Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi và ý nghĩa đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam

[h2:3vasotlo]Download Tiểu luận Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử - Sự vận dụng tư tưởng này trong xây dựng xã hội Việt Nam hiện nay miễn phí[/h2:3vasotlo] MỤC LỤCĐề mục TrangI. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử . 1Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi Tử . 11. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử . 12. Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi . 1Một số hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi . 33. Tư tưởng pháp gia của Hàn Phi . 3II. Vận dụng tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử vào công cuộc xây dựng xã hội Việt Nam hiện nay . 6Những hạn chế của đường lối pháp trị của Hàn Phi đem lại bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng xã hội và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam . 9Kết luận . 12Tài liệu tham khảo . 13[h3:3vasotlo]Tóm tắt nội dung:[/h3:3vasotlo]................ 13 GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang iii MỞ ĐẦU Hơn 15 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị XHCN, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ yêu cầu đó, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật". Trong quá trình kiện toàn tổ chức, đổi mới cách và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương Đông và phương Tây, đều là sản phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch sử. Chúng có giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử, một trong những tư tưởng chính trị - xã hội nổi bật trong thời kỳ Trung Quốc cổ đại, đã để lại nhiều kinh nghiệm lịch sử to lớn đối với quá trình thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước. Xuất phát từ những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là thực sự cấp thiết. Đó là lý do mà tui thực hiện đề tài: GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang iv "Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và sự vận dụng tư tưởng này vào xây dựng xã hội Việt Nam hiện nay" làm đề tài tiểu luận của mình. GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang v TÓM TẮT Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng pháp trị mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng pháp trị là đề cao vai trò của pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tác phẩm Hàn Phi Tử là một tác phẩm độc đáo, và là công trình quan trọng nhất của chính trị học Trung Hoa, là một trong những tác phẩm đầu tiên của chính trị học thế giới. Về tư tưởng nó xác lập trường phái pháp gia, một trong bốn trường phái lớn nhất của Trung Quốc (Nho, Pháp, Mặc, Đạo). Nó là một trong những công trình cực kỳ hấp dẫn, viết cách đây 2.300 năm nhưng ai cũng giật mình về tính thời sự của nó, ta có cảm tưởng tác giả là người hiện nay, nói bằng ngôn ngữ và cách lý luận hôm nay về cách quan hệ giữa người với người, không chỉ ở Trung Hoa mà cả thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là một con người có đầu óc lỗi lạc của Trung Hoa và của xã hội loài người. Ngày nay, chúng ta nghiên cứu tư tưởng Hàn Phi vẫn thấy những tác nhân hợp lý của nó, vẫn đầy tính thực tiễn trong đời sống xã hội, trong ứng xử giữa người với người, trong quản lý và thuật trị mới. Dù trải qua cả một thời gian dài trong lịch sử nhân loại, nhưng đến nay tư tưởng pháp trị của Hàn Phi cũng đáng để cho mọi người suy ngẫm. Tư tưởng của ông tồn tại lâu như vậy đó là vì nó có tính giáo dục sâu sắc, dạy đời, dạy người sống tốt đời đẹp đạo, có lý có tình, trên cơ sở vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn cuộc sống. GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 1 TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ I. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử  Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi Tử 1. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử Lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất: Xuân Thu và Chiến Quốc. Thời Xuân Thu (770 - 403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, đây chính là thời kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551 - 479 TCN). Thời Chiến Quốc (403 - 221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương, tới khi nhà Tần diệt nhà Tề thống nhất đất nước, đó là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN). So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn định hơn về chính trị, nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân Thu, công cụ sản xuất và khí giới chủ yếu là bằng đồng. Sắt bắt đầu được dùng cuối thời kỳ này và trở nên thông dụng vào thời Chiến Quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng đất đai nông nghiệp, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ đạo đức suy đồi, người ta chỉ tìm mọi cách để tranh lợi. Quan lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ lạc; chiến tranh kéo dài liên miên khiến cho đời sống của nhân dân càng thêm đói khổ cùng cực. Trước tình cảnh xã hội như vậy, tầng lớp quý tộc và tầng lớp trí thức có sự chia rẽ về tư tưởng. 2. Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị đã phân tích những ưu điểm, hạn chế của Quản Trọng, Ngô Khởi, Bạch Lý Hề, Thận Đáo và tổng kết, hoàn thiện thành học thuyết pháp trị của mình. Học thuyết đó dựa trên ba nội dung cơ bản “pháp, thuật, thế”. GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 2 Ông đồng tình với Tuân Tử cho rằng, con người ta có tính ác, nhưng lý giải về vấn đề lợi ích. Việc cai trị phải căn cứ vào lợi ích để thưởng hay phạt. + Pháp Luật do vua ban ra, trăm quan giám sát, nhân dân thực hiện. Luật phải đúng đắn phù hợp, công khai trên dưới đều biết. Tất cả cứ đúng mực thước, đúng pháp luật mà làm thì xã hội sẽ ổn định. + Thuật Là nghệ thuật, thủ thuật trị nước vua phải luôn cảnh giác với người xung quanh, biết sử dung người đúng lúc, đúng chỗ, đúng khả năng. Vua phải sáng suốt, không để lộ sự yêu ghét để quần thần lợi dụng. Dùng thuật để biết rõ người ngay kẻ gian, để điều khiển bề tôi. Thực chất đó là thủ đoạn của người làm vua để điều khiển các quan lại, phải giữ gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh. + Thế Là uy thế quyền lực của người làm vua. Vua phải triệt để sử dụng quyền của mình để trị nước. Quyền lực phải tập trung tuyệt đối vào tay nhà vua, không được trao quyền cho bất c...

