Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu
như kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, uy tín Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Tuy nhiên, với xuất phát điểm từ nông nghiệp nên nền kinh tế nước ta có
quy mô nhỏ, quá trình hòa nhập quốc tế đang gặp phải nhiề khó khăn.Vì vậy,để
khắc phục thực trạng yếu kém và phát huy thế mạnh hiện có nước ta đã thực hiện
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa  hiện đại hóa nước ta đã huy
động các yếu tố phát triển với nhiều lĩnh vực khác nhau.Trong đó, việc vận dụng
các quy luật kinh tế mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư đã và đang là một
hướng áp dụng có hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay.
Giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và theo như
V.I.Lênin nhận xét thì  Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết
kinh tế của Mác .Gí trị thặng dư đã mang lại những bước phát triển cho nước ta
trong giai đoạn hiện nay.Tính tất yếu khách quan về việc vận dụng giá trị thặng
dư vào Việt Nam đã được thông qua trong các văn kiện Đại hội của Đảng nhưng
trong một chừng mực nào đó vẫn còn tồn tại các thành kiến với các thành phần
kinh tế tư nhann, tư bản coi thành phần kinh tế này là bốc lột và nhận thức này
không chỉ xảy ra với một số cán bộ là Đảng viên làm công tác quản lý mà còn
xảy ra ngay trong những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, việc học tập và nghiên cứu môn kinh tế chính trị mà đặc
biệt là học thuyết giá trị thặng dư sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc trong
quá trình phát triển các thành phần kinh tế cũng nư quá trình vận dụng giá trị
thặng dư vào công cuộc công nghiệp hóa  hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.Với
mong muốn có thể khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

1

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

lý luận và cuộc sống và góp phần hình thành tư duy kinh tế mới, tạo điều kiện
thuận lợi nhằm thúc đẩy nhanh quá trình công nghiếp hóa  hiện đại hóa.
Với những lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài:  Phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư và quá trình vận dụng vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay  làm tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nhằm nâng cao hiểu biết về học thuyết giá trị thặng dư.
- Khẳng định tầm quan trọng của việc vận dụng giá trị thặng dư vào công
cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và quá trình vận dụng vào công
cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng xem xét các quá trình kinh tế
trong mối liên hệ tác động qua lại, luôn vận động, phát triển không ngừng và gắn
điều kiện lịch sử cụ thể.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập, phân tích, xử lý và tổng hợp
tài liệu, so sánh, lôgic  lịch sử, trừu tượng hóa khoa học.
5. Cấu trúc của đề tài.
- Ngoài phần mở đầu và phần tài liệu tham khảo thì đè tài gồm có hai
chương.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ, PHƯƠNG
PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TUYỆT ĐỐI VÀ GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ TƯƠNG ĐỐI.
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TUYỆT
ĐỐI VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TƯƠNG ĐỐI ĐƯỢC VẬN DỤNG VÀO
CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.

SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

2

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ,
PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TUYỆT ĐỐI
VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TƯƠNG ĐỐI.
1.1. Quan điểm về giá trị thặng dư.
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong những phát kiến lớn nhất mà
Mác đã đóng góp cho nhân loại và những giá trị đó nó vẫn tồn tại cho đến ngày
nay.Tuy nhiên, lịch sử nhân loại không ngừng phát triển theo dòng thác của thời
gian, xu thế phát triển đó gắn với những thách thức và cơ hội không lường
trước.Vì vây, học thuyết về giá trị thặng dư cần có quá trình nghiên cứu và tìm
hiểu để có thể áp dụng vào hoàn cảnh mới hiện nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như Ricarđo cũng
không thể giả thích được vì sao trao đổi hàng hóa theo đúng quy luật mà nhà tư
bản vẫn thu được lợi nhuận.Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C.Mác đã chứng minh một cách khoa
học rằng trong quá trình sản xuất hàng hóa lao động cụ thể của công nhân chuyển
giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động
trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn sức lao động
của mình.Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao
động , C.Mác gọi đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Khi nói đến rư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư liệu sản xuất,
nhưng không phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng hóa, là mối quan
hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị
tạo ra giá trị thặng dư bằng cách bốc lột lao động không công của công nhân làm
thuê.Vì vậy,điều này lý giải mục đích của giai cấp tư bản chính là giá trị thặng
dư.Nhưng để sản xuất ra giá trị thặng dư trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra
hàng hó có giá trị sử dụng vì giá trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng hóa, là
vật mang giá trị và giá trị thặng dư.
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

3

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Đây cũng là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu
sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được
kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình công nhân lao động làm
thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá, bằng lao
động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần
lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử dụng
vào những mục đích khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua tư liệu sản
xuất, để tái mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư hơn.
1.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư
tương đối
1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư có được
nhờ kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong điều
kiện năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không
thay đổi.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của
chủ nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động
thủ công, hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ
công. Đó là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Bởi phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài
ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động,
giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là
100%. Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian
tất yếu không thay đổi, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng
lên đạt 150% (m = 150%)
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

4

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài
ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các
nhà tư bản. Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của
ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Dưới chủ
nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại
trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân làm
việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời
gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao
động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi
hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn
giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh
đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới của
ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao
động thăng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn
thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh
thần của người lao động.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh
vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp
phải thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
vào sản xuất.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư có được
nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu chủ yếu bằng cách tăng năng suất lao
động trong những ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt nhờ đó, mà hạ thấp giá trị
sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu, thời gian lao động thặng dư
tăng lên trong điều kiện độ dài ngày lao động và cường độ không thay đổi.
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân.
Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

5

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì
các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động, bó lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị
thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao
năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư lên ngay
trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được
quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao
động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng
cách tăng năng suất lao động xã hội cho các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và
các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.
Nhưng khi máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao
động tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng
dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa
với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ
thủ công, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng
bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi
lao động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử
dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu
sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động
tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá
trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được nâng
cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công
nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử
loài người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự hình thành các
nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ sản xuất như
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

6

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

cách mạng khoa học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người
bước sang một nền văn minh mới - nền văn minh trí tuệ.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là
cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng
dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp
hơn giá trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là
hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi,
nhưng xét theo phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên. Theo
đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh
nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất
lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng. C.Mác gọi giá trị thặng
dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị
thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng
suất lao động.
1.2.3 Mối quan hệ giữa phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Trên cơ sở nghiên cứu hai phương pháp sản xuất trong giá trị thặng dư ta
thấy thực ra, hai phương pháp giá trị thặng dư không hề bị tách rời nhau, mà chỉ
trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay ít mà thôi,
trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
được sử dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị thặng dư tương đối, còn trong
thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc nhà tư bản kết hợp tốt hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư
bản, bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày
càng nhiều sức lao động làm thuê. Máy móc hiện đại được áp dụng, các lao động
chân tay bị cắt giảm nhưng điều đó không đi đôi với giảm nhẹ cường độ lao động
của người công nhân, mà trái lại do việc áp dụng máy móc không đồng bộ nên
khi máy móc chạy với tốc độ cao, có thể chạy với tốc độ liên tục buộc người
công nhân phải chạy theo tốc độ vận hành máy làm cho cường độ lao động tăng
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

7

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

lên, năng suất lao động tăng, ngoài ra nền sản xuất hiện đại áp dụng tự động hoá
cao cường độ lao động người công nhân tăng lên với hình thức mới đó là cường
độ lao động thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp, tạo ra sản phẩm
chứa nhiều chất xám có giá trị lớn.
Vì vậy, sản xuất tư bản chủ nghĩa trong diều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh
vi của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối.

SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

8

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
TUYỆT ĐỐI VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TƯƠNG ĐỐI ĐƯỢC
VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1 Quan điểm của Đảng về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vận dụng
vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Hoà cùng với xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước
chúng ta cũng đang song song thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trên con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Việt Nam có rất nhiều mục tiêu
phải đạt được, nhiều nhiệm vụ phải hoàn thành. Với xuất phát điểm là một nước
nông nghiệp lạc hậu, chúng ta gặp khá nhiều khó khăn bởi sự nghèo nàn về cơ sở
vật chất, sự yếu kém trong công nghệ sản xuất, năng suất lao động thấp, . Trong
khi đó Chủ nghĩa xã hội nhắm tới việc xây dựng một xã hội giàu mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì thế xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho Chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của đất nước ta. Tuy nhiên, để đẩy nhanh việc tạo
dựng nền tảng đó cần có phương tiện, cách thức thực hiện hữu hiệu, đó là Công
nghiệp hoá và Hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá
VII của Đảng ta (1994) là:  quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao. Và tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường
lối đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta nhấn mạnh: Mục tiêu của
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

