Thơ thiền Lý -- Trần quan niệm về vũ trụ nhân sinh

NGUYỄN THANH PHONG,  LỚP DH4C2

 LUẬN  VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN

 “TÌM HIỂU KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ THIỀN LÝ – TRẦN”

  Giảng viên hướng dẫn:Thạc sĩ Trần Tùng Chinh

   Đại Học An Giang, ngày 30 tháng 04 năm 2007.

MỤC LỤC

NỘI DUNG

TRANG

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………

4. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………

5. Đóng góp của đề tài…………………………………………………..

6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..

7. Cấu trúc luận văn……………………………………………………..

PHẦN NỘI DUNG

     Chương I : Thời đại Lí-Trần và Thơ thiền Việt Nam thời Lí-Trần

1. Thời đại Lí-Trần………………………………………………………

1.1. Khái niệm thời đại Lí- Trần………………………………………

1.2. Tình hình chính trị- xã hội………………………………………..

1.3. Phật giáo Thiền tông ViệtNamthời Lí- Trần…………………….

1.3.1. Quá trình du nhập và phát triển……………………………….

1.3.2. Giải thích một số thuật ngữ Phật giáo Thiền tông…………….

1.3.3. Một số triết lí cơ bản của Phật giáo và Phật giáo Thiền tông…

1.3.4. Ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông đến đời sống xã hội……

1.4. Nền văn học thời Lí- Trần……………………………………….

2. Thơ thiền Lí- Trần……………………………………………………

2.1. Khái niệm thơ thiền………………………………………………

2.2. Đặc điểm thơ thiền Lí-Trần………………………………………

2.3. Nội dung và nghệ thuật của thơ thiền Lí-Trần……………………

Chương II : Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí-Trần.

1. Thi pháp không gian nghệ thuật………………………………………

1.1. Khái niệm thi pháp không gian nghệ thuật……………………….

1.2. Một số quan niệm về không gian ………………………………..

1.2.1. Quan niệm về không gian của người phương Đông………….

1.2.2. Quan niệm về không gian của Phật giáo Thiền tông………….

2. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí-Trần………………………

         2.1. Không gian từ ngoại cảnh đến tâm cảnh……..…………………….

2.1.1. Không gian vũ trụ……………………………………………

2.1.1.1. Không gian thiên nhiên cao- viễn…………………………

2.1.1.2. Không gian tương thông, giao hòa vạn vật……………….

2.1.2. Không gian đời thường……………………………………….

2.1.2.1. Không gian ẩn dật nhàn tản thoát tục…………………….

2.1.2.2. Không gian chùa chiền của đời sống tu hành…………….

2.2. Không gian từ tâm cảnh đến ngoại cảnh…………………………

2.2.1. Không gian tâm thiền…………………………………………

2.2.1.1. Không gian bao la của “hư không pháp giới”……………

2.2.1.2. Không gian trong suốt, đầy ánh sáng của bản thể giác ngộ

2.2.1.3. Không gian thế giới siêu nhiên Phật tiên, ma quỷ………..

2.2.2. Không gian biểu tượng triết lí Thiền…………………………

2.2.2.1. Không gian vận hành theo qui luật vô thường……………

2.2.2.2. Không gian vạn vật tồn tại “như nhiên” vốn có………….

3. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền của một số tác giả tiêu biểu…

3.1. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Huyền Quang………….

3.2. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Trần Thái Tông………..

3.3. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Tuệ Trung Thượng sĩ….

PHẦN KẾT LUẬN

PHẦN PHỤ LỤC…………………………………………………………..

Phụ lục 1. Thử phân tích một số bài thơ tiêu biểu trong thơ thiền Lí-Trần từ góc độ không gian nghệ thuật…………………………………..

1.1. Cáo tật thị chúng – Mãn Giác thiền sư…………………………….

1.2. Ngư nhàn – Dương Không Lộ…………………………………….

1.3. Nguyệt – Trần Nhân Tông………………………………………..

Phụ lục 2. Danh mục các bài thơ thiền Lí-Trần dùng để khảo sát………

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..

1

2

6

6

7

8

9

10

11

11

11

13

13

15

18

20

22

23

23

25

27

29

30

32

32

34

35

36

36

36

39

41

41

44

46

46

47

49

52

53

53

56

58

59

62

66

71

75

75

75

76

78

80

85

 MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Nền văn học viết ViệtNamtrải qua hơn một ngàn năm định hình và phát triển đã để lại một thành tựu hết sức to lớn. Đây thật sự là một tài sản vô giá trong đời sống tinh thần của dân tộc, là niềm tự hào cho truyền thống văn hóa đầy tính nhân văn của người ViệtNam.

 Rẽ sóng ngược dòng tìm về cội nguồn văn học dân tộc, nơi mà nền văn học viết bắt đầu cắm rễ và chuyển mình vươn cao trên mảnh đất xã hội của những ngày đầu phong kiến tự chủ, chúng ta không khỏi kinh ngạc trước tinh thần và hào khí vòi vọi ngất trời của một thời đại vàng son trong lịch sử dân tộc. Vâng, chúng tôi đang muốn nói đến thời đại Lí-Trần. Một thời đại quan trọng mở ra kỉ nguyên độc lập dân tộc sau hàng ngàn năm nô lệ, một thời đại đã gây dựng nên nền phong kiến tự chủ Đại Việt thịnh đạt về mọi mặt; và cũng chính thời đại đó đã ghi lại những chiến công chói lọi vào trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử vệ quốc hào hùng, đã sản sinh ra những người anh hùng lồng lộng chí khí cho dân tộc, những con người đã đem hết sức mình chống trả quyết liệt để bảo vệ bản sắc văn hóa riêng của dân tộc và phát huy nó lên một tầm cao mới…

Tìm hiểu về thời đại Lí-Trần sẽ rất thiếu sót nếu không tìm hiểu về bộ phận văn học được sáng tác trong thời kì này, mà trong đó, thơ thiền Lí-Trần là một hạt minh châu sáng chói tiêu biểu nhất cho việc phản ánh khí thế, tâm lí và đời sống tinh thần của thời đại vốn rất hào hùng và tràn trề sức sống đó.

Thi pháp học là một ngành nghiên cứu văn học mới đang rất thịnh hành và được sự tập trung chú ý của giới nghiên cứu khoa học. Việc áp dụng những thành tựu lí luận của thi pháp học hiện đại để khám phá văn học viết trong thời kì trung đại là một thử nghiệm khá lí thú và hứa hẹn nhiều triển vọng. Thơ thiền Lí- Trần mới nghe qua tưởng chừng đây là loại văn học chức năng trong nhà chùa, nhưng khi tiến hành tìm hiểu nó dưới ánh sáng của lí luận thi pháp học, ta mới vỡ lẽ ra rằng, thơ thiền Lí- Trần cũng chứa đựng trong nó một thế giới nghệ thuật hài hòa, bóng bẩy như các bộ phận văn học khác.

Không gian nghệ thuật là một nội dung quan trọng của thi pháp học, muốn hiểu sâu hiểu đúng về một tác phẩm văn chương không thể không tìm hiểu không gian, hoàn cảnh được xây dựng trong tác phẩm đó. Huống hồ trong thơ thiền Lí-Trần, cùng với quan niệm về con người và thời gian, quan niệm về không gian chi phối rất lớn đến cảm hứng sáng tác thơ thiền của các nhà thơ. Do đó, các bài thơ câu kệ do các thiền gia ngẫu hứng làm ra chứa đầy không gian, thấm đẫm suy nghĩ và quan niệm về không gian, nhất là ở những sáng tác càng về sau này. Nhờ đó, việc nghiên cứu không gian trong thơ thiền càng thêm ý nghĩa.

Ở trường phổ thông, việc nghiên cứu tìm hiểu, giảng dạy và phân tích thơ thiền đối với một bộ phận giáo viên quả không phải là một điều dễ dàng, thậm chí rất khó khai thác loại thơ này để làm sao trong thời gian ngắn ngủi, tổ chức dạy học cho học sinh lĩnh hội đúng và đầy đủ nội dung bài thơ. Trong Sách giáo khoa Ngữ văn 10- tập một, nhà biên soạn đã mạnh dạn đưa vào chương trình bài thơ Cáo tật thị chúng của Mãn Giác Thiền Sư để giới thiệu cho các em học sinh; và trong nhiều công trình hợp tuyển văn học của các nhà nghiên cứu, thơ thiền Lí- Trần cũng là một bộ phận thường xuất hiện nhất và luôn được sự quan tâm đặc biệt.

Để góp phần tìm hiểu thêm về bộ phận văn học vốn rất ít người nghiên cứu và khám phá, cùng với niềm say mê và hứng thú riêng của bản thân, chúng tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí-Trần”. Với đề tài này, chúng tôi sẽ ứng dụng những thành tựu lí luận của thi pháp học để tìm hiểu, giải mã không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần, từ đó khám phá nội dung tư tưởng của các bài thơ thiền, quan niệm về không gian của các thiền gia.

Thiết nghĩ, đề tài này ra đời sẽ góp phần rất lớn giúp giáo viên và học sinh ở trường phổ thông tìm hiểu và chiếm lĩnh những bài thơ thiền Lí- Trần trong sách giáo khoa Ngữ văn, nhất là phân tích và giảng dạy thơ thiền từ góc độ không gian nghệ thuật. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc học tập và giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV ở nhà trường.

 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Văn học Phật giáo nói chung và thơ thiền Lí- Trần nói riêng trong vài chục năm gần đây được nhiều tác giả tham gia nghiên cứu, đặc biệt là các học giả yêu thích nghiên cứu Phật học và giới tu sĩ trong nhà chùa.

Xung quanh đề tài “Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần”, chúng tôi thu thập khá nhiều tư liệu từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực nghiên cứu và đánh giá mức độ liên quan của chúng đến đề tài này như sau:

Tiến hành nghiên cứu về thi pháp học và thi pháp không gian nghệ thuật có các công trình sau: Thi pháp hiện đại [6] (Đỗ Đức Hiểu), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [25], Một số vấn đề thi pháp học hiện đại [22], Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam [21] (Trần Đình Sử); Giáo trình thi pháp học [26] (Đại học Huế)…các công trình nghiên cứu văn học này đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển của thi pháp học, nêu các khái niệm liên quan đến thi pháp học, đưa ra cách kiến giải mang tính định hướng về mặt lí luận để tìm hiểu từng đối tượng cụ thể của thi pháp học.

Áp dụng những thành tựu lí luận của thi pháp học để nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể có các công trình: Thi pháp truyện Kiều [24], Thi pháp thơ Tố Hữu [23] (Trần Đình Sử), Thi pháp thơ Đường [16] (Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi), Thi pháp thơ Đường [3] (Nguyễn Thị Bích Hải), Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính)… Các công trình này đi vào nghiên cứu các phương diện thi pháp của một hiện tượng văn học để tìm ra những đặc điểm chung và riêng của từng đối tượng. Ở mức độ nông sâu khác nhau, các tác giả cũng đã đi vào khai thác và khám phá thi pháp không gian nghệ thuật với những phương pháp nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên đó chỉ là không gian nghệ thuật ứng với đối tượng mà các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.

