Trong truyện ngắn Rừng xà nu nhân vật cụ Mết có nói Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo

Đề bài:

“Nghe rõ chưa các con, nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu, chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Trong truyện ngắn Rừng xa nu đã cho nhân vật cụ Mết nhắc đi nhắc lại những lời thiêng liêng đó. Hãy bình luận chân lý của thời đại đã được nhà văn nói lên qua những câu trên. Trong Rừng xà nu chân lý ấy đã được thể hiện ra sao qua kết cấu và hình tượng

Bài làm:

Thời đại năm 1954 - 1960 là thời kỳ cả dân tộc vùng đứng lên từ gian khổ và xương máu, để đi tìm đến với ánh sáng của chân lý từ vũng bùn đen nhơ nhớp của chế độ. truyện rừng xà nu đã khắc hoạ lại chân thực thời kỳ đó, trong một ngôi làng nhỏ ở Tây Nguyên nhưng lại chứa đủ mọi hạng người; có chiến sĩ cách mạng Tnú can đảm, trung thành, có cụ Mết hồn hậu nhưng dũng cảm, có người dân làng xô man hết lòng theo Đảng, nhưng lại cũng có những thằng tay sai mất dạy, thằng bán nước ác ôn. hai hình tượng đó cùng một lúc chen vào nhau trong một bức màn tranh tối tranh sáng của ánh sáng đang nhen lên và bòng tối đã giẫy nẩy lên, hấp hối, và càng hấp hối thì lại càng điên cuồng, để rồi cuối cùng giãy chết trong ánh lửa bùng lên phừng phừng trên 10 ngón tay người chiến sĩ cộng sản.

Trong truyện ngắn Rừng xà nu nhân vật cụ Mết có nói Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo

Ông già Mết là một ông già Tây Nguyên, một người già làng có bộ râu đen và khuôn ngực rắn rỏi, cũng là thế hệ người dân làng Xô Man đi trước. Ở ông thấp thoáng bóng hình của một người cách mạng tiền bối, một người luôn hiểu và đặt niềm tin vào Đảng mình vào đất nứoc mình quê hương mình, đã cầm súng đứng lên chống Pháp và bây giờ là chống mĩ. Lời cụ Mết ở lại chính là một chân lý: chống lại bạo lực phải là bạo lực. nó đánh mình thì mình khắc phải đánh trả lại nó, cây xà nu không còn đứng trơ thổ địa mà chịu nào bom nào pháp nào đạn tầm xa của máy bay không hạm pháo kích quân thù, lửa xà nu bừng lên từ thang gác, nhựa cây xà nu chảy ra ròng ròng giờ kết đặc lại, nóng rực lên mà thắp sáng ngọn lửa niềm tin, soi sáng thêm nữa ngọn lửa cách mạng trên tay người chiến sĩ cộng sản Tnú, và tạt vào những gương mặt bẩn thỉu, nhờ nhờ nhăn nhúm của kẻ thù. Lửa đã làm bừng lên nhiệt tình cách mạng và tranh đấu, máu xà nu đã đỏ ra để thắp thêm nữa những ngọn lửa. Lửa cháy rực và nhiều, lửa bừng lên một ngọn rồi mười ngọn, đánh văng đi cái màn đêm của chế độ cùng với đó những quân ăn cướp Tây tay sai ta; rồi lưủa lại bừng lên để nối liền một dải xà nu ngút xanh kéo từ Nam chí Bắc, theo suốt con đưyờng kháng chiến của dân tộc, để mà căn vặn cho quân ăn cướp nước ngaòi pahỉ biết rằng: bất chấp chúng ném bom bi bom tấn rắc thuốc độc, cây xà nu và rừng Việt Nam vẫn xanh,. và màu xanh đó có thể rực sáng lên thành lửa thiêu đốt luôn da thịt và cả ước mong xâm lược của lũ côn đồ hung hãn, bảo vệ từng tấc đất Tổ quốc thiêng liêng.