9

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu phấn đấu đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và một trong những biện
pháp để thực hiện là tiếp tục áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào
các lĩnh vực kinh tế ở nước ta. Vai trò của Công nghiệp hoá và hiện đại hoá tỏ ra
hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng đổi mới toàn diện đất nước, cho
nên Nhà nước ta cần hoạch định chiến lược, bước đi rõ ràng để tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng con đường tối ưu. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta
cần nhìn lại những điều đã và đang làm được cũng như những tồn tại cần giải
quyết trong từng ngành cụ thể để có được cách nhìn nhận đúng đắn, thấy được
những tồn tại yếu kém còn mắc phải cũng như có những biện pháp khắc phục
nhằm đạt được mục tiêu cao đẹp của đát nước.
2.2 Thực trạng của quá trình vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
2.2.1 Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách
mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ
khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm
đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước
ta, việc nghiên cứu, khai thác và học tập những di sản lý luận của Mác trở thành
việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Hướng khai thác lý luận giá trị thặng dư tập trung vào những nội dung sau
đây:
Một là, Khai thác những di sản lý luận trong học thuyết này về nền kinh tế
hàng hoá.
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

10

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu
nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Cho nên,
chính Mác chứ không phải ai khác, là một trong những người nghiên cứu sâu sắc
về kinh tế thị trường. Thực chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng
hoá phát triển ở trình độ cao. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và hiện nay gọi là kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta có tính đặc thù của nó,
song đã là sản xuất hàng hoá thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến,
cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những
quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội
khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận của
Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế thị trường,
qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động,
mới bán được hàng hoá và do đó bóc lột được giá trị thặng dư do người lao động
tạo ra. Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quy luật kinh tế, trong
đó có quy luật giá trị thặng dư, các nhà tư bản-các doanh nghiệp đã không ngừng
ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng
suất lao động, tích cực hợp lý hoá quá trình sản xuất, tiết kiệm các yếu tố đầu
vào, tìm hiểu nhu cầu thị trường để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý sản xuất kinh
doanh được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế trở nên
năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, trong khu vực kinh tế nhà nước và tập thể, chúng ta cần vận dụng các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã sử dụng để phát triển
sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với thực hiện phân
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

11

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người lao động.
Hai là, làm rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngay trong thành
phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư,
chúng ta phải khẳng định rằng, sự giàu có của nhà tư bản là kết quả của sự bóc
lột giá trị thặng dư. Có người cho rằng, nhà tư bản thu nhiều lợi nhuận là do lao
động quản lý, lao động khoa học  kỹ thuật của nhà tư bản. Thực tế, trong thời kỳ
đầu của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư bản đồng thời là giám đốc, thậm chí còn
là cán bộ khoa học kỹ thuật nữa. Những chức năng quản lý và khoa học kỹ thuật
ấy thuộc phạm trù lao động, không thuộc phạm trù tư bản. Nếu nhà tư bản kiểm
cả chức năng quản lý và khoa học kỹ thuật thì trong thu nhập của nhà tư bản sẽ
bao gồm giá trị mới do lao động quản lý và khoa học kỹ thuật tạo ra cộng với giá
trị thặng dư chiếm đoạt không phải trả công.
Khi phê phán luận điểm của nhà kinh tế chính trị học J.Say cho rằng lợi
nhuận doanh nghiệp là tiền công trả cho lao động quản lý của nhà tư bản, C.Mác
đã chỉ rõ: Chỉ cần dành ra một khoản thù lao nhỏ mọn là nhà tư bản có thể trút
gánh nặng quản lý đó cho người giám đốc làm thuê nhưng nhà tư bản vẫn thu
được lợi nhuận doanh nghiệp. Ở những vùng công nghiệp của nước Anh, sau mỗi
lần khủng hoảng, một số khá nhiều những cựu chủ xưởng với một số tiền thù lao
nhỏ nhặt đã đứng ra trông nom những nhà máy trước đây là của chính họ, trông
nom với tư cách là những người quản lý, phục vụ cho những chủ mới, thường là
chủ nợ của họ. Ngày nay, trong các công ty và xí nghiệp tư bản hiện đại, chức
năng quan lý thường được giao cho các managers - những người làm thuê cao
cấp, nhưng các chủ sở hữu tư bản vẫn thu những khối lượng lợi nhuận khổng lồ.
Như vậy, khi quy mô kinh doanh ngày càng lớn, nhà tư bản đã hiện rõ sự bóc lột
của mình đó là có một khoản lợi nhuận lớn nhưng không phải bỏ sức lao động
mới có được mà chỉ cần là người sở hữu tư bản.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư không phải là để kỳ thị thành
phần kinh tế tư bản tư nhân mà để khuyến khích nó phát triển, bởi vì có hiểu rõ
bản chất của nó mới có chính sách đúng đắn với nó. Chẳng hạn, hiểu rõ mục đích
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

12

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

và động cơ của sản xuất TBCN là thu càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, thì
muốn khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển và thu hút vốn
đầu tư từ nước ngoài chúng ta phải có chính sách như thế nào để họ thu được lợi
nhuận thoả đáng, thậm chí cao hơn lợi nhuận thu được khi học đầu tư vào các
nước láng giềng của ta. Mặt khác, phải có biện pháp điều tiết bớt sự chênh lệch
quá đáng giữa người giàu và người nghèo, đồng thời có các chính sách xã hội để
giảm bớt bất công.
Bốn là, khai thác những luận điểm của Mác nói về qúa trình sản xuất, thực
hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp,
thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhằm góp phần
vào việc quản lý các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế nước
ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng các thành phần kinh tế
này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân, cụ thể là bộ phận kinh tế tư bản tư
nhân nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian
lao động vượt quá thời gian quy định của luật lao động mà không có sự thống
nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người lao
động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn
lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta thấy rằng
chúng ta thừa nhận có sự bóc lột trong khu vực kinh tế tư nhân nhưng việc bóc
lột này không thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người lao động cần
phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế, chúng ta
cần phát triển kinh tế tư nhân để tạo nhiều việc làm, khai thác các tiềm năng về
vốn, khoa học công nghệ, nhân lực cho phát triển sản xuất kinh doanh nhưng
người lao động vì thế cũng bị bóc lột. Nhà nước ta cũng đã có hệ thống luật pháp
bảo vệ người lao động như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, Quy định về tiền
lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp.nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên,
yếu kém nhất hiện nay trong bảo vệ người lao động là thiếu sự kiểm tra chặt chẽ
và xử lý vi phạm nghiêm minh của các cơ quan chức năng đối với kinh tế tư bản
tư nhân. Nhiều cuộc đình công, bãi công gần đây của công nhân nước ta ở các
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

13

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chỉ
rõ điều này. Tại hội nghị "Tổng kết tình hình năm 2011 và triển khai nhiệm vụ
năm 2012", Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay, từ năm 1995 đến nay,
cả nước đã xảy ra hơn 4.100 cuộc đình công, trong đó chủ yếu ở các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản... với hơn
3.100 cuộc, chiếm 75,4%. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng dần qua các năm,
nhất là từ 2006. Năm 2011 đạt mức kỷ lục với 857 cuộc diễn ra trong vòng 11
tháng. Con số này của năm 2010 là 422 vụ, năm 2009 là 218 vụ, năm 2008 là 720
vụ...
Nguyên nhân được Bộ xác định trước hết do một số chủ doanh nghiệp chưa
chấp hành đúng quy định luật lao động như không ký hợp đồng, không đóng bảo
hiểm xã hội, không giải quyết chế độ ngày nghỉ, bảng lương...Khắc phục được
yếu kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời đảm bảo lợi
ích chính đáng của người lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
nền kinh tế thị trường.
Trong tương lai, khi mà sản xuất tư bản tư nhân đã phát triển tới trình độ
cao, bản thân nó sẽ đòi hỏi phải có sự biến đổi cho phù hợp với trình độ xã hội
hoá cao của LLSX, thì nhà nước sẽ hướng nó đi dần vào quỹ đạo của CNXH
bằng những hình thức đa dạng của CNTB, trong đó có lợi ích của nhà tư bản vẫn
được đảm bảo, chứ không bị xoá bỏ hay tước đoạt.
Năm là, khai thác di sản của Mác nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái sản
xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá trình xã
hội hoá sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày
càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên,
đặc biệt là về mặt tổ chức - kinh tế, vận dụng vào nền kinh tế nước ta thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, hiện đại
sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư để thực hiện nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ là CNH, HĐH nền kinh tế nhằm không ngừng nâng cao đời sống
vật chất tinh thần của người lao động.
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

14

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói
chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục
đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất
TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng
thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như
trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư
với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường
nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ đổi mới.
Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở trên
chúng ta vẫn tiếp tục khẳng định rằng học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về
bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp
luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó còn là cơ sở lý
luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.2.2 Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.
Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong
thời kỳ dân số vàng nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là
nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua
ngày 16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn
thấp và cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số
đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái
thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực
chất lượng cao. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo
dục đại học còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

15

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

đào tạo mới chỉ có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy
tính, công nghệ thông tin kém
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo
trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng
cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở
lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ
cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại
học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi
trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB),
Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc
cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước
khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79
điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn
Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94... Cơ cấu phân
bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công nghệ,
nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội
luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng
vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao động như: Kinh
doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông,
cơ khí chế tạo...
Đẻ khắc phục được những nhược điểm và phát huy những ưu điểm về sử
dụng và phát triển nguồn lao động ở hiện tại và trong tương lai hay tăng chất
lượng của nguồn lao động như nâng cao trình độ học vấn của nhân nhất là phổ
cập tiểu học, trung học cơ sở, mở trường dạy nghề, học phải gắn với thực
hành. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương:  Xã hội hoá giáo dục nhằm đa dạng
hoá các loại hình giáo dục, đào tạo với phương châm nhà nước và nhân dân
cùng làm. Với những chủ trương đó chất lượng nguồn lao động đã có những
sự biến đổi so với trước đây và quá trình sử dụng nguồn lao động đã mang lại
hiệu quả ngày càng cao trong những năm tiếp theo.
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

16

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

2.2.3 Khuyến khích đầu tư và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác thì vốn là một nhân tố đầu vào đóng vai trò
quan trọng trong quá trình sản xuất, nếu như biết đầu tư và sử dụng vốn đúng
mục đích thì sẽ mang lại lợi nhuận cao trong nề kinh tế hiện nay.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín
mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Chúng ta mở cửa nền kinh tế thực hiện đa dạng hoá đa phương hoá quan
hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát
huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ công nghệ, cơ cấu ngành và
sản phẩm...mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết
hợp tác để tạo điều kiện khuyến khích sản xuất trong nước phát triển bắt kịp vởi
trình độ thế giới.
Từ năm 1991, nguồn vốn đầu tư trong nước liên tục tăng, tổng vốn đầu tư
trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ đồng, đến năm 1996 là 54912 tỷ đồng,
tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là 72084 tỷ đồng, tăng gần 7 lần so với
năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996. Trong đó, vốn đầu tư khu vực quốc
doanh thường cao hơn khu vực ngoài quốc doanh. ở giai đoạn 1999  2001, tổng
vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 2001, tăng lên hơn 10.000 tỷ đồng so với
năm 2000.
Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoàit ta đã tranh thủ được nguồn
viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, Cho đến nay, tổng mức cam
kết tài trợ là13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ USD và số vốn
đã giải ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Nhà nước đã ban hành luật đầu tư
nước ngoài. Cho đến hết 2000, đã có 66 nước và vùng lãnh thổ nhiều công ty,
tập đoàn lớn đã đầu tưtrực tiếp vào Việt Nam
Trong cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành ta thấy, vốn đầu tư thuộc kinh tế
nhà nước phần lớn dành cho ngành dịch vụ từ 51,02% năm 1999 lên 51,45%
năm 2001, vốn đầu tư cho công nghiệp giảm từ 36,13% năm 1999 xuống
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