Xoay quanh văn học Phật giáo thời Lí- Trần, thơ thiền Lí- Trần và không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần có các công trình nghiên cứu sau:

 Nguyễn Công Lý trong luận án Tiến sĩ Văn học Phật giáo thời Lí-Trần –Diện mạo và đặc điểm [11] đã phác họa một cách khá toàn diện và hệ thống về văn học Phật giáo Việt Nam thời Lí- Trần. Công trình này đã dựng lại một cách đầy đủ diện mạo văn học Phật giáo thời kì này, lí giải các hiện tượng thăng trầm biến động của nó. Đồng thời, công trình đã nêu lên một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của văn học Phật giáo Lí- Trần như: tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh, trình bày những vấn đề về bản thể luận và giải thoát luận trong giáo lí nhà Phật, cảm hứng về đất nước, quan niệm về con người, cảm hứng thiên nhiên, đặc sắc nghệ thuật. Luận án khoa học này đã đi sâu phân tích, đánh giá bộ phận văn học Phật giáo trong toàn thể nền văn học thời Lí- Trần; đặt thơ thiền trong phạm vi lớn hơn để nghiên cứu chứ vẫn chưa lấy thơ thiền làm đối tượng trực tiếp nghiên cứu. Trong đề tài, tác giả nhiều lần nhắc đến hình tượng không gian trong văn học Phật giáo, dù có nhiều điểm tương đồng với không gian nghệ thuật trong bộ phận thơ thiền Lí- Trần nhưng nhìn chung cách đánh giá về không gian này vẫn mang tầm bao quát cao và chưa đi vào từng đối tượng cụ thể.

Đoàn Thị Thu Vân trong Luận án Phó Tiến sĩ Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỉ XI- thế kỉ XIV [28] đã nghiên cứu một cách khá tổng quát về các phương diện đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền như: ngôn ngữ thơ, hình tượng con người, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật, thể thơ, cách miêu tả, thể hiện và giọng điệu, kết cấu…Đồng thời, tác giả còn đưa ra cái nhìn khái quát về thời đại Lí- Trần và Thiền tông Việt Nam thời Lí- Trần, so sánh đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Lí- Trần với thơ Nho cùng thời và thơ thiền Trung Quốc, Nhật Bản. Nhìn chung, tác giả đã xác lập những căn cứ về mặt chính trị, xã hội khá chặt chẽ cho sự ra đời của thơ thiền Lí- Trần; khẳng định những nét đặc trưng của Thiền tông Việt Nam thời Lí- Trần, đó là nền triết học gắn liền với văn hóa dân tộc, là tư tưởng đầy tinh thần tự do phóng khoáng đậm tính nhân văn, đem lại nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca dân tộc. Thế giới nghệ thuật của thơ thiền Lí- Trần là thế giới tràn đầy tính thẩm mĩ và thể hiện sự thu hút mạnh mẽ với hệ thống kí hiệu nghệ thuật phong phú, gây được sự cảm thụ sâu sắc ở người tiếp nhận. Cũng trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã tìm hiểu một cách khá tổng quát đặc trưng không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần. Tuy nhiên, luận án này chỉ cho phép nghiên cứu bao quát các đặc trưng nghệ thuật cơ bản nên chỉ khái quát một cách chung nhất về đặc điểm chứ chưa đi sâu phân loại, đánh giá từng kiểu không gian nghệ thuật một cách cụ thể. Theo tác giả, không gian trong thơ thiền Lí- Trần thường là một không gian bao la, thoáng đạt, trong trẻo và lặng lẽ, nó biểu tượng cho cái đại ngã tuyệt đối vô biên mà con người luôn hướng tới hội nhập. Không gian ấy luôn hàm chứa sự vận động vô cùng, sự đối lập giữa cái vô cùng lớn lao và cái vô cùng nhỏ bé, khi đó con người muốn đưa tâm mình hòa nhập vào vũ trụ lớn lao để sống trọn vẹn trong nó, đó chính là thế giới tâm linh bát ngát, trong lặng, không mùi vị của thiền gia. Ngoài ra còn có không gian thể hiện bản chất, qui luật vận động của vũ trụ mà trong đó vạn vật luôn hòa điệu với nhau mãnh liệt. Cuối cùng, tác giả khẳng định không gian trong thơ thiền là không gian mang tính triết học, không gian của những cảm thức tâm linh.

Giáo sư Lê Trí Viễn trong công trình Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam [30] có giới thuyết về cảm thức trước tự nhiên của con người thời trung đại. Tác giả vạch ra ba dạng cảm thức: con người thấy mình trong tự nhiên, thấy trong con người mình có cả vũ trụ, nhìn sự vật trong thế giới để thấy một ngụ ý hay một lời giáo huấn. Tiếp đến tác giả đi vào giới thiệu cảm thức về thời gian và không gian của con người thời trung đại, từ đó đi đến khẳng định thế giới và con người là một. Nhận định về không gian trong thơ thiền Lí- Trần, ông phát biểu: “Không gian trong đó (thơ Thiền Lí- Trần) thường là một không gian bao la, khoáng đạt, trong trẻo và lặng lẽ…Nhưng không gian đó không chỉ có bao la, lặng lẽ mà còn có sự thống nhất biện chứng giữa cái vô cùng lớn lao với cái vô cùng nhỏ bé, cái vô hạn với cái hữu hạn” [30, 96]. Như vậy, nhận xét của giáo sư Lê Trí Viễn khá tương đồng với quan điểm của Đoàn Thị Thu Vân. Tuy nhiên, việc đi sâu phân tích toàn bộ không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí-Trần như một đối tượng tìm hiểu chính thì chưa được đề cập. Cũng trong công trình này, tác giả thừa nhận “Thơ thiền đã thể hiện quan niệm ấy (quan niệm về không gian và thời gian) hết sức tốt đẹp và nghệ thuật” [30, 96].

Ngoài ra, không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần cũng được nhiều lần đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các quyển Tuyển tập 40 năm tạp chí văn học [15], Tạp chí nghiên cứu văn học [31], Tuyển tập 10 năm tạp chí văn học và tuổi trẻ [14]…Các tác giả không chủ ý đi vào nghiên cứu không gian; mà thông qua tìm hiểu nghệ thuật của một tác phẩm tiêu biểu, phong cách sáng tác của một nhà thơ nào đó, hoặc phê bình bình luận về môt bài thơ hay, so sánh nghệ thuật giữa thơ thiền Việt Nam với thơ thiền Trung Quốc hay Nhật Bản…Các học giả đã liên hệ, dẫn chứng một vài câu thơ hàm chứa không gian để khẳng định cho lời nhận định của mình. Do đó, không gian nghệ thuật cũng chỉ được thể hiện một cách rời rạc, đơn lẻ và thiếu một hệ thống hoàn chỉnh.

Ngoài sách báo, chúng tôi cũng khảo sát trên một số trang web Phật giáo như: quangduc.com, thuvienhoasen.com, phathoc.com, thuongchieu.com…và nhận ra rằng cũng có khá nhiều bài viết nghiên cứu về thơ văn thời Lí- Trần, nhất là văn học Phật giáo và thơ thiền Lí- Trần. Tuy nhiên, dù ở nội dung này hay khác, cấp độ sâu cạn khác nhau, các công trình ấy cũng chỉ đề cập đến không gian nghệ thuật trong thơ thiền như một đối tượng liên quan, không phải là đối tượng nghiên cứu trực tiếp.

Tóm lại, theo những hiểu biết của chúng tôi và những gì chúng tôi sưu tầm được, không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần mặc dù có được một vài tác giả nói tới trong một số công trình nghiên cứu, tuy nhiên, các học giả chỉ điểm qua một vài nét khái quát về đặc điểm của không gian nghệ thuật, nêu lên những cảm nhận chủ quan của bản thân về hình tượng không gian trong thơ thiền Lí- Trần. Chưa có công trình nghiên cứu nào xem không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần là đối tượng nghiên cứu trực tiếp để đi sâu khám phá và tìm hiểu một cách khoa học, đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy, đề tài “Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần” là một đề tài hết sức mới mẻ, chưa từng có công trình nghiên cứu nào tiến hành tìm hiểu với cấp độ và qui trình tương tự. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng thừa nhận đã tiếp thu không ít những thành tựu nghiên cứu từ các công trình đi trước để thực hiện đề tài này, nhất là thành tựu nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Thu Vân. Nhưng dẫu sao đi nữa, công trình này cũng chỉ là bước khởi đầu tìm hiểu vấn đề với những hiểu biết và năng lực có hạn của người nghiên cứu, do đó, thời gian và kinh nghiệm hứa hẹn sẽ cho ra đời những thành tựu nghiên cứu hoàn chỉnh hơn.

 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Khóa luận đi vào tìm hiểu hình tượng không gian trong thơ thiền thời Lí- Trần, từ đó phát hiện qui luật xây dựng hình tượng không gian của các nhà thơ trong việc thể hiện, bộc lộ nội dung tư tưởng. Do đó, có thể gói gọn lại đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hình tượng không gian nghệ thuật được chứa bên trong các bài thơ thiền thời Lí- Trần.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Do khóa luận đi sâu tìm hiểu không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần nên phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là các bài thơ thiền được sáng tác trong thời đại Lí- Trần. Tuy nhiên, do trình độ hạn chế nên việc xác định và lọc ra các bài thơ thiền trong hệ thống sáng tác thời kì này đối với người viết khóa luận là vấn đề khá khó khăn. Để thực hiện đề tài này, về mặt phạm vi nghiên cứu, chúng tôi đã kế thừa thành tựu nghiên cứu của Tiến sĩ Đoàn Thị Thu Vân trong hai công trình Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỉ XI đến thế kỉ XIV [28] và Thơ thiền Lí- Trần [29]. Theo đó, chúng tôi tiến hành khảo sát phạm vi 192 bài thơ thiền được vạch ra trong công trình thứ nhất (xem phụ lục 2), trong đó tập trung chú ý đặc biệt vào 83 bài trong công trình thứ hai để phát hiện ra qui luật xây dựng hình tượng không gian của các tác giả như thế nào. Bên cạnh đó, khóa luận còn đi vào tìm hiểu, đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của việc xây dựng hình tượng không gian để làm nổi bật lên những vấn đề cần nghiên cứu.

4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Từ việc tìm hiểu những vấn đề xoay quanh không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần như: thời đại Lí- Trần, thơ thiền Lí- Trần, thi pháp học và thi pháp không gian nghệ thuật, những quan niệm về không gian, không gian trong thơ thiền một số tác giả tiêu biểu…chúng tôi đi sâu nghiên cứu hình tượng không gian trong các bài thơ thiền nhằm những mục đích sau:

Thứ nhất, có cái nhìn bao quát về toàn thể hình tượng không gian được xây dựng trong thơ thiền Lí- Trần ở các mặt: đặc điểm, sự phân bố theo thời gian và tác giả, các tầng lớp ý nghĩa, không gian trong mối quan hệ với con người…

Thứ hai, phân loại hình tượng không gian đó nhằm phục vụ cho việc đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá từng phần và toàn bộ nó một cách đầy đủ, thích đáng. Từ đó rút ra nghệ thuật xây dựng không gian theo quan niệm- mang cảm hứng thiền- của tác giả.