Xuyên suốt câu chuyện là cây xà nu: cây xà nu không chỉ ở trên đồi, cây xà nu mọc lan sang cả vào bản làng, mọc chi chít trong nhữung hầm chống, những bẫy xà nu sẵ sàng giăng ra để trói chặt thít chặt láy những con thú kẻ thù đang nhe nanh múa vuốt. Rừng xà nu ban đầu còn bị động, còn đứng trơ trơ trên một quả đồi mà mặc cho bom mĩ ném vào mà ngậm ngùi nhìn cho những con mình cháu mình hết cây này đến cây khác bị bom Mĩ đánh quỵ, mà nhưụa mà máu đổ ra thấm vào đất Tổ quốc. nỗi căm thù cứ thế dần dần chồng chất, lớn lên theo năm tháng, theo bước chân để lại của những người ngã xuống để rồi cháy lên sáng rực, lửa xà nu đã cháy ngay trong trái tim người làng Xô Man. Kẻ thù phải bất lực, vì không ngờ rằng loài cây thường nagỳ hiền lành kia bỗng dưng lại đổ đốn mà dữ ra mà quyết liện ra vạy. Cây xà nu lan ra đến đâu kẻ thù bị hất cẳng ra đến đấy; chúng càng tìm cách triệt mầ sống xà nu, thì xà nu càng cháy dữ, cháy ngay trong cánh tay trong bày tay trên gương mặt người dân tây Nguyên để rồi lan rộng khắp dải Bắc Nam một ngọn lửa căm hờn ngút ngát. Sau này, những năm 1968 rồi 1972,1975, lúc tây Nguyên nổi dậy hất cẳng Mĩ Nguỵ, lửa xà nu cũng cháy sáng và cũng soi đường cũng đốt bồn đốt bót giặc không thua gì một thứ xăng tốt nào. Lửa xà nu nagỳ thường che chở cho người Tây Nguyênm, đến khi có chiến tranh lại cùng với người tây Nguyên nổi dậy, để đánh bạt đi đến cùng cái thứ bóng tối mà giặc Mkĩ âm mưu trùm lên đất nước chúng ta.

Rừng xà nu trong truỵen chỉ là một trừng xà nu tật nguyền, bị bom đạn của giặc làm cho hết cây này đến cây kia gục ngã, nhưng giặc càng đánh ác thì xà nu lại càng trở dậy mạnh, địch càng tìm cách úp chụp bóng đen của bom đạn đại bác lên đầu thì xà nu càng vươn cao để hướng sáng, và cuối cùng tự xuơng máu cháy thành ngọn lưủa của thời đại. hết cây này thì sẽ lại đến cây kia, rừng xà nu cứ lan rộng và còn sẽ rất rộng thành một biển một tời mênh mông không bao giờ khô cạn. Cứ thế xà nu góp công góp sức cho Tổ quốc bằng tát cả xương máu mình bằng các thế hệ của mình, để xua tan đi bóng tối mà vươn đến ánh sáng rực rỡ của tự do.

Tư tưởng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” được cụ Mết rút ra từ chính cuộc đời Tnú cũng là câu chuyện về số phận về hành trình lịch sử của dân làng Xôman. Nguyễn Trung Thành bằng tài năng của mình đã để cho tư tưởng ấy hoá thân thành những hình tượng nghệ thuật sôi động bão hoà cảm xúc, tư tưởng ấy vì vậy không phải là thứ triết lí trừu tượng khô cứng không mang thứ màu xám của lí thuyết mà là thứ “cây đời mãi mãi xanh tươi”.

Tư tưởng ấy đã khái quát được quy luật đấu tranh cách mạng đồng thời khẳng định vai trò sức mạnh của vũ khí cũng như những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đó là quy luật có áp bức có đấu tranh, phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực hung bạo của kẻ thù. Để đất nước được độc lập, cuộc sống nhân dân được ấm no thì không còn cách nào hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

READ:  Cảm nhận tình cha con qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”

Được diễn đạt dưới hình thức giá trị mộc mạc của một già làng miền núi, triết lí ấy càng dễ thấm sâu vào tâm hồn của những người dân xôman, của các cộng đồng dân tộc trên các dải đất tự nhiên.

Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành – Ý nghĩa của câu nói “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Gợi ý: -Lời căn dặn của cụ Mết chỉ được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm sau khi ông cụ đã hồi tưởng về cuộc đời Tnú và những mất mát đau thương bất hạnh khi vợ con Tnú bị hành hạ đến chết khi bàn tay cầm giáo mác của anh cũng bị huỷ hoại, nó là lời căn dặn của vị già làng, một người có uy tín và đáng kính nhất trong cộng đồng Xôman.