Link download cho anh em Ket-noi


Xem link download tại Blog Kết nối!

05(99)/2016

Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi và ý nghĩa đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam

Mục lục

  • 0.Dẫn nhập
  • 1.Những giá trị của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
  • 2.Ý nghĩa đương đại từ thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
  • 3.Tài liệu tham khảo

HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TRUNG HOA CỔ ĐẠI: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA ĐƯƠNG ĐẠI

TS ĐỖ ĐỨC MINH*

05(99)/2016 - 2016, Trang 74-80

Ngày đăng:

  • Trích dẫn

TÓM TẮT

Pháp trị là học thuyết chính trị - pháp lý tiêu biểu của Trung Hoa cổ đại, gồm những quan niệm được đề xuất, bổ sung và hoàn thiện bởi các đại biểu mà đại diện là Hàn Phi Tử nhằm lý giải thực trạng, nguyên nhân biến động xã hội trong bối cảnh lịch sử đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc và đề xuất đường lối chiến lược trị nước lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu nhằm xây dựng quốc gia phong kiến Trung Quốc thống nhất, trật tự, kỷ cương và thịnh trị.


ABSTRACT:

Chinese doctrine of rule of law is a typical political and legal doctrine of ancient China. It consists of conceptions proposed, supplemented and perfected by delegates among which Han Phi Tu is a representative. It explains the situation and causes of social upheaval in the historical context of the Spring Autumn - Warring States Period, as well as to create an united, ordered, discipline and prosperous feudal nation of China by proposing a national management strategy with law as an essential tool.


TỪ KHÓA: không có,

KEYWORDS: no,


Trích dẫn:

×

TS ĐỖ ĐỨC MINH*, HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TRUNG HOA CỔ ĐẠI: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA ĐƯƠNG ĐẠI, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 05(99)/2016, Trang 74-80

https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=28fb8018-b8de-4932-a9c9-fa3607f8381b

Đăng ký để tải miễn phí Đăng ký

Bài viết đã được lưu vài tài khoản.

×

Vui lòng vào mục "Quản lý tài khoản" -> "Bài viết đã lưu" để có xem tiếp ngay lần đăng nhập sau.

Trong lịch sử, học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại do Hàn Phi Tử[1]sáng lập đã không ngừng phát triển, bổ sung để trở thành học thuyết quản lý chủ yếu của nhà nước phong kiến Trung Hoa. Học thuyết này có ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử các quốc gia phong kiến phương Đông, trong đó có Việt Nam. Là học thuyết được xây dựng, hoàn thiện dựa trên những tiền đề lý luận - thực tiễn khoa học nên học thuyết này có ảnh hưởng to lớn trong lịch sử. Vì vậy, nếu gạt bỏ nội dung giai cấp và những nhiệm vụ lịch sử mà học thuyết pháp trị thực hiện, có thể tìm thấy ở học thuyết này những giá trị to lớn và kinh nghiệm về quản lý xã hội, quản lý con người trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.



* TS Luật học, Ban Thanh tra và Pháp chế, Trường ĐH Quốc gia Hà Nội.

[1]Hàn Phi Tử là công tử nước Hàn, tức là con trai vua Hàn nhưng không phải là người được thừa kế ngôi vua. Xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng ông ghét những quý tộc bảo thủ, trọng kẻ sĩ, có tinh thần cách mạng và yêu nước sâu sắc. Ông học rộng, biết cả đạo Nho, Lão, nhưng Hàn Phi Tử thích nhất học thuyết của Pháp gia.

1. Những giá trị của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại

1.1. Một tư duy chính trị thực tế, hiệu quả

Bước vào thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770- 222trước Công nguyên), xã hội Trung Quốc trải qua những biến động vô cùng to lớn và phức tạp. Bức tranh toàn cảnh của xã hội Trung Quốc ở giai đoạn này là sự khủng hoảng về chính trị, xã hội và đạo đức.