Thứ ba, nghiên cứu không gian trong thơ thiền để thấy được cái hay, cái đẹp, sức hấp dẫn của không gian nghệ thuật trong loại thơ vừa mang đặc trưng triết học- tôn giáo, vừa mang đặc trưng của văn học nghệ thuật này, có cái nhìn đối chiếu so sánh với không gian trong thơ vịnh cảnh mang tư tưởng Nho hay Đạo giáo.

Thứ tư, tìm thấy chiếc chìa khóa chung để giải mã các bài thơ thiền thời Lí-Trần từ góc độ không gian nghệ thuật.

Với những mục đích cụ thể đó, chúng tôi mong muốn đạt đến một mục đích chung là góp phần làm phổ biến văn học thời Lí- Trần nói chung, thơ thiền nói riêng vốn rất khó tiếp nhận đối với giáo viên hay học sinh phổ thông, chí ít cũng có thể khám phá loại thơ này theo hướng không gian nghệ thuật. Từ đó, góp phầm làm tăng tình yêu thơ ca, ngôn ngữ và tâm hồn dân tộc trong lòng các thế hệ sau, mà một bộ phận trong số đó vốn đang dần hướng ra xa những nét đẹp văn hóa dân tộc.

5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

Thơ thiền Lí- Trần là một thành quả quan trọng của văn học thời trung đại. Tuy nhiên, với thành tựu từ các công trình nghiên cứu bộ phận văn học này như hiện nay, xem ra, thơ thiền Lí- Trần chưa được khai thác và khám phá đúng với vị trí và vai trò vốn có của nó trong nền văn học dân tộc. Thơ thiền Lí- Trần trở thành mảnh đất đầy tiềm năng thu hút mọi người đến khai phá. Thế cho nên, ngoài các công trình nghiên cứu một cách bao quát về các vấn đề xoay quanh thơ thiền Lí- Trần thì việc đi sâu tìm hiểu các khía cạnh nghệ thuật của thơ thiền Lí- Trần là một hướng đi mới lạ và hứa hẹn có thể đem lại nhiều đóng góp mới.

 Thực hiện đề tài này, lấy không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần làm đối tượng hướng vào nghiên cứu, chúng tôi hy vọng có thể khai thác được vấn đề đến mức độ cần thiết để mở ra cái nhìn khá trọn vẹn về hình tượng không gian trong bộ phận sáng tác này. Tiếp bước các công trình nghiên cứu trước, chúng tôi đi vào khám phá những phần cụ thể hơn, bổ sung thêm một hướng nhìn vào bức tranh toàn cảnh thế giới nghệ thuật của thơ thiền Lí- Trần. Từ đó khơi gợi được những rung động thẩm mĩ sâu xa nơi người tiếp nhận, và hi vọng nhờ thế mà thơ thiền Lí- Trần sẽ phần nào gần gũi, thân thuộc với người thưởng thức văn học hơn.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dựa vào những cơ sở được vạch ra phía trên, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau để tiến hành thực hiện đề tài:

6.1. Phương pháp tập hợp, khảo sát tư liệu:

Thơ thiền Lí- Trần hầu hết được sáng tác bằng chữ Hán và viết theo thể thơ Đường luật (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt hoặc ngũ ngôn tứ tuyệt), một số ít được viết theo thể thơ cổ phong hoặc bốn chữ. Do sử dụng loại văn tự và thể thơ cũ nên thơ thiền khá xa lạ với những người ít hiểu biết hoặc không hiểu biết về Hán học. Vì vậy, có không ít tác giả tham gia dịch nghĩa và dịch thơ cho thơ thiền, tuy nhiên, chỉ tinh thông Hán học sẽ vẫn chưa đủ nếu không am hiểu Thiền học; và điều tất yếu dẫn đến là xuất hiện những bản dịch không tương đồng nhau.

Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này tiến hành trên đối tượng 192 bài thơ thiền trong hai tập đầu của tổng tập Thơ văn Lí- Trần [32]. Đọc và chọn ra những câu thơ có chứa không gian nghệ thuật của các tác giả tham gia sáng tác, tập hợp và bước đầu phân loại chúng dựa vào hai tiêu chí: không gian từ ngoại cảnh đến tâm cảnh và không gian từ tâm cảnh đến ngoại cảnh. Từ đó, tiếp tục chia ra thành những loại không gian nhỏ hơn để khai thác hết vấn đề.

6.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp:

Nhằm làm nổi bật những vấn đề xoay quanh không gian nghệ thuật, chúng tôi đã tiến hành đi sâu phân tích các tư liệu vừa được khảo sát và phân loại, tìm ra đặc điểm chung và riêng của chúng, chọn lọc dẫn chứng sau đó tiến hành tổng hợp để đúc kết vấn đề.

6.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu:

Trong quá trình phân tích, bên cạnh việc tìm hiểu nội dung, phát hiện qui luật vận dụng, giá trị của việc sử dụng không gian nghệ thuật…chúng tôi cũng quan tâm so sánh và đối chiếu những đặc điểm của thơ thiền Lí- Trần với thơ Nho Lí- Trần, thơ thiền Đường- Tống và thơ Hai- cư của Nhật Bản. Việc so sánh đó không phải để đề cao hay hạ thấp loại thơ nào mà chỉ nhằm phát hiện cái chung, cái riêng của chúng. Từ đó, chúng tôi có cơ sở vững chắc hơn để khẳng định vấn đề.

6.4. Phương pháp hệ thống:

Sau khi sử dụng các phương pháp trên để nghiên cứu vấn đề, chúng tôi đã rút ra được nhiều nội dung xoay quanh hình tượng không gian trong thơ thiền Lí- Trần. Tùy theo từng cấp độ, chúng tôi đã xâu chuỗi những đơn vị kiến thức ấy thành một hệ thống hoàn chỉnh, sao cho vừa đảm bảo tính chặt chẽ, khoa học của kết cấu, vừa đảm bảo tính chuẩn xác và hợp logic của nội dung. Từ tiểu kết của từng phần, chúng tôi cũng chú trọng xây dựng kết luận chung thật bao quát và đầy đủ cho toàn khóa luận.

 7. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN

Khóa luận dài 86 trang và được bố cục thành 3 phần như sau:

PHẦN MỞ ĐẦU (dài 9 trang)

PHẦN NỘI DUNG (dài 61 trang)

Chương I : Thời đại Lí-Trần và Thơ thiền Việt Nam thời Lí-Trần.

 1. Thời đại Lí-Trần.

 2. Thơ thiền Lí-Trần.

Chương II : Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí-Trần.

 1. Thi pháp không gian nghệ thuật.

 2. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí-Trần.

 3. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền của một số tác giả tiêu biểu.

PHẦN KẾT LUẬN (dài 4 trang)

Ngoài ra, khóa luận còn có:

PHẦN PHỤ LỤC (dài 10 trang)

1. Thử phân tích một số bài thơ tiêu biểu trong thơ thiền Lí-Trần từ góc độ không gian nghệ thuật.

2. Danh mục các bài thơ thiền Lí-Trần dùng để khảo sát.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (dài 2 trang)

——————o0o——————–

 PHẦN NỘI DUNG

——————o0o——————–

Chương I : Thời đại Lí-Trần và Thơ thiền Việt Nam thời Lí-Trần

Nền văn học viết ViệtNambắt đầu với một loạt những tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước, nhân đạo và mang đậm ý nghĩa triết lí. Điều đó cũng dễ hiểu, vừa bước khỏi vòng nô lệ suốt gần một ngàn năm, giành được độc lập chủ quyền sau biết bao nỗ lực cố gắng, thì việc khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện tình yêu nước đậm đà tha thiết, chăm lo vun đắp cho vận mệnh đất nước trong những tháng ngày non trẻ đầu tiên của các triều đại phong kiến tự chủ là điều mà người sáng tác văn học xưa quan tâm. Nói là sáng tác văn học nhưng kì thực chưa hẳn vậy, trong những buổi đầu đầy khí thế và nhiệt huyết ấy, có tác giả nào ý thức rõ mình đang sáng tác văn học, mình đang là “văn nhân thi sĩ”, có nhà sư nào nghĩ rằng mình đang sáng tác sấm kệ, thi ngôn để lưu truyền hậu thế? Hay thực ra, đó chính là tinh thần của thời đại, khẩu khí của thời đại mà khi mở miệng ra, giọng điệu, tư thế của con người phải là như vậy, không thể nào khác được.

Nếu những tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước, hào khí thời đại phần lớn là của tầng lớp Nho sĩ quí tộc thì những tác phẩm thể hiện ý nghĩa triết lí, sự chiêm nghiệm sâu xa hầu hết lại là của các nhà sư ở nhà chùa. Nói như vậy cũng chưa thỏa đáng, bởi lẽ không ít tác phẩm của những nhà Nho thấm đượm ý nghĩa triết lí, và ngược lại, không ít kệ thơ của nhà sư thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, khẳng định chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận, Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu…là những tác phẩm minh chứng hùng hồn nhất cho điều đó.

Chiếm một vị trí quan trọng trong toàn thể văn học thời đại Lí-Trần là bộ phận văn học Phật giáo mà thơ thiền Lí-Trần là đại diện tiêu biểu nhất. Tuy nhiên, không giống như triết lí của các nhà Nho gắn liền với đời sống thế tục, vận mệnh đất nước; nội dung triết lí trong hầu hết sáng tác của các nhà sư là triết lí mang tính triết học- tôn giáo. Đó là triết lí Phật giáo, cụ thể hơn là triết lí Thiền tông thời Lí-Trần. Đây cũng không phải là những triết lí suông, cứng nhắc, dễ nhàm chán tác động vào đầu óc những tín đồ sùng tín đạo Phật mà là những triết lí được xây dựng trên nền móng của tình cảm con người, những con người “đại ngã”. Hơn nữa, những triết lí ấy lại được chuyển tải bằng một hệ thống những hình ảnh bóng bẩy, cụ thể, sinh động và đầy sức thu hút, đặc biệt hơn là hình ảnh của cuộc sống bình thường đơn giản và lặng lẽ nhất. Cái gì đã làm nên những yếu tố đó nếu không phải là tinh thần thời đại, sức mạnh tư tưởng của con người và triết lí Phật giáo Thiền tông vốn hết sức riêng biệt và độc đáo của con người Đại Việt thời ấy.

1. Thời đại Lí-Trần:

    1.1. Khái niệm thời đại Lí- Trần:

Nhắc đến khái niệm “thời đại”, chúng ta nghĩ ngay đến một khoảng thời gian tương đối dài, gồm một hai hay nhiều triều đại (thời phong kiến), được tạo nên bởi sự kết hợp cùng một lúc của nhiều yếu tố. Tuy nhiên, đó phải là sự kết hợp chặt chẽ, sâu sắc và hữu cơ với nhau để tạo nên một nét chung làm nền tảng xuyên suốt cả thời đại ấy.

Thời đại Lí- Trần không đơn thuần là thời đại chỉ gồm hai triều đại nhà Lí và nhà Trần. Thực ra, thời đại này “là thời kì nhà nước phong kiến độc lập được xây dựng ngày càng hùng mạnh và phát triển mọi mặt qua các triều đại: Ngô (939-967), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lí (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407) và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời Hậu Trần (1407-1418). Một giai đoạn lịch sử kéo dài ngót 500 năm ấy với những thành tựu tổng hợp của các triều đại, trong đó, hai triều đại Lí và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên các nhà nghiên cứu đã gọi tên chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lí- Trần” [11, 61].