 Cụ mết lại cất lên lời nhắc nhở ấy trong đêm Tnú về thăm làng khi cụ kể toàn bộ câu chuyện về cuộc đời Tnú cho toàn thể cộng đồng Xôman nghe ở nơi nhà Ưng bên đống lửa lớn trong một không khí thành kính, thiêng liêng. Trong hoàn cảnh ấy lời cụ Mết trở thành lời di huấn của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Lời dạy ấy có lẽ đã được nhắc tới bao nhiêu lần khi cụ Mệt kể chuyện về cuộc đời Tnú và chắc chắn còn được truyền lại từ đời này qua đời khác.

-Lời căn dặn của cụ Mết được phát biểu một cách ngắn gọn, giản dị qua những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ và được diễn đạt trong nhiều tương phản ẩn dụ “Chúng nó” là cách gọi mà cụ Mết dùng để chỉ kẻ thù, cả bọn bán nước và cướp nước; còn “mình” là lời tự xưng của cụ Mết có ý nghĩa chỉ chung dân làng Xôman, cộng đồng Tây Nguyên và mọi người yêu nước; “súng và giáo” đều là những hoán dụ chỉ vũ khí và vật chất nhưng nếu “súng” tượng trưng cho vũ khí hiện đại đủ đầy thì “giáo”tượng trưng cho vũ khí thô sơ, tự tạo. Trong hình thức tương phản và cách nói giản dị, mộc mạc, cụ Mết đã thể hiện. Một tư tưởng lớn: phải dùng vũ khí đáp lại vũ khí, phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực hung bạo của kẻ thù. Nó kín đáo khẳng định tầm quan trọng của vũ khí, của vật chất mà CácMac đã khẳng định:”vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí. Chỉ những lực lượng vật chất mới đánh đổ được những lực lượng vật chất”. Lời khẳng định của cụ Mết cũng thể hiện một quy luật của phong trào đấu tranh cách mạng, quy luật có áp bức có đấu tranh. Có thể nói lời căn dặn của cụ Mết là một chân lí thời đại sâu sắc khẳng định vai trò, tầm quan trọng của vũ khí cũng như quy luật của phong trào đấu tranh cách mạng.

Hãy bình luận chân lí của thời chống Mĩ qua câu nói của cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chứng minh tính đúng đắn của chân lí ấy thông qua việc phân tích kết cấu, nội dung tác phẩm.
Hướng dẫn làm bài:
1. Giới thiệu
Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965 với mục đích “viết những bài hịch của thời chống Mĩ”. Trong không khí căng thẳng, dữ dội của cuộc giáp mặt với kẻ thù, để bảo vệ sự sống của cả cộng đồng, chúng ta chỉ có một cách là cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt giặc. Tinh thần ấy đã được nhà văn Nguyễn Trung Thành đúc kết bằng câu nói của một già làng Xô Man: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Toàn bộ nội dung cũng như cách xây dựng kết cấu nội dung tác phẩm Rừng xà nu chính là sự chứng minh cho tính đúng đắn và kịp thời của chân lí này.

2. Bình luận chân lí
– Giải thích khái niệm “súng” và “giáo”: đều là biểu tượng cho bạo lực. Vậy là phải chống lại bạo lực bằng bạo lực, phải dám đứng lên tiến hành chiến tranh vũ trang cách mạng để chống lại chiến tranh phản cách mạng của kẻ thù.
– Đây là một vấn đề sinh tử đặt ra cho cách mạng Việt Nam trong những năm tháng đen tối nhất: Miền Nam đau thương sẽ phải đi theo con đường nào khi hiệp định Giơ-ne-vơ không được thi hành, khi kẻ thù điên cuồng khủng bố và Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam.
– Đã có không ít ý kiến xung quanh câu hỏi ấy: Phải giữ gìn hoà bình cho một nhân loại đang ở bên bờ vực thẳm của cuộc chiến tranh. Phải trường kì mai phục để phát triển lực lượng. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của dân tộc ta vào thời điểm đó, cả hai con đường trên đều dẫn tới sự tự diệt.
– Con đường mà dân tộc ta đã chọn là con đường cầm vũ khí đứng lên chiến đấu với kẻ thù. Cuộc chiến đấu này có thể không cân sức về vũ khí nhưng chúng ta có thêm sức mạnh của tình yêu thương và lòng căm thù, có sức mạnh chính nghĩa của một cuộc chiến tranh để bảo vệ sự sống. Thực tế đã chứng minh rằng chúng ta đã chọn đúng vì cuối cùng chúng ta đã thắng. Phải có những ngày đồng khởi mới có một chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
– Đây là một chân lí mang tính thời đại, nó đến với dân tộc Việt Nan nói chung và dân làng Xô Man nói riêng từ thực tế của phong trào cách mạng, nó được rút ra từ những bài học đau thương của cả cộng đồng, nó thấm máu và nước mắt của bao người Việt Nam yêu nước, nó là đời sống hoá thân vào nghệ thuật, nó từ nghệ thuật mà tác động và khơi dậy không khí đấu tranh theo đúng tinh thần “Hịch tướng sĩ” của thời chống Mĩ.