17

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

35,81% năm 2001. Còn phân theo ngành của kinh tế ngoài quốc doanh và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng vốn đầu tư
dành cho công nghiệp và nông nghiệp không ngừng tăng lên, vốn đầu tư
dành cho ngành dịch vụ giảm từ 45,83% năm 1999 xuống 44,04% năm 2001.
Như vậy muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế chúng ta
phải có những sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam. Vì thế phải phát
triển công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nhằm nâng cao sức mạnh cho công nghiệp.
2.2.4. Áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt
của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học  kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu đối với nông nghiệp, đem lại giá trị kinh tế cao như sản xuất thu
hoạch bảo quản chế biến...
Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện tử, viễn
thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới và đã thực
hiện được đúng theo chủ trương đi trước đón đầu của Đảng ta. Với các lĩnh
vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng các máy móc hiện đại vào sản
xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp lên 12,9%
(năm 2000).
Đảng và Nhà nước ta đã biết áp dụng phù hợp những máy móc, khoa học
công nghệ hiện đại cho từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu và ứng dụng học thuyết giá trị thặng dư đặc biệt là
vấn đề áp dụng khoa học  công nghệ vào sản xuất đã mang lại nhiều giá trị to
lớn cho sự tăng trưởng của Việt Nam và đẩy mạnh hơn nữa quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.2.5 Vấn đề bốc lột trong sử dụng giá trị thặng dư ở nước ta.
Ngày nay sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công trong
công việc kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có đóng góp tài
sản, tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá trình sản xuất.
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

18

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị thặng dư. Tài sản và tiền vốn có
nguồn gốc từ lao động  là sản phẩm của lao động nên nó đóng vai trò hết sức
quan trọng của quá trình sản xuất. Tài sản và vốn là yếu tố thu hút sức lao động,
và nhờ vậy sản xuất ra giá trị thặng dư và phần thu nhập của người chủ kinh
doanh là không liên quan đến bóc lột.
Và hiện nay, ở nước ta cũng đang thực hiện cách phân phối này, phân phối
theo lao động và phân phối theo vốn, tài sản. Phân phối theo lao động thì dựa
trên nguyên tắc lao động ngang nhau thì hưởng ngang nhau, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít. Với xu thế cổ phần hoá trong sự hình thành và phát triển
hệ thống doanh nghiệp, có phần góp vốn của người lao động và người lao động
cũng được phân phối một phần lợi nhuận cho vốn  theo vốn của họ. Đây là
hình thức phân phối giá trị thặng dư.
Nhưng trong xã hội cũng có những người không thể tham gia góp vốn và
lao động được thì cần phải có hình thức phân phối lại qua các quỹ phúc lội công
cộng của xã hội và của tập thể. Nội dung của hình thức phân phối này được biểu
hiện ở việc: mọi công dân đều phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước - Nhà
nước là đại diện cho lợi ích của toàn dân, toàn xã hội. Nhà nước trích một
phần ở trong ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc lợi xã hội. Những người được
hưởng họ sẽ không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ giá trị mà họ
đã sáng tạo ra mà họ sẽ được hưởng gián tiếp từ từ thông qua các quỹ phúc lợi
hay các hàng hoá công cộng.
2.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình vận dụng phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay.
2.3.1 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư và tập trung đầu tư vào công nghiệp
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước cũng như những chiến lược phát
triển trong tương lai Đảng và Nhà nước ta đã nhận định cần phải chuyển dịch
nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo hướng tăng đầu tư cho ngành
sản xuất vật chất và giảm đầu tư đối với ngành dịch vụ. Vì chỉ có phát triển công
nghiệp, chúng ta mới thực sự phát huy được năng lực nội sinh.
SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

19

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin I

Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với mục tiêu lấy đó làm đà để phát triển
các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, trong đó đặc biệt phải đầu tư cho
ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú ý đầu tư cho ngành công nghiệp chế
biến nông  lâm sản, vì đây là chìa khoá, nhằm nâng cao giá trị, khả năng cạnh
tranh của hàng hoá nông lâm sản trên thị trường thế giới.
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư này cần được coi là nhiệm vụ của tất cả các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không
phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay một vài doanh nghiệp nhà nước.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng thời Nhà
nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chính sách kinh tế vĩ mô (như
thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những ngành cần đầu tư) nhằm đảm
bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế theo định hướng
phát triển kinh tế - xã hội.
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư và tập trung vào công nghiệp sẽ tạo ra
những bước phát triển nhanh hơn,đưa nước ta trở thành một nước đại công
nghiệp, hội nhập với toàn thế giới và thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
2.3.2 Khuyến khích thu hút đầu tư
Quá trình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư ta thấy được việc thu hút đầu
tư sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô sản xuất và thu được nhiều giá trị thặng dư.
Để cải thiện môi trường kinh doanh trong nước cũng như thực hiện sự
bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng.
Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục cho
các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội tốt chỉ xuất hiện trong thời gian
ngắn.

SVTH: Nguyễn Thị Hằng - Lớp: GDCT 2B

20

null