Như vậy, đây là thời kì kéo dài suốt 6 triều đại phong kiến Việt Nam đầu thời tự chủ, khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938), lập ra nhà nước phong kiến cho đến cuối đời Hồ, khi giặc Minh sang xâm lược đất nước ta (1418). Thời đại ấy nằm gọn trong khoảng thời gian giữa hai lần Bắc thuộc cuối đời nhà Đường và đầu nhà Minh. Điểm chung xuyên suốt tạo nên thời đại này là nền độc lập tự chủ được củng cố, chế độ phong kiến thịnh đạt, một ý thức hệ tư tưởng riêng biệt được hình thành và phát triển, các lĩnh vực khác đều đạt được những thành tựu to lớn.

 1.2. Tình hình chính trị- xã hội:

Sau khi giành lại nền độc lập chủ quyền từ tay giặc xâm lược phương bắc sau gần ngàn năm Bắc thuộc, đập tan cái mộng xâm lăng của nhà Tống và tiến hành mở rộng biên thùy Đại Việt về phương bắc. Triều đình tập trung chăm lo cho đời sống nhân dân, củng cố bộ máy cầm quyền, tạo điều kiện phát triển kinh tế sản xuất bằng hàng loạt chính sách về đê điều, thuế má, ruộng đất, phục hưng văn hóa, khôi phục những giá trị tinh thần truyền thống, đồng thời vừa khôn ngoan tiếp nhận, chuyển hóa và dung hợp những tinh hoa văn hóa tư tưởng từ bên ngoài truyền vào. Nhờ những nguyên nhân đó, đời sống của nhân dân no đủ về vật chất và thoải mái, rộng mở, dễ chịu về tinh thần. Vì vậy, thời đại Lí- Trần đã trở thành thời đại phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến tự chủ Đại Việt.

Mặc dù đời sống tư tưởng, tinh thần của nhân dân thời kì này khá thoải mái, ba hệ thống tư tưởng Nho, Phật, Đạo đã có sự dung hoà với nhau và với văn hoá truyền thống của dân tộc, hơn nữa chúng đều có điều kiện phát triển. Nhưng nhìn chung, Phật giáo phát triển thịnh đạt hơn và có nhiều đóng góp hơn cho công cuộc phục hưng và phát triển mọi mặt của đất nước, cụ thể là Phật giáo Thiền tông. Bởi lẽ, lúc này Phật giáo có sự ảnh hưởng sâu rộng và tác động mạnh mẽ đến mọi phương diện của đời sống xã hội, từ vua quan đến thứ dân, từ đường lối chính trị đến bản sắc văn hoá đều ít nhiều ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo.

Con người sống trong thời đại này cũng là những con người đầy hào khí, đó là những con người tự tin, phấn khởi, hừng hực khí thế và giàu lòng yêu nước. Hơn nữa, cũng có những con người hết sức đặc biệt, làm vua mà từ bỏ ngai vàng dễ dàng như trút bỏ chiếc giày rách, tin dùng tuyệt đối con của kẻ từng thù nghịch với mình, coi ngôi vua như là của chung anh em thân tộc cùng nhau cai trị; làm tôi lấy trung nghĩa làm đầu, gạt thù nhà qua một bên, bắt tay với kẻ thù chăm lo cho vận mệnh đất nước; làm nhà sư mà phóng khoáng, chê bai lối tu hành khổ hạnh, giễu cợt những kẻ cầu Phật cầu thiền, chủ ý không thích đi theo lối mòn của Như Lai; làm anh hùng tài giỏi lãnh đạo nhân dân nhiều lần đánh tan bọn giặc xâm lược lớn mạnh hung hăng mà cả thế giới khiếp sợ…Nhiều nhà sư đã tham gia vào công việc triều chính, kề vai sát cánh với nhân dân trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giành chủ quyền dân tộc, xây dựng xã hội đầy tình thương và lòng từ bi. Đó là một minh chứng hết sức vững chắc cho thấy tinh thần nhập cuộc, “hòa quang đồng trần” (hòa cùng ánh sáng trần thế) của các thiền sư thời Lí- Trần. Thời đại đó đã sản sinh ra những con người có nhân cách cao đẹp, đáng kính phục: nhân thứ, anh hùng, dũng liệt, khoan dung, rộng mở…Hình ảnh những con người đó đã phản ánh đúng và đầy đủ diện mạo tinh thần của thời đại.

Nguyễn Công Lý [11, 61-70] đã rút ra một số đặc điểm cơ bản của thời đại này như sau: Một, thời đại Lí- Trần là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng. Hai, thời đại Lí- Trần là thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước. Ba, đây là thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ. Nhìn chung, ở thời đại này, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá đều có những thành tựu to lớn đáng khâm phục. Điều đáng nói hơn, chính thời đại này đã tạo nên một khí thế hào hùng, một tinh thần tự tin, hăm hở và ý chí hết sức mạnh mẽ. Có thể khẳng định rằng, đây là thời kì cực thịnh của tư tưởng ViệtNam.

     1.3. Phật giáo Thiền tông Việt Nam thời Lí-Trần:

Nhắc đến Phật giáo, người ta thường nghĩ ngay đến một tôn giáo của dân tộc Việt Nam, cắm rễ sâu vào lòng quần chúng nhân dân, gắn liền với tư tưởng tình cảm và tư duy của người Việt Nam, gần gũi với quan niệm dân gian và triết lí sống của dân tộc. Gần gũi và thân thiết với nhân dân là vậy, thế nhưng có ai ngờ đâu rằng, nơi đầu tiên Phật giáo ViệtNamđược hình thành và phát triển chính là chùa chiền của triều đình phong kiến. Phật giáo, mà chính xác hơn là Thiền tông được dung dưỡng trong vòng tay đặc biệt ưu ái của tầng lớp quí tộc phong kiến và giới tăng lữ. Hay nói khác đi, triều đình phong kiến thời Lí- Trần có vai trò rất lớn trong việc đưa Phật giáo truyền bá rộng rãi ở ViệtNam. Vì thế cho nên, trong những ngày tháng đầu, Phật giáo Thiền tông vốn đã mang tính triết học sâu sắc lại có điều kiện phát triển trong giới trí thức vua chúa, quan lại, tướng lĩnh, nhà sư …nên tính chất bác học của nó được hình thành cũng là điều dễ hiểu. Vậy mà, Phật giáo Thiền tông lại dễ dàng đi sâu vào đại đa số quần chúng nhân dân, thế mới thấy tinh thần của thời đại khoan giản đến chừng nào. Người dân ViệtNamcó nhu cầu về một hệ thống tư tưởng độc lập và Phật giáo Thiền tông là một trong những hệ thống tư tưởng đáp ứng được nhu cầu đó.

Văn học Phật giáo nói chung, thơ thiền nói riêng là một bộ phận quan trọng của văn học dân tộc. Do nó phản ánh gián tiếp tâm hồn của con người thông qua triết lí thiền hay ngược lại, thể hiện triết lí thiền thông qua việc miêu tả tâm trạng của con người trước đất trời vạn vật, nên đòi hỏi người tiếp nhận phải có những hiểu biết nhất định về Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Thiền tông.

      1.3.1. Quá trình du nhập và phát triển:

Ngay từ thế kỉ thứ II, Phật giáo từ Ấn Độ theo chân một số nhà sư truyền vào địa điểm đầu tiên ở nước ta là thành Luy Lâu (Bắc Ninh), từ đó lan tỏa ra khắp vùng. Cuộc sống của dân chúng thì nghèo khổ, tối tăm, nô lệ nên cái đạo Nho mà trước đây Sĩ Nhiếp và các thái thú kế tiếp đã cố công gieo trồng trên mảnh đất Giao Châu tỏ ra không được nhân dân ủng hộ. Vì lẽ đó, đạo Phật du nhập vào nước ta một cách hòa bình với những chủ trương từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, hạnh phúc, an vui…; cộng với sự tự chuyển biến cho thích nghi với đời sống xã hội và tâm linh của cư dân bản địa; nên nó đã thật sự được đông đảo nhân dân chấp nhận. Cuộc giao tiếp văn hóa song phương Việt-Ấn diễn ra, tín ngưỡng bản địa đã kết hợp nhuần nhuyễn, hữu cơ với tư tưởng Phật giáo vừa được du nhập vào, sản sinh ra nền văn hóa mới có trình độ cao hơn, sau mấy thế hệ đã tạo ra một lớp trí thức xuất thân nhà chùa tinh thông Hán học.

Đến thế kỉ V, thiền sư Đạt-ma-đề-bà từ Ấn Độ đến nước ta để giảng dạy phương pháp thiền học. Có thể xem đây là thời điểm Thiền tông du nhập đầu tiên vào nước ta; tuy nhiên, Thiền tông lúc này còn mang đậm chất nguyên thủy của đức Phật Thích-ca-mâu-ni. Đến thế kỉ X, Phật giáo dung hòa với Nho giáo, sư tăng tu hành cũng đồng thời là giới trí thức, nhà hoạt động chính trị, văn hóa của thời đại.

Từ đó, các dòng thiền khác nhau lần lượt du nhập vào ViệtNam:

Nửa sau thế kỉ VI, thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi (người Ấn Độ) trên con đường truyền giáo đã từ Trung Quốc sang nước ta, kết hợp với thiền sư Pháp Hiền lập ra thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi, dòng thiền Nam Phương. “Đây là dòng thiền có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo, vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ Việt Nam” [10, 16].

Năm 820, thiền sư họ Trịnh người Trung Quốc chủ trương lấy tâm truyền tâm, suốt ngày quay lưng vào tường, không nói một lời, lập ra dòng thiền Vô Ngôn Thông (còn gọi Quan Bích). “Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất gần gũi với đời sống xã hội, hòa nhập với đời sống người dân trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình” [10, 16].

Giữa thế kỉ XI đến giữa XII, thiền sư Thảo Đường từ Trung Quốc qua Chiêm Thành rồi sang Đại Việt lập ra thiền phái Thảo Đường, chủ trương dung hợp Phật giáo với Nho giáo, đưa Nho sĩ tiến gần đến đạo Phật và trở thành Phật tử,  vừa tu hành vừa phục vụ đất nước. Với tinh thần nhập thế đó, các thiền sư và cư sĩ Thảo Đường nghiêng về văn học và sáng tác thơ ca. “Thiền phái này có khuynh hướng thiền tông trí thức và văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh hướng văn học” [10,16].

Đến thế kỉ XIII, thiền phái Trúc Lâm ra đời ở ViệtNamdo Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông làm đệ nhất tổ. “Một dòng thiền ViệtNamđầu tiên, mang tính chất độc lập ViệtNamvới sự kết hợp hài hòa của Phật giáo Ấn- Hoa. Lập ra thiền phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã thống nhất được các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối” [10, 16]. Các dòng thiền này đều chủ trương tu hành đi đến giác ngộ nhưng phương thức tu hành để đi đến giác ngộ lại khác nhau.

Đây là thời kì thịnh đạt nhất của Phật giáo ở ViệtNam. Phật giáo lúc này đã trở thành quốc giáo, chùa chiền mọc lên khắp nơi, “quá nửa số dân trong nước đi tu”, tư tưởng Phật giáo rất phổ biến trong đời sống xã hội. Từ các nhà chùa, tự viện, dòng suối sấm kệ, kinh sách, thơ văn bắt nguồn và chảy tràn lên khắp nơi, thấm nhuần tất cả đất trời vạn vật. Phật giáo thời kì này gồm nhiều tông phái nhưng tiêu biểu nhất là ba phái: Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Trong đó, phát triển nhất là Thiền tông.

Như vậy, Phật giáo Thiền tông thời đại này giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, tâm linh và văn hóa. Thế nhưng đây không phải là thời kì độc thịnh của Phật giáo. Đạo Phật không thể hiện tính độc tôn, thống trị mà luôn tỏ thái độ dung nạp với đạo Lão- Trang và đạo Khổng- Mạnh. Các nhà tư tưởng trong thời kì này không cứng nhắc chỉ tôn vinh giáo lí nhà Phật mà còn tổng hợp đươc tinh thần của các tôn giáo khác nên chủ trương “Tam giáo đồng nguyên”, trở về với gốc cội chung của mọi tôn giáo. Ba tôn giáo lớn là Nho, Phật, Đạo phát triển trộn lẫn vào nhau tạo nên một đời sống tinh thần cân đối, hài hòa mà thanh cao, “hòa giản an lạc”.

      1.3.2. Giải thích một số thuật ngữ Phật giáo Thiền tông:

Ở ViệtNamvà hầu như ở tất cả các quốc gia có du nhập Thiền tông khác trên thế giới, Thiền tông là tông phái có một hệ thống các thuật ngữ rất phong phú và phức tạp. Ngoài việc sử dụng một số thuật ngữ chung của đạo Phật như: giải thoát, nghiệp, niết bàn, luân hồi, quả báo…, Thiền tông còn sở hữu một số thuật ngữ riêng như: thiền, tham thiền, bản thể, giác ngộ, đốn ngộ, tiệm ngộ, nghi tình, thoại đầu, công án…Phong phú thì chúng ta có thể nhận thấy qua hệ thống thuật ngữ khá lớn, còn phức tạp thể hiện ở chỗ đôi khi cùng một đối tượng có nhiều cách gọi khác nhau, hoặc cùng một cách gọi lại có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí có những đối tượng chúng ta có thể tự cảm nhận mà không thể dùng ngôn ngữ để giải thích thỏa đáng. Chúng tôi xin được giải thích theo sở hiểu của mình (có tham khảo tự điển) một số thuật ngữ cơ bản.

Thiền (xuất phát từ tiếng Phạn là Dhyan, dịch tắt âm là Thiền na, hay còn gọi là tĩnh lự) là phương pháp tu hành chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lí. Hành giả tu thiền phải luyện tập cho tâm được thuần nhất, thanh tịnh hư vô đến mức tuyệt đối, lấy thanh tịnh làm gốc, tập trung vào tư duy, chú tâm vào một chỗ mà suy ngẫm đạo lí mầu nhiệm. Đến khi tất cả mọi vọng niệm đều dừng bặt thì mọi hiện tượng sẽ hiển bày. Giống như khi mặt hồ trong suốt phẳng lặng không một gợn sóng thì dễ dàng nhìn thấu đáy nước, mọi thứ trong lòng hồ sẽ hiển hiện rõ ràng. Đến lúc đó, người tu thiền sẽ minh tâm kiến tánh, giác ngộ bản thể thường tồn bất biến của chính mình, sống an nhiên tự tại với một cuộc sống tự do, không ràng buộc một cách tuyệt đối. Thiền tông là một pháp môn bên cạnh Tịnh Độ tông, Mật tông, Hoa Nghiêm tông… mà đức Phật đích thân truyền dạy cho đệ tử tu hành để đi đến giác ngộ.

Chân như, Phật tánh, Như Lai tạng, bản thể, thể tánh thanh tịnh, thật tánh, bổn lai diện mục, pháp thân thanh tịnh, diệu tánh, diệu thể, chủ nhân ông…là những cách nói khác nhau để chỉ tự tánh chân thật vốn có của mỗi chúng sanh hữu tình. Đây là khái niệm quan trọng của  Phật giáo Ðại thừa, chỉ thể tánh tuyệt đối cuối cùng của vạn sự. Thể tánh đó bất động, thường hằng, nằm ngoài mọi lí luận nhận thức, ngược lại với thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm nên không thể dùng cái tâm thông thường mà tư duy đo lường được. Trong kinh, đức Phật dạy “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, có nghĩa là tất cả chúng sanh hữu tình đều có tánh Phật, từ loại côn trùng súc sanh đến con người đều ẩn tàng bên trong thể tánh thanh tịnh, giác ngộ; đều đồng nhất với chư Phật một bản thể thanh tịnh. Như vậy, chúng sanh và chư Phật là bình đẳng, không hai vì cũng đều có Phật tánh, cùng với vũ trụ chung một bản thể hằng thường thanh tịnh. Tánh Phật đó là thường tồn, bất biến, nhiệm mầu vi diệu, tồn tại khắp cả không gian và thời gian, nó vô hình vô thanh, mà hay hiện hình hiện thanh, như như bất động mà cùng tột biến hóa, tất cả năng lực đều sẵn có đầy đủ, vượt ra ngoài hiểu biết thông thường. Người tu hành phải luyện tập và giữ cho thân tâm thanh tịnh, trở về tìm lại Phật tánh. Như thế mới đoạn li sanh diệt, sanh tử luân hồi, thoát khỏi mọi khổ não của trần gian.

Giác ngộ (ngộ, chứng ngộ, giác, chứng đắc, đạt đạo): Danh từ được dịch nghĩa từ chữ Bodhi (Bồ-đề, tỉnh thức) của Phạn ngữ; chỉ trạng thái tỉnh thức, thấu rõ tự tánh thanh tịnh thường tồn bất biến của vạn vật. Lúc ấy, con người bỗng nhiên trực nhận tính không, bản thân nó là không cũng như toàn thể vũ trụ cũng là không. Chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được thể tính mọi hiện tượng. Tính không hiểu ở đây không phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên không thể dùng suy nghĩ, cảm nhận để đo lường, nằm ngoài cặp đối đãi có- không. Tính không này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận đến vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Vì vậy, giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giãi bày. Nhờ tình trạng giác ngộ sâu xa, hành giả từ bỏ được cái “ngã” (cái ta, bản ngã). Trong Thiền tông, một khi cái “ngã” đã chết thì đời sống mới bắt đầu, đó là một cuộc sống tự tại và an lạc. Trong khung cảnh này thì tâm của con người không còn bị những câu hỏi, hồ nghi quấy nhiễu– không phải vì chúng tất cả đều được giải đáp mà vì chúng đã tự biến mất, tự hủy diệt trong cái tĩnh mịch vô biên của Chân như. Đốn ngộ: nghĩa là ngộ bất thình lình, ngay bây giờ, ngay tức khắc. Chỉ cần khơi gợi một vài tia sáng là có thể phóng thẳng ngay vào sự giác ngộ chớp nhoáng, tức thời không cần qua trung gian ý thức nào cả. Tiệm ngộ: ngược với đốn ngộ, giác ngộ từ từ, theo từng cấp bậc từ thấp đến cao. Trong lộ trình tu tiệm, hành giả trước hết phải gạn lọc hết dòng tưởng niệm về hình tướng, tập trung tâm ý dần dần lìa xa vọng niệm chấp trước. Trong trường hợp này, giác ngộ cũng đồng nghĩa với minh tâm kiến tánh (thấy rõ tâm tánh), trong khoảnh khắc tự tánh bỗng hiện, chứng được các pháp vô sanh (không sống không chết), chẳng phải có chỗ thấy và chỗ không thấy để phân biệt, trực nhận thấy tự tánh… Ngộ còn được sử dụng mở rộng để chỉ trạng thái bừng hiểu, thông suốt một chân lí hay một triết lí nào đó trong cuộc sống tu hành.

Giải thoát: Sau khi giác ngộ, tất cả mọi cảm giác về sự khổ vui của thân tâm đều được giải tỏa, hành giả đạt đến chỗ sanh tử tự do, ung dung tự tại vô ngại, chẳng còn chịu sự kềm tỏa hạn chế của thời gian không gian, thoát ra ngoài vòng quay của luân hồi sanh tử,  khi viên tịch được sanh lên cõi an lành, tiếp tục tu hành chứng đắc.

Lục căn, lục trần, lục thức: Lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), mà sanh khởi sự phân biệt của lục thức, như xấu đẹp của sắc, tiếng lớn nhỏ của âm thanh, thơm thối của mũi, ngọt đắng của vị, lạnh nóng của xúc, sanh diệt của pháp…Theo Phật giáo, đây là sáu tên giặc (lục tặc) dẫn con người đến chỗ phân biệt “nhị nguyên” (hai nguồn gốc), ngày càng đi xa bản thể tự tánh, nó dẫn dắt con người đi đến dục vọng, tham đắm, là nguyên nhân của mọi ác nghiệp, khổ đau, là nguồn gốc của luân hồi sanh tử. Vì vậy, Phật giáo chủ trương người tu hành phải “tuyệt lục căn, trừ lục thức, dứt lục trần”, có như thế mới thoát khỏi phân biệt nhị nguyên, đối đãi, tà kiến (cái nhìn sai lầm) và đạt đến giải thoát.

Nghiệp: Tâm khởi niệm, thân làm theo, tất cả hành vi đã làm hoặc khởi niệm mà chưa làm đều gọi là nghiệp. Nghiệp có thân nghiệp (nghiệp do thân tạo), khẩu nghiệp (nghiệp do miệng tạo) và ý nghiệp (nghiệp do ý tạo), từ đó nghiệp chia tiếp thành ba loại nhỏ là thiện nghiệp (nghiệp tốt lành), ác nghiệp (nghiệp xấu ác) và vô kí nghiệp (nghiệp không tốt cũng không xấu). Nghiệp báo: là sự báo ứng đối với những nghiệp mà mình đã tạo ra, nếu tạo thiện nghiệp được phước báo, tạo ác nghiệp bị khổ báo.

Niết bàn: Thuật ngữ này có nhiều quan niệm và cách dịch khác nhau. Có người cho đó là bản thể của tự tánh đầy khắp thời gian không gian, hư không pháp giới, bất sanh bất diệt, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai, vô thủy vô chung mà khi giác ngộ người tu hành sẽ được hòa nhập. Có người cho đó là một cõi thanh tịnh tốt đẹp trang nghiêm mà người tu hành sau khi viên tịch sẽ trở về, đó là nơi qui tụ những người tu hành đắc đạo. Học giả khác quan niệm đó là trạng thái tinh thần tồn tại bên trong tâm thức của người đã giác ngộ, cho nên nếu một bậc tu hành nào đó đạt đến giác ngộ thì họ luôn sống trong sự an lạc, hạnh phúc của thể tánh thanh tịnh, đó là niết bàn ngay tại trần thế này chứ không ở đâu xa.

Công án có thể là một đoạn kinh, câu chuyện về một vị sư, một cuộc vấn đáp nói đến thể tính của vạn vật. Đặc trưng quan trọng nhất của nó là hàm chứa sự nghịch lí, không thể giải đáp được nó bằng lí luận, muốn hiểu được thì nhận thức phải nhảy sang một cấp độ khác. Thoại đầu là cái trọng yếu, trung tâm có chứa nghịch lí mà thiền sinh lấy làm đối tượng quán tưởng trong lúc thiền.

  1.3.3. Một số triết lí cơ bản của Phật giáo và Phật giáo Thiền tông:

Bất kì một tôn giáo nào cũng xây dựng cho mình một học thuyết để làm nền tảng tư tưởng và phục vụ cho việc truyền giáo. Phật giáo được xây dựng trên nền tảng là một hệ thống các triết lí giải thích cho sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng xảy ra xung quanh đời sống con người. Đó là các thuyết: nhân quả, luân hồi, thập nhị nhân duyên, vạn pháp giai không, vạn vật vô thường…Giữa các học thuyết này có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau; đan xen và bỗ sung để giải thích hoàn chỉnh cho nhau. Từ các học thuyết này, mọi vấn đề xảy ra với con người đều có thể giải thích cặn kẻ và tường tận.

Thuyết nhân quả (nghĩa gốc là hạt- trái): có ý nghĩa là trồng hạt nào thì cho quả ấy, không thể có một sự việc phát sinh mà không do một hoặc nhiều nguyên nhân nào đó tác động đến. Có lẽ, những quan niệm “gieo nhân nào gặt quả ấy”, “gieo gió gặt bão”, “ở hiền gặp lành”…của ông cha ta có sự tương đồng rất lớn, thậm chí có điểm xuất phát từ triết lí này của đạo Phật. Từ đó, mọi khổ đau vui buồn của con người đều được đức Phật giải thích: “Hãy xem kiếp này ta có được những gì để biết kiếp trước ta đã làm gì, và hãy xem kiếp này ta đã làm gì để biết kiếp sau ta được những gì”. Nghĩa là việc thiện ác ta làm trong hiện tại sẽ cho những quả báo tương ứng ở tương lai.

Bổ sung hoàn chỉnh cho thuyết nhân quả là thuyết thập nhị nhân duyên (12 nhân duyên: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử). Thập nhị nhân duyên được xem là những yếu tố có vai trò tác động để nhân trở thành quả, giống như những yếu tố đất, nước, ánh sáng, gió, khí hậu…tác động đến hạt giống để hạt giống đó biến thành cây trái. Và thập nhị nhân duyên là yếu tố đóng vai trò như một nguyên nhân để giải thích vì sao một hạt có thể cho nhiều quả và ngược lại, có khi hạt giống đó chẳng cho quả nào.

Nhắc đến Phật giáo không thể không nhắc đến thuyết luân hồi, nếu Nho giáo và Đạo giáo ít đề cập đến việc sống chết của con người, có hay không thế giới bên kia nào đó tồn tại xung quanh cuộc sống con người…thì Phật giáo đã giải thích khá cặn kẽ vấn đề này thông qua thuyết luân hồi. Luân hồi (luân: bánh xe, hồi: trở lại): được mô tả giống như vòng quay của bánh xe, hết vòng này đến vòng khác. Triết lí này chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết-bàn. Nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là các pháp bất thiện– động cơ tác động lên cơ chế của sự tái sinh. Theo Đạo Phật, kiếp sống hiện tại như một mắc xích mà hai đầu dây xích không thể nào xác định được vì nó là vô thuỷ vô chung. Ở mỗi mắc xích đó, con người sẽ mang một thân xác nhất định tuỳ theo tội lỗi hay phước đức mình gây tạo, còn nếu nghiệp lực gây tạo quá nặng nề thì thần thức sẽ sinh về cảnh giới tương ứng để chịu quả báo. Do đó, chúng sinh sẽ luân hồi mãi nếu không tu hành cầu giải thoát.

Thuyết vạn pháp giai không có nguồn gốc từ kinh Bát Nhã. Theo kinh này, tất cả mọi sự vật, sự việc đã, đang và sẽ tới; mọi thứ hữu hình, ngay chính thân mạng này, bản thể này… cũng đều “không” hết. Đây không có nghĩa là cái “không” kiểu hư vô chủ nghĩa mà là cái “chân không diệu hữu”, nghĩa là cái không chân thật nhất chính là cái có vi diệu, “không thể nghĩ bàn”. Do đó, đạo Phật chủ trương tu hành để trở về cái không chân thật đó, nhờ vậy mới mong được giải thoát.

 Tồn tại bên cạnh thuyết vạn pháp giai không, thuyết vạn vật vô thường có ý nghĩa bổ sung hoàn chỉnh, làm rõ hơn cho những vấn đề dễ hiểu sai của học thuyết này. Vạn vật vô thường có nghĩa là mọi thứ đều luôn vận động biến đổi vô cùng, không có sự vật nào là thường tồn, bất biến, miên viễn. Do đó, mọi sự vật đều không phải là cái hằng thường, hay thực chất là không tồn tại. Đạo Phật chủ trương tu hành giác ngộ bản thể, trở về với cái hằng thường bất biến sẵn có trong mỗi con người, vượt ra khỏi cảm thức và ràng buộc về không gian và thời gian trong kiếp sống hiện tại.

 Trên đây là những triết lí cơ bản làm nền tảng tư tưởng và đường lối tu hành cho những nhà sư và cư sĩ cầu đạo. Các học thuyết đó du nhập vào nước ta khá trọn vẹn và dễ dàng hoà hợp với văn hoá tư tưởng và tập quán của người Việt. Thiền tông ViệtNamcũng tiếp thu đầy đủ hệ thống tư tưởng này. Tuy nhiên, biểu hiện ra trong thơ thiền Lí- Trần nổi trội nhất có lẽ là hai thuyết vạn pháp giai không và vạn vật vô thường. Các nhà sư thời Lí-Trần dường như gạt ra ngoài những quan niệm rối rắm về nhân quả, luân hồi, thập nhị nhân duyên. Họ thường không bàn tới những vấn đề đó mà chú trọng việc giác ngộ lẽ vô thường của vạn vật, trở về với cái bản thể chân không diệu hữu sẵn có trong mỗi con người, cảm nhận những giây phút giác ngộ thiêng liêng của mình.

Theo Đoàn Thị Thu Vân [28, 37], ngoài một số tôn chỉ chung như: phá chấp (cởi bỏ sự vướng mắc và câu chấp, phân biệt nhị nguyên), đốn ngộ (kiến tánh bằng con đường trực giác, tức thời), tâm truyền (chỉ thẳng vào tâm người) như Thiền tông ở các nước khác; Thiền tông Việt Nam thời Lí-Trần còn có một số nét riêng: thiền được đưa vào cuộc sống, phục vụ đất nước và nhân dân, tu dưỡng nhân cách con người, thiền còn dung hợp với mặt tích cực của Nho và Lão để giúp con người phát triển toàn diện và phù hợp với con đường phát triển của đất nước, Thiền tông còn dung hợp với Tịnh độ tông và Mật tông, ngay cả với tín ngưỡng bản địa dân gian để phù hợp với thực tiễn và mang tính đại chúng.

      1.3.4. Ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông đến đời sống xã hội:

Nói đến Phật giáo thời kì này phải chú ý đến tinh thần “hòa quang đồng trần” (hòa cùng ánh sáng trần thế) của các thiền sư trong đời sống tu hành. Đó là tư tưởng dấn thân nhập cuộc, không xa rời chính sự, là quan niệm sống “tùy tục” phóng khoáng, thậm chí “phóng cuồng” của người tu hành. Tư tưởng đó giúp nhà tu hành không quay lưng lại với thời cuộc mà ngược lại họ tích cực tham gia vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. Nhiều nhà sư trở thành quốc sư, pháp sư, cố vấn chính trị cho vua, được đặc biệt ân sủng, trọng thị. Có lúc, nhà sư còn được cử làm sứ giả, đại diện cho quốc thể để nghênh tiếp sứ thần Trung Quốc. Do đó, tiếng nói của họ đối với đời sống chính trị, xã hội, văn hóa có ý nghĩa rất lớn và ta cũng dễ hiểu tại sao nhiều hoàng thân quốc thích, giới quí tộc quan lại triều đình lại say mê và sùng bái đạo Phật đến như vậy. Đó là chưa kể, ngay từ những buổi đầu, nhà chùa là nơi dạy chữ và học chữ cho mọi người, nơi đầu tiên có những nhà trí thức tinh thông Hán học, biết sáng tác thơ ca, sấm kệ. Từ đó, ta có thể suy rộng ra, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, tinh thần hào phóng, sảng khoái, rộng mở của thời đại; sự phát triển thịnh đạt của triều đại phong kiến không thể không có sự tác động và ảnh hưởng của tư tưởng cứu khổ cứu nạn, từ bi bác ái, bình đẳng khoan hòa của đạo Phật, mà trong đó các nhà sư là những sứ giả tiêu biểu.

Tinh thần Phật giáo thời Lí- Trần ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân lúc bấy giờ. Phật giáo đi đến đâu được nhân dân ủng hộ đến đấy, chùa tháp tự viện mọc khắp nơi, khói hương nghi ngút bốn mùa, những cuộc thuyết pháp giảng đạo của các danh sư luôn chật ních người tham dự, nhiều thắng cảnh đẹp có sự hiện diện của chùa chiền, nhiều lễ hội dân gian gắn liền với Phật giáo. Đặc biệt, đạo Phật là nguồn cảm hứng vô tận để dân gian thêu dệt nên hàng loạt những truyện truyền kì, huyền thoại, truyền thuyết đậm màu sắc tín ngưỡng tâm linh; nhiều bài ca dao về đề tài đạo Phật cũng xuất hiện trong thời kì này…Nói như vậy để thấy được sức ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Phật đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Sức ảnh hưởng sâu sắc đến mức nó đã trở thành máu thịt và gắn liền với phong tục tập quán của dân tộc.

Trong thời Lí- Trần, nền mĩ thuật Việt Nam thấm đượm triết lí Phật giáo thiền tông (Chùa Một Cột, chùa Phật Tích, chùa Trăm Gian, tháp Báo Thiên, tháp Bình Sơn, tháp Linh Tế…) với biết bao hình tượng, phù điêu, hoa văn tinh xảo. Hàng loạt các công trình kiến trúc nổi tiếng của nước ta đều có liên quan hay gắn liền với nhà chùa, tiêu biểu là tứ đại khí. Nhiều pho tượng Phật là thành quả của những nghệ nhân dân gian với bàn tay khéo léo và bộ óc thẩm mĩ, cho đến nay vẫn còn được người đời sau trầm trồ khen ngợi và thán phục.

 Nhắc đến thời đại Lí- Trần, người ta thường nghĩ ngay đến thời đại oanh liệt mà nhân dân ta đã nhiều lần đánh tan quân giặc xâm lược, trong đó có quân Mông- Nguyên. Ngoài tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, nhân dân quyết tâm đoàn kết một lòng chiến đấu dưới sự lãnh đạo của tướng tài binh giỏi, thì hình bóng của các nhà sư, tinh thần nhập cuộc của đạo Phật cũng là một nguyên nhân quan trọng góp phần làm nên thắng lợi. Phật giáo Thiền tông đã trui rèn cho con người niềm tin vô biên vào sức mạnh to lớn và khả năng vô hạn của chính mình. “Bản lĩnh này là đỉnh cao của tinh thần nhân văn thời đại” [29, 11].

Có thể khẳng định rằng, Phật giáo thời kì này tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sự tác động đó diễn ra theo hướng tích cực, lợi ích cho quốc gia dân tộc. Càng về sau, Nho giáo càng chiếm vị thế cao trong triều đình, các nhà sư trở về với vị trí thật đúng của mình, ảnh hưởng của Phật giáo có ít nhiều giảm sút đối với đời sống xã hội, tuy nhiên, sự rung động và âm vang của nó trong lòng người dân Việt Nam là không hề thay đổi.

1.4. Nền văn học thời Lí-Trần:

Nền văn học thời Lí- Trần là nền văn học mới được xây dựng trên bối cảnh lịch sử, xã hội mới- xã hội phong kiến ViệtNamthời kì tự chủ X- XIV. Với nhiệm vụ tiên phong mở đường cho nền văn học thành văn Việt Nam, văn học Lí- Trần không chỉ tạo được một điểm khởi đầu vững chắc mà còn đưa văn học dân tộc tiến một bước dài trên con đường phát triển. Lẽ dĩ nhiên, văn học Lí-Trần cũng kế thừa những thành tựu của văn học truyền miệng trước đó, tiếp thu những gì có được của sách vở Trung Quốc trong thời kì Bắc thuộc, kết hợp với tư tưởng văn hóa dân tộc để tạo ra những áng văn bất hủ đậm không khí thời đại. Ra đời trong thời điểm kinh Phật du nhập ồ ạt vào nước ta, hơn nữa, khá đông những thi sĩ của thời đại này là những nhà sư, nhà vua, nhà quí tộc khá uyên thâm về giáo lí nhà Phật; nên điều đó có tác động không nhỏ đến nền văn học viết trong thời kì sơ khai này.

 Thời kì này ra đời hàng loạt những tác phẩm mang tính “văn- sử- triết bất phân”: Thiền uyển tập anh, Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục, Hương Hải thiền sư ngữ lục, Khóa hư lục, Tam tổ thực lục, Kế đăng lục, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái…Ngoài ra còn có hàng loạt sáng tác của nhiều tác giả khác. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đây chỉ là phần nhỏ nhoi còn biết đến trong số lượng đồ sộ 10 phần tác phẩm được sáng tác trong thời Lí- Trần.

Nguyễn Công Lý [11, 70-82] đã vạch ra một số đặc điểm cơ bản của nền văn học thời kì đầu này như sau:

“Một là, văn học Lí- Trần hình thành trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng có thể nói là nặng nề bởi nhiều yếu tố ngoại lai, đặc biệt là yếu tố Hán nhưng cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hóa”. Tác giả đã dẫn ra những phương diện văn học chịu sự ảnh hưởng Trung Quốc sau thời gian thống trị cả ngàn năm: ngôn ngữ văn tự, thi liệu văn liệu, điển cố điển tích, thể loại, tư tưởng học thuyết. Tuy nhiên, văn học Lí- Trần cũng đã cố gắng vận động và phát triển theo hướng dân tộc hóa: sáng tạo và sử dụng chữ Nôm trong sáng tác, sử dụng đề tài, thi liệu văn liệu của Việt Nam, nội dung phản ánh tâm tư tình cảm, cuộc sống, tinh thần của người  Việt Nam.

“Hai là, văn học Lí- Trần đã vận động và phát triển trên cơ sở ý thức dân tộc, kết hợp với cảm hứng thời đại, mở ra một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam”. Tác giả chỉ ra biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước trong văn học Lí- Trần là lí tưởng trung quân. Khi đất nước hòa bình thì con người có ý thức tự cường, tự tôn dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước hòa bình hạnh phúc, yêu giống nòi, non sông gấm vóc, nền văn hóa dân tộc. Khi Tổ quốc bị xâm lăng thì căm thù quân giặc, quyết chiến chống kẻ thù, bảo vệ chủ quyền dân tộc, biết ơn và ca ngợi những anh hùng xả thân vì nước. Bằng hàng loạt những tác phẩm của thời kì này như Thiên đô chiếu của Lí Thái tổ, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Cảm hoài của Đặng Dung…; tác giả đã minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước nồng nàn của toàn dân tộc.

“Ba là, văn học Lí- Trần đã hình thành những giá trị nhân bản, trong đó lòng nhân ái, nhân đạo trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn chương”. Tác giả nêu lên biểu hiện của giá trị nhân bản ở hai cấp độ: xây dựng, giải quyết mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, tự nhiên (vũ trụ quan) và mối quan hệ giữa con người với con người, với cuộc sống (nhân sinh quan). Lần đầu tiên, vị trí, chỗ đứng và giá trị của con người trong quan hệ với tự nhiên và xã hội được nhận thức khá hoàn chỉnh.

Văn học thời kì này “phát triển với một lực lượng sáng tác khá đông đảo, thể loại khá phong phú với gần như đa số các thể loại của văn học trung đại, nội dung văn học súc tích, đa giọng, đa sắc thái, thể hiện rõ bản sắc dân tộc, đậm tính nhân văn và giàu lòng yêu nước” [11, 271].

Cũng trong công trình trên, tác giả nêu lên những đặc điểm của văn học Phật giáo thời Lí- Trần. Đây là loại sáng tác với trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh, trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện giáo lí nhà Phật, thể hiện tính dung hợp giữa các hệ tư tưởng, cảm hứng về đất nước, thiên nhiên và quan niệm về con người, cuối cùng là những nét nghệ thuật đặc sắc.

2. Thơ thiền Lí- Trần:

     2.1. Khái niệm thơ thiền:

Thiền là thuật ngữ Phật giáo, thơ là thuật ngữ văn học nghệ thuật. Hai thuật ngữ tưởng chừng cách xa nhau về lĩnh vực ấy lại có một sự hòa điệu hết sức mạnh mẽ. Sự hòa điệu ấy bắt nguồn từ những điểm tương đồng của hai yếu tố này trên nhiều phương diện. Thứ nhất, thiền và thơ đều là những dạng biểu hiện của một hình thái ý thức xã hội nào đó, không nghiêng về lĩnh vực vật chất mà nghiêng mạnh về đời sống tinh thần. Thứ hai, cả thơ và thiền đều có sự hướng nội sâu sắc, có sự thể hiện nội tâm nhạy bén, đòi hỏi người lĩnh hội phải đạt được trạng thái tĩnh lặng, trầm tư, tập trung cao độ khi tiếp nhận. Thứ ba, cả hai đều cần đến một loại ngôn ngữ “ý tại ngôn ngoại”, không phải lúc nào cũng diễn đạt hết tất cả ý nghĩ tâm tình, thậm chí chủ trương không bày tỏ hết tất cả ý nghĩ tâm tình; mà luôn có những khoảng ẩn giấu cần thiết đề người khác khám phá, nhiều lúc đó là phần cốt lõi và quan trọng nhất mà người diễn đạt muốn nói tới. Vì vậy, thiền và thơ đều coi trọng sự diệu ngộ, phát hiện, chiêm nghiệm sâu sắc để rút ra chân lí cho riêng mình. Vì những lẽ đó, ta dễ dàng hiểu vì sao khi diễn đạt sự giác ngộ bản thể, phát biểu chân lí cuộc sống, quán chiếu các hiện tượng xảy ra xung quanh mình, các thiền sư thường hay dùng thơ kệ để diễn đạt, ngâm họa, xướng vịnh.

Trong bài thơ Vịnh núi Lô Sơn, Tô Thức thể hiện quan niệm về quan hệ giữa thơ và thiền: “Thiền đạo với thi ca là đồng hay khác, chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi; hãy quên đi những sự phân biệt ta và người, cuối cùng, anh với tôi hãy mở cánh cửa bắc, ngẩng đầu nhìn lên ba mươi sáu ngọn núi xanh”. Như vậy, theo Tô Thức, thơ và thiền khác và giống như thế nào không quan trọng, và không nên phân biệt làm chi, điều cốt yếu là hãy tìm xem chất thơ của thiền và thấy thiền thể hiện ở trong thơ như thế nào.

Tác giả Đàm Chiêu Văn ở Trung Quốc nhận xét: “Giá trị chủ yếu của thơ thiền là ở phương diện văn hóa, triết học” [dẫn theo 25, 169]. Nhận định trên là đúng, tuy nhiên, sẽ chưa đủ nếu chúng ta phủ nhận đi giá trị văn học của thơ thiền. Trần Đình Sử cũng trong công trình trên nêu lên những tính chất của thơ thiền: “Thơ thiền, xét như một loại thơ, nó phải có ba tính chất : một là truyền đạt được cách cảm nhận thế giới của thiền học, sự nhận thức về huyễn ảo và chân như, có thế nó mới là thiền. Hai là bộc lộ được vẻ đẹp vủa thế giới và tâm hồn, như thế nó mới là thơ. Những tác phẩm nặng về tính chất một thì ít chất thơ. Những tác phẩm nặng về tính chất thứ hai làm thành nét độc đáo của thơ thiền. Thứ ba, thơ thiền là thơ của tầng lớp tăng lữ cấp cao, tầng lớp trí thức đặc biệt, không giống với tình cảm Phật giáo dân gian” [19, 170].

Trong dòng văn học Phật giáo ViệtNamthời Lí- Trần, thơ thiền là một luồng chảy độc đáo nhất và mạnh mẽ nhất. Mạnh mẽ như thế nào thì chúng ta có thể hình dung được dựa vào số lượng tác giả tham gia sáng tác và tác phẩm được sáng tác trong thời kì này, cộng với những nội dung sâu sắc mà nó truyền đạt. Còn độc đáo nhất thì có lẽ ở chỗ lần đầu tiên trong văn học Việt Nam có sự hòa nhập cao độ đến mức gần như tuyệt đối như vậy giữa thơ ca và triết học tôn giáo. Chúng ta thật khó xác định rằng, thơ thiền là loại kinh kệ phục vụ trong nhà chùa, trong giới tu hành hay đây là những tác phẩm mang đầy đủ những đặc trưng của sáng tác văn học. Có lẽ hiểu ở khía cạnh nào cũng đúng, nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng đây là một hiện tượng độc đáo khó có thể lặp lại trong lịch sử văn học dân tộc.

Vậy thơ thiền là gì? “Thơ thiền là loại thơ đúc kết sự giác ngộ chân lí Phật giáo hay những tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của nhà sư về cuộc sống tu hành. Nó có thể do các nhà sư, cũng có thể do những người không đi tu làm ra, nhưng mang tư tưởng thiền. Hình thức phổ biến của nó là những bài thơ bốn hay tám câu, mỗi câu thường có bốn, năm hoặc bảy chữ. Nhưng cũng có những bài thơ thiền có số câu dài ngắn khác nhau. Ban đầu thơ thiền là những bài kệ bốn câu (tứ cú kệ), một loại văn bản rất quan trọng của nhà chùa, được các nhà sư viết ra để ghi lại sự “bùng vỡ giác ngộ thế giới tâm Phật” trước lúc nhập diệt, viên tịch nhằm phó chúc hay truyền đạo cho đệ tử. Vì thế nó rất được trân trọng, nhiều khi được đặt cùng với kinh Phật. Kệ thiền với kinh Phật là hai loại văn bản truyền đạo quan trọng của nhà chùa” [27].