3. Phân tích tác phẩm để chứng minh
a. Khi kẻ thù cầm súng mà ta chưa kịp cầm giáo
– Lúc ấy, chúng ta đã có trong mình cả lí tưởng cách mạng, cả ý thức văn hoá (kí ức về những sử thi anh hùng của Tây Nguyên, ý thức học chữ để làm cách mạng) và những phẩm chất tốt đẹp (Mai hiền dịu, giàu đức hi sinh; Tnú khoẻ mạnh, gan góc, tuyệt đối trung thành với cách mạng; làng Xô Man giàu tình nghĩa… ). Với chừng ấy những thứ quý báu, họ cũng không thể tự bảo vệ mình và những gì mình yêu thương (cái chết của anh Xút, bà Nhan, Mai và đứa con của Mai với Tnú… Chính Tnú cũng bị đốt cụt 10 đầu ngón tay).
– Lí do: “Mày chỉ có hai hàn tay trắng. Tau không nhảy ra cứu mày vì tau cũng chi có hai bàn tay không”. Khi chúng ta chỉ có hai bàn tay không, đơn độc giữa kẻ thù đầy vũ khí thì chúng ta không thể cứu được mọi người và cũng không thể tự cứu bản thân mình.
b. Khi ta cầm giáo đứng lên
– Khi lũ làng ào ào xông lên với giáo mác trong tay, lửa đã tắt trên bàn tay Tnú, đau thương ngừng lại, kẻ thù phải trả giá (Cái chết của 10 thằng ác ôn dưới mũi mác, mũi giáo của cụ Mết và thanh niên làng Xô Man, cái chết của thằng chỉ huy dưới bàn tay tàn tật của Tnú).
– Khi cầm vũ khí đứng lên, cuộc sống của làng Xô Man đã hoàn toàn thay đổi: âm thanh tiếng chày giã gạo dồn dập của làng Xô Man khi Tnú trở về, câu nói của cụ Mết: “Năm nay làng không đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ mỗi bếp cho được 3 năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi, đánh thằng Mĩ phải đánh lâu dài” chính là biểu hiện cụ thể của sự thay đổi ấy.
– Khi cầm vũ khí đứng lên, dân làng Xô Man cũng như cánh rừng xà nu trở nên bất diệt: con đường đến làng Cô Man chằng chịt hầm chông, hố chông, giàn thô, những chỗ ác chiến điểm sẵn sàng đợi giặc. Rừng xà nu thì ào ào rung động, đại bác của kẻ thù không ngăn nổi sự sống, sức sống của những mầm cây đang tiếp tục nhú lên.
– Khi cầm vũ khí đứng lên, con người Xô Man trở nên hoàn thiện hơn: Dít giống Mai. Song Mai chỉ có tình yêu thương còn Dít có thêm cả sự cứng cỏi, hiểu biết và đầy bản lĩnh để bảo vệ những gì mình yêu thương. Heng giông Tnú song có thể thấy Heng sẽ đi xa hơn Tnú. Ở tuổi của Tnú ngày xưa, cậu bé Heng đã có tư thế của một người lính thực thụ, có những hiểu biết và ý thức hơn hẳn Tnú ngày xưa.

4. Kết luận
– Qua tác phẩm, Nguyễn Trung Thành đã khái quát được con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên từ tự phát đến tự giác đồng thời cũng khẳng định được sức sống bất diệt của Tây Nguyên trong cuộc đối mặt với kẻ thù.
– Từ thực tế của cuộc đấu tranh mà khái quát lên được một chân lí của lịch sử, chân lí của thời đại, truyện ngắn Rừng xà nu với khuôn khổ một truyện ngắn vẫn vươn tới tầm vóc của một thiên sử thi bi tráng, hào hùng của mảnh đất Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam.