiến vĩ đại cho nền văn học nớc nhà. Trong mỗi chặng đờng phát triển, ông đều đạt đợc những thành tựu nhất định. Dõi theo cuộc đời sáng tác của ông gần nửa thế kỉ qua, ngời đọc vẫn thấy ở ông ngòi bút tơi mới không bị cũ đi với thời gian, không bị bó hẹp trong một khuôn khổ nào. Ông luôn có những cố gắng tìm tòi, khám phá làm nên sức hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền đối với đời sống tinh thần bạn đọc nhiều thế hệ. Tô Hoài bớc vào con đờng nghệ thuật khá sớm và là cây bút viết đều, viết nhiều, viết dẻo dai và sung sức ở rất nhiều đề tài khác nhau: cách mạng-đời thờng, hoà bình- chiến tranh, miền núi- miền xuôi, nông thôn- thành thị, đời sống rộng lớn của các tầng lớp nhân dân và những hồi ức riêng t mà vẫn đậm đà d vị xã hội. Bên cạnh đó, ông còn sáng tác khá nhiều truyện viết cho thiếu nhi và những truyện lịch sử, dã sử Cho đến nay, ông đã có trên dới 150 tác phẩm văn xuôi với nhiều thể loại trong đó có 50 đầu sách cho trẻ em. 10 Truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài, ngay từ những tác phẩm đầu tiên cho đến nay đã là một đối tợng đợc nhiều giới nhà văn, nhà lí luận phê bình văn học nghiên cứu: Vân Thanh, nhà nghiên cứu văn học đã nói: Thế giới loài vật là một nội dung đặc sắc và độc đáo trong văn xuôi Tô Hoài. Sáng tác một nhân vật Dế Mèn trong thế giới các nhân vật nhỏ bé giữa thiên nhiên ở ngoài tuổi 20, Tô Hoài bộc lộ tài năng đột xuất về nhiều mặt. Đó là khả năng hoá thân vào sự sống của vật và đồng thời đa lại cho thế giới vật sự sống của ngời[12, 13]. Phan Cự Đệ có viết: ở tuổi nhi đồng thì thế giới quen thuộc là môi trờng xung quanh gần gũi, là chim muông, cỏ cây, hoa lá mà qua cách nhìn ngây thơ của các em chúng đều có tâm hồn, có thể truyện trò, san sẻ nỗi buồn niềm vui[2, 696]. Không chỉ phân tích về nghệ thuật, Phan Cự Đệ còn phát hiện thêm về tính chất giáo dục đặc biệt trong sáng tác của Tô Hoài: Tô Hoài là một nhà văn viết cho thiếu nhi với cả ý thức trách nhiệm, với niềm say mê và tâm huyết của mình. Anh xem nền văn học viết cho thiếu nhi nh là một công cụ có tác dụng giáo dục trực tiếp cho các em. Vì ngời viết phải chú ý hết sức đến phơng pháp giáo dục sao cho phù hợp với các lứa tuổi, phù hợp với một đối tợng đơng phát triển, mỗi bớc mỗi đổi thay về tâm sinh lý. Hay Nguyễn Đăng Điệp thì nhậ định: Dế Mèn phiêu lu kí là truyện viết cho thiếu nhi nhng cũng là truyện viết cho ngời lớn vì ẩn chứa trong tác phẩm này là bài học nhân sinh sâu sắc. Với Dế Mèn phiêu lu kí Tô Hoài thực sự là cây bút hàng đầu về nghệ thuật miêu tả thế giới loài vật- biệt tài ấy còn đợc Tô Hoài mà sắc mãi về sau[3, 113]. Trên đây là một số ý kiến tiêu biểu của một vài tác giả quen thuộc về truyện loài vật dành cho thiếu nhi của Tô Hoài. Mỗi ý kiến, nhận định của tác giả đều nói lên đợc những khía cạnh, phơng diện khác nhau về Tô Hoài và 11 về tác phẩm Dế Mèn phiêu lu kí. Các tác giả đã đề cập đợc tới những đặc sắc trong nội dung các sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài, nổi bật là thế giới loài vật trong Dế Mèn phiêu lu kí. Qua đó các tác giả đã khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu là nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông trong các tác phẩm viết về loài vật nói chung và đặc biệt trong Dế Mèn phiêu lu kí nói riêng. Tô Hoài đã thành công khi xây dựng nên một thế giới nhân vật phong phú, đa dạng. Đó là những con vật gần gũi quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Chính điều đó mà Dế Mèn phiêu lu kí luôn tạo đợc sức hấp dẫn, lôi cuốn nhiều giới phê bình và trái tim bạn đọc. 3. Phạm vi nghiên cứu và đối tợng nghiên cứu. 3.1. Phạm vi nghiên cứu. Tô Hoài là một trong số những nhà văn viết đều tay cho thiếu nhi. Khi nghiên cứu về ông, có thể xem xét nghiên cứu nhiều vấn đề và mỗi vấn đề có nhiều khía cạnh nh: nội dung và đề tài, giá trị nhận thức và giá trị giáo dục, phong cáh kể chuyện, thế giới nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vậtSong, trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp tôi tập trung nghiên cứu về Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí- (Tô Hoài). - Cơ cấu khoá luận gồm: Mở đầu. Nội dung chính: + Chơng 1: Cơ sở lí luận. + Chơng 2: Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí. + Chơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí. Kết luận. 3.2. Đối tợng nghiên cứu. Đối tợng nghiên cứu của đề tài là Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí của Tô Hoài. 4. Mục đích nghiên cứu. 12 Nghiên cứu đề tài này giúp tôi hiểu sâu hơn về truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài, tiêu biểu là truyện đồng thoại về loài vật nh: Võ sĩ Bọ Ngựa, Mèo già hoá cáo, Dê và Lợn, hai anh em, Đám cới chuột,đặc biệt là tác phẩm Dế Mèn phiêu lu kí. Qua tác phẩm giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về thế giới nhân vật và nghệ thuật độc đáo trong xây dựng nhân vật của tác phẩm, sẽ giúp ích cho tôi rất nhiều trong công tác giảng dạy sau này. 5. Phơng pháp nghiên cứu. Thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phơng pháp sau: - Phơng pháp đọc sách, tài liệu tham khảo. - Phơng pháp thống kê, khảo sát. - Phơng pháp so sánh, đối chiếu. - Phơng pháp phân tích, tổng hợp. 6. Giả thuyết khoa học. Nếu phát hiện ra những nét đặc sắc về Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí sẽ giúp tôi nâng cao đợc hiệu quả dạy học trong môn văn học, đặc biệt là rèn luyện và nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. 13 Nội dung chính Chơng 1 :cơ sở lí luận. 1.1. Tìm hiểu chung về nhân vật. 1.1.1. Khái niệm nhân vật. Theo nghĩa rộng nhân vật là khái niệm không chỉ đợc dùng trong văn chơng mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê thì nhân vật là khái niệm đợc hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, nhân vật là đối tợng (thờng là con ngời) đợc miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học. Thứ hai, đó là ngời có vị trí nhất định trong xã hội[11, 881]. Tức thuật ngữ nhân vật đợc dùng phổ biến ở nhiều mặt cả trong đời sống xã hội, đời sống nghệ thuật lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nhng trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận, tôi chỉ đề cập đến khái niệm nhân vật theo nghĩa thứ nhất. Văn học phản ánh hiện thực qua hình tợng. Nói cách khác hình tợng là lăng kính để nhân vật phản ánh cuộc sống. Trong tác phẩm trữ tình (thơ) hình tợng là cảm xúc trữ tình, hình ảnh thơ, còn đối với tác phẩm tự sự thì hình tợng là nhân vật và sự kiện. Trong tiếng Hi Lạp cổ nhân vật (nghĩa là persona) lúc đầu chỉ mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian chúng ta sử dụng thuật ngữ này với tần số nhiều nhất, thờng xuyên nhất để chỉ đối tợng mà văn học miêu tả và thể hiện. Nhân vật văn học có vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học, nó là mắt xích cơ bản xâu chuỗi, kết dính các yếu tố, sự kiện và là nơi chủ yếu để nhà văn thể hiện t tởng của mình. Việc xây dựng nhân vật vì vậy mà trở thành công việc quan trọng, đòi hỏi sự sáng tạo độc đáo. Với các tác giả thì 14 hình tợng mới có sự lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc. Muốn hiểu giá trị của tác phẩm chúng ta đều phải bắt đầu từ hình tợng nhân vật trong tác phảm. Để tìm hiểu Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí (Tô Hoài) trớc hết chúng ta phải có hiểu biết chung nhất về nhân vật. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhân vật khi ta đI tìm hiểu các tài liệu tham khảo: Trong cuốn Lí luận văn học Hà Minh Đức định nghĩa về nhân vật nh sau: Nhân vật văn học là một hình tợng nghệ thuật mang tính ớc lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con ngời mà chỉ là sự thể hiện con ngời qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cácvà cần chú ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân vật thờng đợc quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con ngời, những con ngời có tên hoặc không tên, đợc khắc hoạ sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con ngời cũng có khi đó không phải là những con ngời, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tợng về con ngời hoặc có liên quan đến con ngời, đợc thể hiện nổi bật trong tác phẩm[4, 182]. Còn Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì cho rằng: Nhân vật văn học là những con ngời cụ thể đợc miêu tả trong tác phẩm văn học, nhân vật văn học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ớc lệ, không thể đồng nhất nó với con ngời thật trong đời sống[6, 235]. Trong cuốn Lí luận văn học của Phơng Lựu, Trần Đình Sử lại định nghĩa nh sau: Nói đến nhân vật văn học là nói đến con ngời đợc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phơng tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên nh Tấm, Cám, Thạch SanhĐó là những nhân vật không tên nh Thằng 15 bán tơ, Mụ nào (ai) Truyện Kiều(Nguyễn Du)Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội dung ý nghĩa con ngờiKhái niệm nhân vật có khi chỉ đợc sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con ngời cụ thể nào mà chỉ một hình tợng nổi bật trong tác phẩm. Nhân vật văn học là một hình tợng nghệ thuật ớc lệ, có những dấu hiệu để ta nhận biết[10, 277-278]. Theo Lại Nguyên Ân: Nhân vật văn học là hình tợng nghệ thuật về con ngời, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con ngời trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con ngời Nhân vật văn học có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đờng đợc gắn cho những đặc điểm giống con ngời. Nhân vật văn học là phơng tiện nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính con ngời, nhân vật có ý nghĩa trớc hết ở các loại hình văn học và kịch. Các thành tố tạo nên văn học gồm: Hạt nhân tinh thần của cá nhân, t tởng, lợi ích đời sống, thế giới cảm xúc, ý chí, các ý thức và hoạt động. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật nó mang tính ớc lệ, không thể bị đồng nhất với con ngời thực ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần gũi với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngời, nó có thể đợc xây dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hớng, trờng phái hoặc một phong cách[1, 249]. Theo Hoàng Phê: Nhân vật là đối tợng thờng là con ngời đợc miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học, nghệ thuật[11 , 771]. Có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân vật văn học, định nghĩa nào cũng có u điểm riêng. Song quan điểm của Lại Nguyên Ân là đầy đủ và chuẩn xác hơn cả. 16 Tựu chung lại ta có thể thấy: Nhân vật văn học chính là con ngời (tồn tại ở nhiều dạng thức khác nhau) đợc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học bằng phơng tiện văn học nhằm thể hiện t tởng, chủ đề của tác phẩm, dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Nhân vật văn học không bó hẹp trong phạm vi là con ngời mà còn là các con vật, loài vật, các sinh thể khác nhau gắn cho chúng đặc điểm giống, khác con ngời để tái hiện cuộc sống phong phú của con ngời. Tác phẩm văn học thành công khi tác giả xây dựng hình tợng nhân vật độc đáo, đặc sắc đồng thời thể hiện t tởng của thời đại. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật mang tính ớc lệ, không thể đồng nhất với con ngời thật ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngời, nó có thể đơc xây dựng chỉ dựa trên cơ sơ quan niệm ấy. 1.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật. Thế giới là một khái niệm thuộc phạm trù triết học, theo Từ điển triết học Thế giới đợc hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng : Thế giới là toàn bộ hiện thực khách quan ( tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con ngời ) thế giới là nguồn gốc của nhận thức[13, 1083]. Theo nghĩa hẹp: Thế giới dùng để chỉ đối tợng của vũ trụ, nghĩa là toàn bộ thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Ngời ta đã chia thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực không có danh giới tuyệt đối: thế giới vĩ mô và thế giới vi mô[13, 1083]. Nh vậy Thế giới là một phạm vi, một vũ trụ rộng lớn tồn tại xung quanh con ngời và tồn tại độc lập với ý thức con ngời. Thế giới nhân vật là một phạm trù rất rộng: 17 Thế giới nhân vật là một tổng thể những hệ thống nhân vật đợc xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của t tởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn, có tổ chức và sự sống riêng phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, thế giới nhân vật cũng là sản phẩm tinh thần , là kết quả của trí tởng tợng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Đó là một mô hình nghệ thuật có cấu trúc riêng, có quy luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con ngời, tâm lí, không gian, thời giangăn liền với một quan niệm nhất định của chúng về thế giới. Thế giới nhân vật là cảm nhận một cách tron vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trờng hoạt động của họ, ý nghĩa t tởng, tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lu với xã hội, gia đìnhThế giới nhân vật vì vậy bao quát, sâu rộng hơn hình tợng nhân vật. Con ngời trong văn học chẳng những không giống với con ngời trong thực tại về tâm lí , hoạt động mà còn có ý nghĩa khái quát trừu tợng . Trong thế giới nhân vật ngời ta có thể chia thành các kiểu loại nhân vật nhỏ hơn (nhóm nhân vật) dựa vào những căn cứ, tiêu chí nhất định. Nhiệm vụ của ngời tiếp nhận văn học là phải tìm ra chìa khoá để bớc vào cánh cửa và khám phá thế giới nhân vật đó. Do đó, nghiên cứu thế giới nhân vật cũng khác với phân tích hình tợng thế giới nhân vật. Mỗi tác giả đều có thế giới nhân vật riêng, mỗi thể loại văn học cũng có thế giới nhân vật với quy luật riêng của nó. 1.2. Vai trò của nhân vật văn học. Nhân vật có vai trò vô cùng quan trọng trong tác phẩm văn học, là linh hồn, là cốt tuỷ của mỗi tác phẩm văn học: - Nhân vật là phơng tiện để nhà văn khái quát hiện thực. 18 Về vấn đề này Hà Minh Đức nhận định : Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phơng tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tợng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại ngời nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là ngời dẫn dắt ngời đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định[4, 126]. - Nhân