Hiện thực xã hội nóng bỏng đương thời đã đặt ra những vấn đề mà các học thuyết phải quan tâm lý giải và đề xuất những giải pháp để vãn hồi trật tự. Vũ đài chính trị Trung Quốc đã lần lượt kiểm nghiệm vai trò của các học thuyết Vô vi, Kiêm ái, Đức trị để giải đáp yêu cầu của lịch sử. Tuy nhiên, do tính không tưởng, duy tâm nên những học thuyết này đều bất lực và không đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện, đề xuất chủ trương chính trị lấy pháp luậtlàm công cụ chủ yếu. Cũng như nhiều đại biểu tư tưởng khác, Hàn Phi Tử phê phán gay gắt xã hội đương thời và đưa ra cách giải quyết thiết thực hơn cả. Ông cho rằng, phương pháp trị nước phù hợp và công hiệu nhất lúc này là phương pháp pháp trị, vì chỉ có pháp trị thì quyền lực mới được tập trung, quốc gia mới hưng thịnh, từ đó mới có thể thống nhất thiên hạ, chấm dứt loạn lạc. Với những quan điểm cho rằng: pháp luật không phụ thuộc vào ý chí con người và Thượng đế, pháp luật phải thay đổi để phù hợp với lịch sử, pháp trị của Hàn Phi Tử thực sự là luận thuyết chính trị có giá trị thực tế. Ông viết: “Thánh nhân không nhất định phải theo cổ, giữ luật lệ cũ mà phải xét việc đương thời rồi tùy nghi tìm biện pháp”.[2]Không như những học thuyết khác đề cao nhân trị, pháp trị thực hiện đường lối chiến lược kết hợp pháp quyền với kinh tế trong cải cách để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, thực hiện mục tiêu thực túc binh cường và binh cường nước mạnh. Các pháp gia cũng chỉ quan tâm đến những vấn đề sản xuất nông nghiệp và chiến tranh, xem đó là nền tảng để duy trì chế độ và chính sách cai trị. Họ chủ trương trong xã hội mọi người đều phải lao động và tham gia chiến tranh (làm ruộng và đi lính là hai nghĩa vụ cơ bản của người dân), chống lại những kẻ lười biếng và xa xỉ.

Nhìn chung, những quan niệm do Hàn Phi Tử đưa ra trong học thuyết của mình đã đảo lộn các giá trị tinh thần của Nho giáo. Trong khi những học thuyết khác chỉ mải mê lý luận, duy lý cao siêu, xa rời những vấn đề cấp thiết thì chỉ có pháp trị không những đã đề cập vấn đề kinh tế, của cải vật chất - mà còn trực tiếp đứng ở bên trong vấn đề đó và giải quyết một cách hiệu quả. Với chủ trương quyền thế vạn năng, đề cao sức mạnh của nhà nước, các pháp gia yêu cầu kẻ thống trị phải nắm lấy quyền giết hại, khen thưởng. Có như vậy thuật mới được thực thi, pháp mới được tôn trọng. Cho rằng thưởng - phạt có tác dụng trực tiếp đến vấn đề lợi ích của con người, nên Hàn Phi Tử luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của nó và xem đó là công cụ vô giá trong việc trị nước. Với hệ thống cai trị như vậy, ông tin tưởng rằng: nếu biết giữ pháp luật và sử dụng quyền thế thì một ông vua không giỏi (chỉ là người trung bình[3]về tài năng và nhân cách) cũng có thể điều hành đất nước hiệu quả và đạt được các mục tiêu của mình. Hàn Phi Tử cũng rất thực tế khi khuyên những nhà cầm quyền rằng: trị dân là trị số đông chứ không phải trị số ít siêu nhân nên không cầu dân phải có nhân nghĩa, miễn là họ tôn trọng pháp luật. Ông vua giỏi phải biết cách tận dụng trí lực của toàn dân và sức lực của cả nước. Để mang lại lợi ích quốc gia, những luật lệ do pháp gia đưa ra đã đặt chiến tranh và nông nghiệp lên vị trí quốc sách hàng đầu của nhà nước với các phương châm: trọng thưởng, trọng phạt, trọng nông, trọng chiến. Mục tiêu của chính sách như sau: “Vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc binh cường” (Ngày thường vô sự, thì làm cho nước giàu, khi biến cố hữu sự, thì có sẵn quân mạnh) và “Hữu nạn tắc dụng kỳ tử, an bình tắc dụng kỳ lực” (Khi hoạn nạn thì họ bỏ mình vì nước, lúc an bình thì họ ra sức xây dựng quốc gia). Chính sách canh chiến của Hàn Phi Tử chỉ chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống xã hội no đủ, đồng thời coi trọng xây dựng quân đội hùng mạnh. Hàn Phi Tử cũng lý giải rõ nguồn gốc xuất hiện của quỷ thần là khi con người rơi vào trạng thái lo sợ hoặc khi gặp phải những bất trắc khó khăn. Như vậy, quỷ thần là do người tạo ra. Ông đả kích những tập quán mê tín ở thời Chiến Quốc và cho rằng: nhà cầm quyền phải có những biện pháp thích hợp để ngăn chặn và chống lại những sai lầm đó. Nếu họ biết tôn trọng và tuân theo pháp luật (theo nghĩa của Pháp gia), nắm chắc thưởng phạt, không mê tín dị đoan chính trị, biết phòng xa và giữ gìn “pháp”, “thế” thì nước yên; nếu trái “pháp”, bỏ “thế“ thì nước loạn.[4]Ngược lại, người cai trị mà mê tín quỷ thần tất nhiên sẽ mất nước, đánh giặc mà cầu khấn quỷ thần tất sẽ thua trận. Tư tưởng vô thần của Hàn Phi Tử là một tiến bộ vượt bậc, phản ánh tư tưởng của giai cấp địa chủ mới nên tin tưởng vào sức mạnh của chính mình. Không như Nho gia, Mặc gia coi trọng tình thương, Hàn Phi khẳng định, không thể dựa vào lòng nhân ái mà phải dựa vào pháp luật để trừng trị tội phạm đến nơi đến chốn, phải xác định rõ những điều nghiêm cấm trong pháp luật. Các pháp gia đã xác định vấn đề kinh tế - xã hội ở vị trí then chốt, để từ đó giải quyết những vấn đề khác và đặt pháp luật trên nền tảng thực tiễn kinh tế - xã hội.[5]Ngoài ra, tư tưởng luôn chú trọng lợi ích, hiệu quả, thực tế cũng là một đặc điểm của các pháp gia.[6]