vật là phơng tiện cốt yếu để thể hiện t tởng của tác phẩm, chính là nội dung tác phẩm : Đối với nội dung, tính cách có nhiệm vụ cụ thể hoá sự thực hiện của chủ đề t tởng của tác phẩm, hay nói cụ thể hơn: Thông qua sự hoạt động và mối liên hệ giữa các tính cách, ngời đọc sẽ đi đến một sự khái quát hoá về mặt nhận thức t tởng[4, 126]. - Nhân vật với tính cách của nó đã quyết định phần lớn đến các yếu tố của hình thức trong một tác phẩm văn học nh kết cấu, ngôn ngữ, cốt truyện, các biện pháp thể hiện nghệ thuật Hêghen từng nói Tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức . - Nhân vật với tính cách của nó còn mang tính lịch sử. Mỗi thời đại lại có một chuẩn mực để đánh giá đạo đức con ngời, có thể trong thời đại này tính cách đó đợc tôn vinh nhng trong thời đại khác lại bị coi thờng, hạ thấp. 1.3. Phân loại nhân vật văn học. Nhân vật văn học là hình tợng hết sức đa dạng. Để phân loại nhân vật văn học trong tác phẩm văn học có nhiều cách: 1.3.1. Xét theo góc độ nội dung t tởng có nhiều loại: - Nhân vật chính diện ( nhân vật tích cực): Là nhân vật thể hiện những giá trị tinh thần , những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của con ngời đợc nhà văn miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một quan điểm t tởng, một lí tởng xã hội thẩm mĩ nhất định[6, 226]. 19 - Nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực): là nhân vật văn học mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lí và lý tởng của con ngời, đợc nhà văn miêu tả trong tác phẩm với thái độ chế giễu, lên án, phủ định[6, 230]. Cả hai nhân vật đều là một phạm trù lịch sử. - Nhân vật lý tởng chính là nhân vật chính diện đã đạt tới chỗ trọn vẹn, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại. - Nhân vật anh hùng cũng hiểu nh nhân vật lý tởng nhng chỉ là trong những tác phẩm phản ánh các thời kì đấu tranh chinh phục, cải tạo tự nhiên hoặc đấu tranh xã hội lớn lao gây ra những chuyển biến lịch sử dữ dội, có tính chất đánh dấu thời đại. Giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện có một nhân vật văn học trung gian là nhân vật trung gian. 1.3.2. Xét về vị trí và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học. Có hai loại nhân vật : Nhân vật chính và nhân vật phụ. Nhân vật chính là nhân vật then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và t tởng của tác phẩm. Nhân vật thờng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm và đợc nhà văn khắc hoạ đầy đặn bằng nhiều chi tiết: tiểu sử, ngoại hình, nội tâm, tính cách và xung đột. Nếu tác phẩm có nhiều nhân vật chính thì nhân vật trung tâm đợc xem là nhân vật chính quan trọng nhất[6, 226]. Nhân vật trung tâm có mặt xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm, về mặt ý nghĩa là nhân vật mang đợc chủ đề và t tởng cơ bản của tác phẩm, nó không chỉ tham gia vào xung đột mà còn có vai trò tổ chức, kết nối các xung đột và mâu thuẫn. Nhân vật phụ là nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong diễn biến của cốt truyện, trong quá trình triển khai đề tài, thể hiện t tởng và chủ đề của tác phẩm[6, 231]. 20 Nhân vật phụ đóng vai trò thứ yếu so với nhân vật chính và nhân vật trung tâm là nơi để bổ xung, đối chiếu, so sánh để làm rõ nhân vạt chính. 1.3.3. Xét từ góc độ thể loại. Nhân vật trữ tình là hình tợng nhà thơ trong thơ trữ tình, phơng thức bộc lộ ý thức tác giả. Nhân vật trữ tình là con ngời đồng dạng của tác giả- nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình nh một con ngời có đờng nét hay một vai sống động có số phận cá nhân nhất định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ chân dung. Tuy vậy, không đợc đồng nhất giản đơn nhân vật trữ tình với tác giả[7, 234]. Nhân vật tự sự: Chỉ những loại nhân vật đợc triển khai sâu rộng, đa dạng và phong phú, ít bị hạn chế của không gian và thời gian. Nhân vật kịch: Theo nghĩa chặt chẽ chỉ xuất hiện ở trong kịch. Nhng nhân vật có tính chất kịch theo nghĩa rộng thì có thể xuất hiện ở hầu hết các thể loại. 1.3.4. Xét từ góc độ chất lợng nghệ thuật tổng hợp, khám phá, khái quát biểu hiện. Có thể phân loại nhân vật thành ba cấp độ: Nhân vật (cha có tính cách), tính cách (nhân vật có tính cách) điển hình. Khi đã có ý thức con ngời nh tiêu điểm của tác phẩm nhng nếu nhà văn chỉ dừng lại ở việc mô tả ngôn ngữ, cử chỉ hành động cũng nh quan hệ và hoàn cảnh thì con ngời trong tác phẩm mới chỉ đạt đến mức nhân vật mà thôi. Khi nào nhân vật đợc khắc hoạ chiều sâu bên trong, nó nh một điểm quy tụ từ đó có thể giải thích đợc mọi biểu hiện muôn màu, muôn vẻ bên ngoài thì nhân vật mới có tính cách. Tính cách đạt đến mức thật sâu sắc thì gọi là điển hình. Khi nghiên cứu về Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí tôi xem xét cách phân loại nhân vật theo tiêu chí vị trí và vai trò của nhân vật văn học trong tác phẩm. Nhân vật trong tác phẩm đợc chia thành hai loại là nhân vật chính và nhân vật phụ. 21 1.4. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật văn học là phơng tiện khái quát đời sống, t tởng của tác phẩm. Nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật, miêu tả bằng phơng tiện nghệ thuật. Đó gọi là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật là nói đến việc nhà văn sử dụng các phơng tiện của hình thức vào việc xây dựng nhân vật. Hình thức của một tác phẩm văn học là một phơng thức biểu hiện hình tợng, nội dung tác phẩm. Là cách thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố trong tác phẩm sao cho chúng có mối liên hệ chặt chẽ trong một chỉnh thể, có thể bộc lô sâu sắc và chính xác nhất ý đồ sáng tạo của nhà văn. Không có đơn thuần hình thức là hình thức mà là sự biểu hiện phù hợp với nội dung. Khi nói đến hình thức không chỉ có những yếu tố bên ngoài nh từ ngữ, cách miêu tả, mà hình thức còn bao gồm những yếu tố bên trong khó nhận thấy hơn đợc toát lên nhờ mối quan hệ, sự liên tởng, tởng tợng, móc nối các chi tiết. Những yếu tố bên ngoài hợp thành ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật. Yếu tố bên trong tạo thành kết cấu, tình huống. Hình thức không chỉ có trong ngôn ngữ, kết cấu, cốt truyện mà có cả trong những phơng thức, phơng tiện thể hiện nhân vật phong phú, đa dạng. Trớc hết nhân vật đợc miêu tả bằng chi tiết. Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm. Nhân vật văn học còn đợc thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn của nhân vật này với nhân vật kia. Các mâu thuẫn, xung đột bao giờ cũng có tác dụng làm nhân vật bộc lộ phần bản chất sâu kín của nó. Nhân vật thờng bộc lộ mình nhiều nhất qua việc làm, hành động, ý nghĩ. Nếu ngoại hình có tác dụng cá biệt hoá nhân vật thì hành động không chỉ là yếu tố cần thiết để nhân vật bộc lộ tính cách mà còn là yếu tố không thể 22 thiếu thúc đẩy diễn biến của cốt truyện trong tác phẩm. Đó chính là những việc làm cụ thể của nhân vật trong quan hệ ứng xử với các nhân vật khác và sự cảm nhận của mọi ngời xung quanh đối với nhân vật, với môi trờng mà nhân vật sống. Nhân vật còn đợc thể hiện bằng các phơng tiện ngôn ngữ, bằng các hình thức miêu tả riêng của thể loại. Đây là phơng thức, phơng tiện cơ bản của hình tợng nghệ thuật khi nhà văn xây dựng nhân vật. Mỗi phơng thức có vai trò riêng để tạo nên hình tợng nhân vật. Sự thể hiện nhân vật bao giờ cũng nhằm để khái quát một nội dung đời sống xã hội và một quan niệm sâu sắc, một cảm hứng tình điệu thiết tha với cuộc đời. Vì vậy sự thể hiện của nhân vật phải đợc xem xét trong sự phù hợp với nội dung nhân vật, đồng thời phù hợp với kiểu loại nhân vật. Mỗi hình tợng nghệ thuật là sự thể hiện, kết hợp đầy đủ những phơng diện hình thức tùy ở mức độ đậm nhạt khác nhau tuỳ theo khả năng và dụng ý nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ, hình tợng nghệ thuật sẽ bị phá hỏng nếu thiếu đi một yếu tố nào đó của hình thức. Trong Dế Mèn phiêu lu kí, thế giới nhân vật vô cùng phong phú đa dạng- đó là thế giới loài vật, thế giới côn trùng sinh động muôn màu muôn vẻ. Tuy nhiên do giới hạn của luận văn tốt nghiệp và khả năng của ngời tập nghiên cứu, tôi chỉ xem xét, tìm hiểu một số yếu tố mà tôi cho là đặc sắc khi xây dựng nhân vật. Đó là nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, diện mạo nhân vật; nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ (ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ ngời kể truyện) Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật thông qua xây dựng tình huống truyện. 23 Chơng 2 : thế giới nhân vật trong dế mèn phiêu lu kí (tô hoài). Tô Hoài là cây bút xuất sắc trong nền văn học dành cho thiếu nhi Việt Nam, đặc biệt ông còn đợc mệnh danh là ngời có biệt tài viết truyện đồng thoại về các loài vật. Những sáng tác của ông luôn đợc nhiều bạn nhỏ yêu thích bởi vì các em có thể nhìn thấy chính mình qua mỗi nhân vật trong truyện. Nói đến truyện đồng thoại của Tô Hoài thật thiếu xót nếu không nhắc đến Dế Mèn phiêu lu kí, một thiên truyện đồng thoại ra đời năm 1941. Hơn 70 năm qua từ khi Dế Mèn phiêu lu kí ra đời đã trinh phục biết bao thế hệ độc giả nhỏ tuổi trong nớc cũng nh ngoài nớc bởi thế giới loài vật, thế giới côn trùng sinh động đợc nhà văn xây dựng nên. Đọc truyện ta sẽ lạc vào thế giới loài vật gần gũi, thân thơng với toàn những con vật gắn chặt với đời sống thôn quê dân dã nh : bác Xiến Tóc, võ sỹ Bọ Ngựa, Châu Chấu Voi, Chuồn ChuồnTô Hoài chắc hẳn đã tốn không ít công sức tìm hiểu về thế giới côn trùng nhỏ bé, lấy cái thực, cái sự hiểu biết chính xác về đời sống và bản chất của từng con vật làm nền tảng chứ không phải tởng tợng vu vơ. Tô Hoài với khả năng quan sát đặc biệt rất thông minh hóm hỉnh, tinh tế. Lại có những ngày thơ ấu rất gần gũi với thế giới loài vật ngộ nghĩnh đáng yêu, cùng một tình cảm đặc biệt dành cho những ngời bạn thân tình ông đã cảm nhận đợc thế giới loài vật nhỏ bé đáng yêu trong sự tồn tại tự nhiên của nó. Chính vì lẽ đó đã khiến cho tác phẩm của ông luôn mang đến cho thiếu nhi một cảm giác đọc không bao giờ biết chán, mà càng đọc càng hấp dẫn và nhớ tác phẩm của ông hơn. Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí là thế giới côn trùng phong phú về chủng loại, đa dạng về tính cách. Một thế giới loài vật nhỏ bé xoàng xĩnh rất gần với đời sống sinh hoạt hàng ngày của con ngời. Đó là Dế Mèn, Dế Trũi, Dế Choắt, chị Cốc, bác Xiến Tóc, thầy Đồ Cóc, đại vơng 24 ếch Cốm, lão Chim Trả, chị Nhà Trò, võ sỹ Bọ NgựaThế giới ấy chính là một xã hội xã hội loài ngời thu nhỏ, ngời xấu có, ngời tốt có nhng quan trọng là họ luôn ý thức đợc những điều không hay, không phải của mình để tự hoàn thiện và phấn đấu xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. 