Ý nghĩa của pháp trị trước hết là ở những quan điểm chính trị - pháp luật thực tế, đề cao giá trị của các quy phạm pháp luật và đó là cơ sở lý luận quan trọng để làm thay đổi xã hội Trung Quốc. Lý thuyết đó vừa phản ánh sự vận động của xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại, vừa chỉ được con đường tất yếu chính trị để đi đến một quốc gia Trung Quốc phong kiến thống nhất. Mặc dù còn yếu tố trực quan kinh nghiệm và nặng tính thực dụng, song về cơ bản, đó là lý luận có nhiều giá trị, hàm chứa tính khả hợp, khả dụng, khả thiđối với lịch sử đương thời và có khả năng phục vụ đắc lực chế độ phong kiến trung ương tập quyền.

1.2. Trị nước bằng pháp luật: yêu cầu khách quan của quản lý xã hội

Với chủ trương xác lập mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và người bị trị trên cơ sở pháp luật, các pháp gia đã chính thức cho chính trị thoát ly khỏi sự ràng buộc của đạo đức và pháp trị trở thành một dòng chảy độc lập trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại. Kế thừa quan điểm của các pháp gia đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Hàn Phi Tử cho rằng, pháp luật được xem là thứ “phép công” điều khiển hành vi của mọi người. Xuyên suốt tác phẩm, bên cạnh việc chứng minh hiệu lực tối ưu của pháp luật bằng những câu chuyện sinh động, ông luôn nhắc nhở các quân vương rằng, cai trị dựa vào pháp luật thì thành công, không dựa vào pháp luật thì thất bại.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, sử dụng pháp luật để quản lý xã hội là phương thức phổ biến được nhiều nhà nước thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương, duy trì hành vi hợp pháp và trừng trị, ngăn ngừa hành vi tiêu cực nguy hiểm cho xã hội. Ở đây, tư tưởng của Hàn Phi Tử đã không hẹn mà gặp các nhà tư tưởng lớn của thời đại. Socrate (470 - 399) - triết gia vĩ đại của Hy Lạp cổ đại cho rằng: “Bất cứ một đạo luật nào, mặc dù còn thiếu sót đến đâu, cũng mang tính cứu sinh hơn là tình trạng phạm pháp. Nếu như mọi công dân đều tuân thủ theo pháp luật, thì nhà nước mà trong đó họ đang sống sẽ trở nên hùng mạnh và phồn thịnh hơn nhiều”.[7]Quan điểm này được Solon (?-560 trước Công nguyên) đồng tình và tiếp tục khẳng định: pháp luật là cái bảo đảm cho sự bình yên của quốc gia: tình trạng vô chính phủ sẽ đem lại biết bao tai họa, đưa thành phố tới chỗ diệt vong. Chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự và tạo nên sự thống nhất. Sau Hàn Phi Tử hơn 2000 năm, chủ nghĩa thực chứng pháp lý phương Tây đã khẳng định giá trị nền tảng của nó khi cho rằng, nếu pháp luật được xác định bởi sự tồn tại của nhà nước và nhà nước được xác định bởi sự tồn tại của một trật tự pháp định thì mọi nhà nước đều phải được điều hành theo chế độ pháp trị, bất luận nội dung thực chất của chuẩn mực pháp lý ra sao. Điều đó cho thấy, nhận thức của Hàn Phi Tử về quản lý xã hội là phù hợp với yêu cầu khách quan của cuộc sống và xu hướng tiến bộ, văn minh của lịch sử. Tư duy của ông đã vươn tới tầm phổ quát nhân loại, lấp lánh những giá trị tư tưởng “pháp quyền” và để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ về vai trò, giá trị của pháp luật trong đời sống hôm nay.

Để quản lý xã hội và đưa chính sách vào cuộc sống, các nhà nước đều sử dụng pháp luật như một công cụ sắc bén, hiệu nghiệm và không thể thay thế. Cai trị bằng pháp luật có ý nghĩa tất yếu khách quan bởi nó giúp cho bộ máy nhà nước vận hành một cách thuận lợi cũng như trong điều kiện xã hội còn tồn tại giai cấp, bất cứ quốc gia nào cũng không rời khỏi hình và pháp. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: trong các xã hội có giai cấp, sự tồn tại của nhà nước cùng với pháp luật và hệ thống công cụ bạo lực là tất yếu. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống nhất, không duy trì được trật tự kỷ cương.[8]Hơn nữa, để đưa xã hội từ tình trạng rối ren vào trật tự, ổn định thì dùng biện pháp cưỡng chế bằng pháp luật có tác dụng nhanh hơn việc giáo dục đạo đức. Vì vậy, pháp luật thường được chú ý sử dụng khi xã hội lâm vào tình trạng loạn lạc. Ngoài ra, trong buổi đầu của mỗi triều đại, để nhanh chóng thiết lập trật tự xã hội, pháp luật thường được xem là công cụ hàng đầu. Quan điểm trị nước bằng pháp luật của pháp trị là hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với thực tế lịch sử và các pháp gia đã có công cung cấp cho giai cấp thống trị nói chung, giai cấp phong kiến nói riêng một vũ khí cai trị đắc lực và hiệu quả.

1.3. Pháp luật công bằng: bước phát triển dân chủ ở phương Đông

Theo quan điểm của các pháp gia, mọi người đều được công bằng, bình đẳng trước pháp luật, không kể người đó thuộc tầng lớp, đẳng cấp nào. Pháp luật đã ban hành thì mọi người phải tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm thì dù người đó là ai cũng bị trừng phạt. Pháp luật phải là của chung, vì lẽ phải và phục vụ lợi ích công nên mọi người trong xã hội đều bình đẳng, từ Thái tử đến hàng đại phu và mọi người dân đều phải tuân thủ pháp luật như nhau. Trong việc thưởng và phạt, pháp luật chỉ có một đối với tất cả mọi người. Trong việc thăng quan tiến chức, mọi người đều có cơ hội ngang nhau miễn là họ đáp ứng được những tiêu chuẩn cần thiết. Tư tưởng thực hiện pháp luật công bằng của pháp trị nhằm xóa bỏ đặc quyền đặc lợi của giai cấp quý tộc để đưa mọi người vào khuôn khổ pháp luật. Theo Hàn Phi Tử, công bằng nghĩa là đòi hỏi sự áp dụng pháp luật ngang nhau, không phân biệt kẻ hèn người giàu hay địa vị xã hội. Theo đó, pháp luật không thể a dua người sang, cũng như dây mục không thể uốn theo gỗ cong, cho nên trị tội không chừa quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường.[9]Với quan điểm này, ông nhắc nhở các vị vua phải luôn cứng rắn, nghiêm khắc trong việc trị nước; phải chí công vô tư, không thiên vị, chỉ căn cứ vào pháp luật để áp dụng.

Bình đẳng trước pháp luật được hiểu là sự ngang hàng, như nhau của mọi công dân trước mọi điều khoản được quy định trong pháp luật, trước việc thi hành và xử lý mọi vi phạm các điều khoản đó. Công bằng trên cơ sở mọi người bình đẳng trước pháp luật là sự phản ánh yêu cầu của pháp luật trong nhà nước pháp trị, là điểm tiến bộ của pháp trị so với chủ trương phân biệt đẳng cấp của Nho gia và là bước phát triển lớn trong quan niệm về dân chủ của phương Đông. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích giai cấp thống trị, nên nội hàm khái niệm công bằng của Hàn Phi Tử còn phiến diện và khác nhiều so với hiện nay bởi mới chỉ là quy định công bằng trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội, còn công bằng về quyền lợi chưa được đề cập. Các pháp gia cũng chỉ muốn công bằng mà không muốn tình thương, cho nên pháp luật chỉ chú trọng đến quyền lợi của nhà nước mà xem nhẹ quyền lợi của người dân. Các biện pháp chế tài cũng tuyệt đối hóa mặt trừng trị mà chưa nhìn thấy một chức năng quan trọng của pháp luật là giáo dục. Thật ra, thừa nhận mọi người đều bình đẳng trước pháp luật không có nghĩa là trong xã hội đã có sự bình đẳng thật sự. Có bình đẳng hay không là do bản chất của chế độ xã hội quy định và điều ấy được phản ánh trong nội dung pháp luật. Nếu nguyên tắc này được thực hiện thì cũng hạn chế bớt sự nhũng nhiễu tùy tiện của tầng lớp quan lại với nhân dân. Dù sao, tư tưởng mọi người bình đẳng trước pháp luật của pháp trị cũng là một bước tiến trên con đường đi tới bình đẳng hoàn toàn của nhân loại.

1.4. Nhận thức đúng đắn về quan hệ giữa yếu tố khách quan - chủ quan trong xây dựng và thực hiện pháp luật

Bàn về vai trò chức năng của pháp luật, các pháp gia khẳng định: pháp luật là vũ khí cai trị và là chỗ dựa duy nhất của nhà vua. Theo quan điểm pháp lý hiện đại, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật. Vì vậy, sự hé mở này của tư duy pháp trị đã gần tiếp cận tính giai cấp của luật pháp. Điều này cũng có nghĩa là pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị, chịu ảnh hưởng sâu sắc lập trường, quan điểm của giai cấp mà nó đại diện. Tuy nhiên, nhận thức được yêu cầu của việc ban hành pháp luật là để bảo vệ các quan hệ xã hội, bảo vệ trật tự chính trị nhà nước và các hoạt động kinh tế cho nên trong khi khẳng định pháp luật là sản phẩm chủ quan, các pháp gia cũng chủ trương xây dựng một nền pháp luật có tính khách quan, không chỉ dựa vào ý chí chủ quan của giai cấp thống trị. Trong thi hành pháp luật, họ cũng yêu cầu các nhà cầm quyền không nên tùy tiện mà phải tôn trọng và tuân theo pháp luật. Thân Bất Hại[10]là người đã nêu ra quan điểm có ý nghĩa tiến bộ vượt bậc trong việc xây dựng pháp luật đảm bảo tính khách quan. Do phản đối các quyền thừa kế địa vị, tài sản và chính trị của tầng lớp địa chủ, cho nên pháp luật của Thân Bất Hại không những lấy yêu cầu dân chủ làm tiền đề, mà còn phản ánh yêu cầu của chủ nghĩa chuyên chế tập quyền phong kiến.