2.1. Nhân vật trung tâm trong Dế Mèn phiêu lu kí. Thế giới nhân vật trong Dế Mèn phiêu lu kí gồm một số nhân vật chính nh Dế Mèn, bác Xiến Tóc, Dế Trũivà rất nhiều các nhân vật phụ khác nh Bọ Muỗm, ếch Cốm, Mẹ của Mèn, Nhái Bénnhng Dế Mèn đợc coi là nhân vật trung tâm, nhân vật chính quan trọng nhất bởi xuyên suốt toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời nhân vật Dế Mèn. Dế Mèn có mặt từ đầu đến cuối truyện. Nhà văn xây dựng các nhân vật khác nhằm làm bổ sung , nổi bật tính cách nhân vật trung tâm. Lý tởng của tác phẩm là lý tởng của Mèn, của Trũi, của các bạn trong thế giới ấy và của chính tác giả. Nhận xét về tính cách của Dế Mèn Tô Hoài viết: Dế Mèn vốn yêu lao động, thích vui chơi, biết ớc mơ, rất ghét đứa làm ác. Cho nên khi gặp lý tởng thì Dế Mèn giác ngộ và có lý tởng. Đời hoạt động cho lý tởng phải trải những cảnh ngộ éo le, gian khổ. Dế Mèn và các bạn đã vợt qua và chiến thắng, vì vậy mới thành câu chuyện sóng gió kỳ thú này. Nhng tính cách ấy không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là kết quả của cả một quá trình tôi luyện, thử thách và phấn đấu không mệt mỏi của Dế Mèn. Tính cách của Dế Mèn đợc hình thành qua từng chặng đờng đời. Thuở trẻ, Mèn có rất nhiều u điểm : Chăm lo giữ gìn sức khoẻ, yêu lao động, biết lo xa, yêu đời và biết ớc mơThể hiện qua việc Mèn luôn có ý thức ăn uống điều độ cho cơ thể cờng tráng, khoẻ mạnh. Mới ra ở riêng nhng Mèn đã thể hiện là một anh chàng biết lo xa, đã lo lắng cho nơi ăn chốn ở của mình cho thật khang trang, Mèn đã hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành cái giờng ngủ sang trọng, thoáng mát . Chú còn biết đào hang sâu sang hai ngả làm những con đờng tắt, những cửa sau, những ngách 25 thợng phòng khi gặp việc nguy hiểm có thể thoát thân ra lối khác đợc . Bởi chú biết sớm lo toan cho cuộc sống, biết chăm lo chu đáo cho nơi ăn chốn ở của mình, biết đề phòng những bất trắc có thể xảy ra. Mèn luôn mong muốn tìm hiểu, khám phá thế giới, luôn cảm thấy: Ngày nào, đêm nào, sớm và chiều nào cũng ngần ấy thứ việc, thứ chơi. Kể đời mà đợc nh thế, cũng khá an nhàn, nhng mới đầu còn thấy hay hay, về sau cũng nhàm dần. Bên cạnh những u điểm đó Mèn còn có rất nhiều nhợc điểm. Vì hoàn cảnh sống độc lập từ bé, theo tục lệ lâu đời của họ nhà Dế, Dế Mèn chỉ ở với mẹ đợc hai hôm đã phải ra ở riêng. Thiếu sự chăm bẵm, dạy dỗ của gia đình, Dế Mèn đã có hành động quá xốc nổi, ngông cuồng: hiếp đáp chị Cào Cào, anh Gọng Vó, khinh thờng Dế Choắt, từ chối không cho thông ngách nhà và còn vô tình tinh nghịch gây ra cái chết thảm thơng của ngời bạn láng giềng. Bài học đờng đời đầu tiên mà trớc khi Dế Choắt qua đời đã nhắc nhở cho Mèn đó là: ở đời mà nhiễm thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy. Chính câu nói của Dế Choắt đã khiến Mèn suy nghĩ rất nhiều, nhng cái tính ngỗ ngợc của Mèn không phải bỗng chốc đã sửa đợc ngay. Khi Mèn bị bọn trẻ con bắt làm đồ chơi thì thói ngông cuồng của Mèn càng đợc dịp phát triển. Sau vài trận chọi nhau và đợc công nhận là nhà vô địch thì Mèn không còn biết đâu là phải trái nữa. Mèn sẵn sàng ra tay với mọi đối thủ, bỏ mặc ngoài tai những lời van xin của chú Dế con mới sinh còn thơm mùi sữa : Em lạy bác, em lạy bác, bác tha cho em. Bác là ngời lớn, bác đã có răng có càng to rồi, còn em, em vừa ra đời có mấy hôm, mới hôm qua đợc mẹ em dắt cho đi ở riêng thôi mà . Nhng Mèn đâu có mảy may suy nghĩ, cậu chỉ chú ý đến những lời tung hô chiến thắng và chính vì thế mà đã đẩy Mèn tới đỉnh điểm của thói bất nhân. Mèn đã bỏ ngoài tai mọi lời van xin của một chú Dế con vừa mới ra đời ít hôm và còn đánh chú ta suýt chết.