Kế thừa quan điểm về “pháp” và “biến pháp” của Thương Ưởng,[11]Hàn Phi Tử khẳng định: pháp luật được đặt ra là để phục vụ lợi ích chung (phép công). Phép công, ấy là lợi ích chính trị cao nhất, là mục tiêu trị an và binh cường nước mạnh, gắn với sự tồn vong của chế độ. Đây chính là giới hạn cao nhất của pháp luật, đòi hỏi mọi người, kể cả vua là người nắm quyền ban hành pháp luật cũng không được vượt qua hay dẫm đạp lên yêu cầu đó.[12]Mặt khác, pháp luật đưa ra là để cho người dân thực hiện, cho nên các điều luật phải được cân nhắc phù hợp với đời sống và trình độ của người dân. Hàn Phi Tử còn cho rằng, phải xây dựng pháp luật thành văn, đảm bảo tường tận, rõ ràng và công bố công khai để mọi người dân đều biết và thực hiện đúng đắn, tránh sự lợi dụng kẽ hở của pháp luật hoặc thực hiện không nhất quán, làm mất đi ý nghĩa thực tế của pháp luật. Việc định chế hình phạt phải đủ sức răn đe. Mặc dù pháp luật do nhà vua ban hành để thực hiện sự cai trị và bảo vệ lợi ích của kẻ thống trị, nhưng theo Hàn Phi Tử, pháp luật không thể là quyết định tùy tiện mà không xét đến khả năng thực hiện của người dân.[13]Hàn Phi còn chủ trương tuyên truyền, giáo dục pháp luật để người dân cũng như quần thần từ trên xuống dưới có thể ghi nhớ và thực hành đúng đắn. Từ quan niệm thực hiện pháp luật vì lợi ích tối cao của toàn xã hội, Hàn Phi Tử luôn nhắc nhở các bậc vua chúa phải chí công vô tư, gạt bỏ tư lợi, tà tâm. Ông cảnh báo: trong thực hiện pháp luật, nếu nhà vua để tình cảm riêng tư xen vào thì không thể biết được lòng dạ trung - gian, đúng - sai của bề tôi và như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm.

Là người tinh tế, Hàn Phi đã nhìn nhận lịch sử, nhà nước, pháp luật theo quan điểm duy vật. Tư duy của ông về việc dùng pháp luật để cai trị và quản lý xã hội có nội dung khá biện chứng. Một mặt, ông đòi hỏi về việc ban hành, pháp luật phải là thành văn, được công bố công khai, đơn giản, dễ hiểu. Mặt khác, ông khẳng định: pháp luật không phải là nhất thành bất biến mà nó phải được “chứng nghiệm” để thay đổi phù hợp với đổi thay của xã hội và theo diễn biến của thời đại. Pháp luật phải được xây dựng phù hợp với thực tiễn khách quan mới phát huy được vai trò, hiệu lực và hiệu quả quản lý xã hội.[14]Nói khác đi, sự biến đổi khách quan của cuộc sống đã quy định sự thay đổi của pháp luật. Ở đây, tư tưởng của Hàn Phi Tử đã trùng hợp với Pascal (1623- 1662) khi ông cho rằng, nếu pháp luật không theo sự tất yếu mà sửa đổi thì quốc gia nguy hiểm. Do vậy, kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan đương thời và xu thế của thời cuộc. Điều đó cũng có nghĩa là pháp luật của các thời kỳ là khác nhau, pháp luật cũ không thể ngăn cản những yêu cầu điều chỉnh hiện tại. Vì vậy, nhà cầm quyền phải hủy bỏ những pháp luật cũ không còn phù hợp và đặt ra pháp luật mới thích ứng với hoàn cảnh.

Chủ trương xây dựng chính sách, pháp luật phải xuất phát từ điều kiện thực tế xã hội của học thuyết pháp trị là hoàn toàn hợp lý. Xét trong bối cảnh đương thời, khi tư tưởng đức trị đã trở thành chính thống và việc theo gương các vua nhân đức ngày xưa trở thành mẫu mực của đạo trị nước thì quan điểm trên đây của pháp trị thực sự mang tính cách mạng và đột phá cao. Trong vấn đề này, Hàn Phi Tử đã thực sự vượt lên lập trường của giai cấp quý tộc và gần với lý luận dân chủ hiện đại về pháp luật. K.Marx đã viết: “Trong thời đại nào cũng thế, chính vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ lập pháp về chính trị cũng như về dân sự chỉ làm cái việc nói lên, ghi chép lại những yêu cầu của những quan hệ kinh tế mà thôi”.[15]Ông yêu cầu“Nhà lập pháp phải coi mình như một nhà khoa học tự nhiên, ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra chúng mà chỉ nêu chúng lên. Ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức. Chúng ta phải chê trách nhà làm luật là vô cùng tùy tiện nếu như ông ta thay thế bản chất của sự vật hiện tượng bằng những điều bịa đặt của mình”.[16]Ngày nay, các quan điểm pháp lý hiện đại đều khẳng định: pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan (do nhu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội đã phát triển ở một trình độ nhất định) vừa mang tính chủ quan (do phụ thuộc ý chí của nhà nước). Quan điểm về thống nhất giữa yếu tố khách quan, chủ quan trong xây dựng và thực hiện pháp luật thể hiện tư duy sâu sắc, thức thời và hiện đại của Hàn Phi trong bối cảnh thời kỳ cổ đại.[17]



[2]Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi, Hàn Phi Tử, NXB. Văn hóa - Thông tin, 1995, tr. 153-154.

[3]Người trung bình: người ở giữa người tài giỏi và người kém, trên không bằng Nghiêu, Thuấn nhưng dưới không đến nỗi như Kiệt, Trụ.

[4]Trọng “Thế” tức là trọng sự cưỡng chế, điều này Pháp gia thực tế hơn Nho gia, vì chính quyền nào cũng phải áp chế (nhiều ít tùy thời, bằng cách này hay cách khác) để thực hiện chính sách cai trị, đảm bảo trật tự kỷ cương, ổn định chính trị để phát triển.

[5]Về điểm này, Diderot - nhà triết học duy vật người Pháp cũng có quan điểm tương tự: “Địa ngục, thiên đường quá xa xôi, trong khi những cái cần cho sự sống thì lại ở ngay trước mặt”.

[6]Hàn Phi nói: “Học rộng, khôn ngoan, biện luận giỏi thì Khổng Tử, Mặc Tử là nhất. Nhưng Khổng Tử, Mặc Tử không lo cày bừa thì nước được lợi cái gì? Trau dồi chữ hiếu, ít ham muốn thì như Tăng Sâm, Sử Thu là nhất. Nhưng Tăng Sâm, Sử Thu không đánh giặc thì nước được lợi cái gì? Vì thế, minh quân phải đặt pháp luật lên hàng đầu, trên đức hạnh và trên cả người hiền trí.”, Hàn Phi Tử, thiên XLVII Bát thuyết.

[7]Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành, Lê Thị Hoài Thanh, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr. 27.

[8]Otto Baehr (1899 - 1968) cho rằng, khi một dân tộc phát triển tổ chức của mình đến trình độ một nhà nước, thì nhà nước đó có chức năng hàng đầu là thực thi pháp luật theo các nguyên tắc và trình tự cụ thể.

[9]Phan Ngọc, Hàn Phi Tử,NXB. Thông tin, 1998, tr. 54.

[10]Thân Bất Hại (401 - 337 trước Công nguyên) người nước Trịnh chuyên học về hình danh, là thừa tướng của nước Hàn dưới thời vua Hàn Chiêu Hầu. Ông là người đưa ra chủ trương ly khai đạo đức, chống “lễ” và đề cao thuật” trong phép trị nước.

[11]Thương Ưởng(390 - 338 trước Công nguyên) chủ trương trọng pháp trong cai trị quản lý với những tư tưởng về pháp và biến pháp,là nhà chính trị nổi tiếng thời Chiến Quốc, người nước Vệ (nên gọi là Vệ Ưởng), tướng quốc nước Tần dưới đời Tần Hiếu Công, xuất thân từ một gia đình quý tộc sa sút. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật, hành chính và kinh tế, làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh.

[12]Platon (427- 347 trước Công nguyên) là nhà tư tưởng vĩ đại thời cổ đại,

[13]Phan Ngọc, Hàn Phi Tử,NXB. Thông tin, 1998, tr. 588.

[14]Hàn Phi, Hàn Phi Tử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1992, tr. 199.

[15]Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr. 159.

[16]Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr. 232.

[17]Đây là nhận thức đúng đắn song trên thực tế ít có tính khả thi bởi khiếm khuyết cơ bản của lý thuyết pháp trị là đặt cược sự thành bại chính trị vào sự sáng suốt của cá nhân người cầm quyền.


2. Ý nghĩa đương đại từ thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại

Là học thuyết chính trị - pháp lý đồng thời là học thuyết quản lý xã hội tiêu biểu trong lịch sử, học thuyết pháp trị đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của Trung Hoa thời cổ đại và nền tảng tư tưởng chế độ phong kiến phương Đông. Học thuyết này có ảnh hưởng lớn đến ý thức hệ, các định chế chính trị và chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc và các nước láng giềng. Học thuyết pháp trị Trung Hoa đã cung cấp nội lực cho văn hóa Trung Quốc tự cường, nó cũng chi phối mạnh văn hóa chính trị qua suốt thời trung cổ, cận đại và hiện nay.

Chủ trương dùng pháp luật làm công cụ trị nước của Hàn Phi Tử với những vấn đề chính yếu như: khẳng định tầm quan trọng của pháp luật, đề cao tinh thần bình đẳng trước pháp luật thực sự là tiến bộ lịch sử mà mãi sau này đến thời kỳ Khai sáng, phương Tây mới tiếp cận và vượt lên bởi các tên tuổi J. Locke, J,J. Rousseou, Montesquieu... Đặc biệt, tư tưởng kết hợp giữa quyền lực và luật pháp cùng với những nguyên tắc pháp lý cơ bản của học thuyết này đã đánh dấu bước phát triển quan trọng của tư duy pháp lý nhân loại và đóng góp đáng kể cho sự hình thành, phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Xét trong bối cảnh thời đại bấy giờ, học thuyết pháp trị đã đạt đến đỉnh cao tư tưởng về nhà nước và pháp luật, bởi đây là lần đầu tiên trong lịch sử, những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật được trình bày một cách tương đối toàn diện. Tư tưởng pháp trị có ý nghĩa hết sức lớn lao trong lịch sử nhà nước và pháp quyền phong kiến phương Đông và đối với lịch sử văn minh nhân loại, bước đầu tạo ra sự công khai hóa quyền lực và thực thi quyền lực, góp phần xóa đi sự thần bí của nhà vua và triều đình.

Với những giá trịkhoa học và thực tế, học thuyết pháp trị chứa đựng nhiều yếu tố phù hợp đối với thực tiễn pháp lý đương đại với những tư tưởng dùng pháp luật để quản lý xã hội và chấn hưng đất nước, tinh thần thượng tôn pháp luật, đề cao giá trị công bằng và tính nghiêm minh trong thi hành pháp luật. Nghiên cứu, tham chiếu học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại của Hàn Phi Tử không chỉ giúp chúng ta hiểu thêm lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý của các thời đại khác nhau, mà còn góp phần khẳng định yêu cầu khách quan của việc quản lý xã hội bằng pháp luật, tác dụng của pháp luật trong việc trị nước.

Trên phương diện lý luận - lịch sử nhà nước và pháp luật, học thuyết pháp trị đưa ra những nhận thức đúng đắn về vai trò, chức năng của pháp luật với những quan điểm và nguyên tắc pháp lý khoa học, tiến bộ về xây dựng và thực hiện pháp luật. Tinh thần pháp luật thể hiện rõ trong chủ trương đề cao pháp trị, pháp luật phải được xây dựng phù hợp với hiện thực cuộc sống, công bằng, minh bạch và thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu và lợi ích tối cao của toàn xã hội, pháp luật phải thực hiện nghiêm minh, bình đẳng, không a dua phụ họa, nể vì quyền quý. Cùng với đề cao vai trò của pháp luật, pháp trị cũng đề cao chính sách dụng nhân (dùng người theo tài năng) và đặt ra những yêu cầu về khảo sát, điều tra, kiểm tra, đánh giá, xử lý trong quản lý. Các pháp gia cũng phê phán tệ lũng đoạn quyền lực, chủ trương kêu gọi củng cố quyền lực từ phía nhà cai trị theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Ngoài ra, việc chú trọng đến nhu cầu thực tế, không chuộng nói suông là một đặc điểm quan trọng của tư tưởng pháp gia. Nhìn chung, địa vị chủ yếu và giá trị bao trùm của học thuyết pháp trị trước hết là đưa ra đường lối, quan điểm chính trị thực tế, thiết thực và thực dụng, đề cao giá trị của các quy phạm pháp luật trong quản lý xã hội.

Lý luận pháp trị cũng ảnh hưởng lớn đối với thực tiễn xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật trong chế độ phong kiến Việt Nam. Vì vậy, giải quyết đúng đắn về mặt nhận thức lý luận vấn đề ảnh hưởng của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại đối với tư tưởng chính trị - pháp lý phong kiến Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trên phương diện lịch sử và văn hóa, mà còn trên phương diện tổ chức đời sống xã hội Việt Nam hiện đại. Mặt khác, nhận thức giá trị và những ảnh hưởng của học thuyết chính trị - pháp lý Trung Hoa cổ đại đối với tư tưởng chính trị - pháp lý phong kiến Việt Nam còn giúp chúng ta đánh giá đúng đắn nguyên nhân của các vấn đề nảy sinh trong đời sống chính trị - pháp lý Việt Nam hiện đại và những phương hướng, giải pháp quan trọng để hoàn thiện nhà nước, pháp luật. Việc kế thừa, phát huy tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật và các nguyên tắc đảm bảo thực thi pháp luật nghiêm minh của học thuyết pháp trị sẽ góp phần khắc phục những hạn chế về tư duy và phương pháp quản lý xã hội truyền thống, xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật.[18]



[18]Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ…Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm…Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”(Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 94).


TÀI LIỆU THAM KHẢO

©

Bài viết được đăng tải dưới sự cho phép của Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, mọi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến bài viết được bảo lưu. Chi tiết xin vui lòng liên email

Vui lòng đăng nhập tài khoản để tải miễn phí.

Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi và ý nghĩa đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam

Gmail

Đăng ký

Quên mật khẩu?

Đặt mua


Bản giấy tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam

Bài viết liên quan trên

Google scholar

Trích dẫn bài viết qua

Google scholar Crossref