“Thơ thiền là thơ của các nhà sư, các cư sĩ làm để biểu hiện thiền lí, thiền cảnh, thiền thú, thiền tâm. Hứng thú của thơ thiền là chiêm nghiệm sự diệu ngộ – Thơ thiền phải nói được cái lẽ không vô của cuộc đời, khẳng định thế giới siêu thoát của chân như, tâm thường trụ mới được gọi là thơ thiền” [19, 196].

    2.2. Đặc điểm thơ thiền Lí-Trần:

Thơ thiền là một bộ phận chiếm số lượng không nhỏ và vị trí vô cùng quan trọng trong toàn bộ những sáng tác thành văn của thời kì này, là minh chứng thuyết phục nhất cho một dòng văn học Phật giáo mang tính chất hoàn toàn Việt Nam đang được khơi nguồn và tuôn chảy.

Lực lượng tham gia sáng tác là các Thiền sư xuất gia tu hành, hay đó là các cư sĩ tại gia, vua chúa, quan lại, quí tộc trong cung đình tôn sùng Phật giáo và am hiểu triết lí thiền, nhìn thế giới bằng cái nhìn đầy chất Thiền. Những sáng tác của họ hoặc thuần túy thuyết giảng giáo lí nhà Phật, hoặc ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng và cảm quan Phật giáo. Trong các tác phẩm của mình, họ thể hiện cái nhìn thế giới và con người một cách khoáng đạt và siêu thoát, thế nhưng vẫn mang đậm một tinh thần nhập thế mạnh mẽ, tích cực. Nếu Phật giáo chủ trương xuất thế, thoát tục để cầu đạo thì các thiền gia thời Lí- Trần lại tích cực nhập thế, không phủ định thực tại, tất nhiên cũng phải thừa nhận rằng mức độ nhập thế của các thiền gia có giảm dần theo sự diễn biến của thời gian do vị thế ngày càng lên cao của Nho giáo. Nếu Thiền tông chủ trương “bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm” thì các thiền gia thời này lại sáng tác thơ ca, kệ cú để giáo huấn đệ tử, chiêm nghiệm triết lí tu hành. Nếu đạo Phật chủ trương trở về với tự tâm, diệt bỏ lục căn lục trần thì các nhà sư khi trở về với tự nhiên lại thích ca ngợi cảnh đẹp núi rừng, hoa cỏ, thậm chí có bài miêu tả thiếu nữ xinh đẹp ngồi vá áo…Tư tưởng phóng khoáng đó của các thiền sư cộng với những ảnh hưởng của triết học Lão- Trang đã trở thành những chiếc dùi trống làm cho thơ thiền thời kì này vang ra không biết bao nhiêu thanh âm trong trẻo, tươi mới đến lạ lùng, và lẽ dĩ nhiên, sự tươi mới này được rút ra khi đối chiếu với thơ thiền của các nước khác. Chính vì lẽ đó, nhiều học giả cho rằng không ít bài thơ nếu thay đổi tựa đề hoặc tên tác giả thì người đọc sẽ ngộ nhận đó là những bài thơ vịnh cảnh thông thường. Thế nên, càng về sau, thơ thiền cũng đậm chất trữ tình và đậm dấu ấn bản ngã hơn. Đây là đặc trưng quan trọng của thơ thiền Lí- Trần so với thơ thiền Đường- Tống của Trung Quốc hay thơ thiền Nhật Bản.

Thơ thiền thời kì này nhìn chung thể hiện thái độ tích cực, lạc quan trước cuộc sống. Các thiền gia thể hiện mình như là một kẻ “vô úy”, không sợ hãi bi quan trước bước đi của thời gian tạo hóa mà tỏ ra bình thản lạc quan trước mọi biến đổi của tự nhiên, lẽ vô thường của vạn vật. Có lần họ thể hiện bản ngã trong thơ nhưng nhìn chung họ là những con người vô ngã, phá chấp triệt để, vượt lên trên những vướng mắc, những ràng buộc khắt khe của giới luật và kinh điển. Đôi lúc họ sống vô ý, tùy duyên, quên đi mọi hiện tượng xung quanh để sống trong mối hòa nhập vô cùng vô biên với bản thể và vũ trụ. Nhưng dù cho có vô tình hay cố ý thể hiện cái bản ngã đến đâu đi chăng nữa thì thơ thiền cũng hướng tới cái đích chung là cái lí trí, quan niệm thiền, triết lí thiền…Nhìn chung, hình tượng con người trong thơ thiền là con người vũ trụ, tin tưởng vào tự lực và khả năng sáng tạo độc lập của riêng mình.

Thơ thiền có tính trực giác. Do đặc điểm giải ngộ chân lí thiền, nhưng vì khó có thể diễn đạt một cách trực tiếp để người khác hiểu nên nhà thơ- thiền sư phải thông qua những hình ảnh bộc phát, bất ngờ lóe lên mà mình nắm bắt được trong cuộc sống thực tế thiên hình vạn trạng để nêu lên quan niệm của mình. Tuy nhiên, do triết lí thiền thì hữu hạn trong khi cái dùng để tượng trưng thì vô hạn nên sự lí giải triết lí thiền không bền vững, nhất quán mà luôn nhiều màu nhiều vẻ. Đó là chưa kể với các nhà sư khác nhau, sự ngộ giải khác nhau, vốn hiểu biết khác nhau và cách thể hiện khác nhau thì việc diễn đạt là vô cùng phong phú. Do đó, không có một chiếc chìa khóa chung để giải mã thơ thiền mà cần phải có sự trải nghiệm, nhưng cũng cần hiểu rằng cùng một triết lí thì cách lí giải thường ít nhiều có một sự tương đồng nào đó. Nói như vậy để thấy rõ tầm quan trọng của trực giác trong việc lãnh hội yếu chỉ thiền học và trong việc tiếp nhận thơ thiền. Như vậy, mục đích của thơ thiền là ghi lại sự giác ngộ thiền lí, nhưng không phải bao giờ nó cũng phát ngôn trực tiếp cho tư tưởng thiền mà thường mượn hình ảnh của thế giới vật chất để thể hiện. Vì thế nhiều bài thơ thiền rất sinh động, giàu hình ảnh, âm thanh, đường nét, màu sắc.

Tóm lại, đặc điểm quan trọng nhất của thơ thiền là thể hiện cảm xúc thiền, triết lí thiền thông qua việc tác giả phát biểu, ngộ giải, bàn luận về mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Muốn biết một bài thơ có phải là thơ thiền hay không cần phải xem kĩ bài thơ ấy có thể hiện cảm xúc thiền và triết lí thiền hay không. Nói cách khác, tiêu chí để phân biệt thơ thiền và các loại thơ khác là đặc điểm có hay không thể hiện thiền ý. Có bài thơ cùng một lúc thể hiện nhiều triết lí thiền, có bài chỉ thể hiện một triết lí thiền, cũng có bài mang hơi hướng thiền nhưng không xác định rõ thể hiện triết lí gì của Thiền tông. Tuy nhiên, việc xác định chất thiền trong thơ quả không phải là một điều dễ dàng nếu ta không có sự am hiểu thiền học và một trực giác nhạy cảm để nhận ra triết lí thiền. Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho thơ thiền nhiều lúc khó tiếp nhận.

  2.3. Nội dung và nghệ thuật của thơ thiền Lí-Trần:

Đoàn Thị Thu Vân [13] xét từ góc độ chức năng đã chia thơ thiền làm hai loại: Loại là thơ đích thực và loại là những bài kệ Phật giáo nhưng đậm chất thơ. Ở loại thứ nhất, thiền gia chủ ý làm thơ để bày tỏ tâm sự, tình cảm, suy nghĩ của mình về cuộc đời, triết lí thiền để ngâm vịnh khuây khỏa. Còn ở loại thứ hai, nhà sư viết ra để giáo huấn đệ tử, cho đệ tử đọc tụng, ghi tâm khắc cốt trên con đường tu chứng. Nhưng do thiền sư phản ánh cuộc sống đầy hình ảnh, âm thanh, màu sắc nên nó nhích gần lại với thơ hơn là kinh điển nhà chùa.

Là bộ phận văn học mang tính triết học- tôn giáo, lẽ dĩ nhiên, nội dung đầu tiên của thơ thiền là tập trung giải thích, truyền dạy một số nội dung giáo lí cơ bản, trình bày, diễn giải sở đắc và tuyên truyền đạo Phật. Nhiều bài thơ bàn về lẽ sinh- tử, hữu- vô, sắc- tướng, thân- tâm…như những kinh nghiệm mà nhà sư chứng đắc được để truyền lưu lại cho đệ tử, tăng chúng và hậu thế. Có khi đó là một bài văn vần tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp, một bài kinh để răn dạy đệ tử. Thể hiện quan niệm về bản thể, con đường tu chứng và giải thoát.

Trong Thơ thiền Lí Trần [29], Đoàn Thị Thu Vân cũng nêu lên một số nội dung cơ bản của thơ thiền: “Các tác phẩm thường thể hiện một thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo…Trực tiếp hoặc gián tiếp thuyết giảng về yếu chỉ Thiền tông. Bày tỏ cảm xúc mang ý vị thiền trước cái đẹp của thiên nhiên, con người và cuộc sống; hoặc bày tỏ trạng thái tâm tư đã giác ngộ chân lí, miêu tả cái đẹp vi diệu của thế giới bên trong con người”.

Giáo sư Đặng Thai Mai trong cuốn Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học [12] đã nhận xét về nghệ thuật của thơ thiền Lí- Trần  như sau: “Lời thơ không quá cầu kì uyên bác, không tô đậm đến cường điệu. Lời thơ hết sức giản dị, nhẹ nhàng mà ý nhị. Nhà thơ không hề bị trói buộc bởi sự mê tín trước vấn đề qui luật, không tìm cách múa bút hoa hòe. Đây là lời thơ của một tâm trạng cân đối, hài hòa mà thanh cao”.

Còn Đoàn Thị Thu Vân trong công trình nghiên cứu đã dẫn trên cũng nhận xét về đặc điểm nghệ thuật của thơ thiền: “Ngôn ngữ thơ thiền Lí- Trần trước hết mang nét chung của nghệ thuật trung đại phương Đông mà một trong những đặc trưng cơ bản là tính hàm súc. Tính chất này qui định theo nó những biện pháp nghệ thuật tương hợp là tượng trưng, ẩn dụ và điển cố…Nếu tính hàm súc của thơ thiền toát lên qua những từ ngữ, cách diễn đạt đặc thù thì tính gợi mở của nó không chỉ nhờ vào những yếu tố này mà còn qua các kiểu câu được lựa chọn theo tiêu chí kích thích sự hoạt động của tâm trí cao nhất…Tăng thêm tần số xuất hiện của những từ ngữ về sự vật, sự việc, sinh hoạt đời sống hằng ngày trong thơ…Mượn thuật ngữ, cách diễn đạt, điển cố của Nho, Lão để diễn đạt chân lí của mình…”. Tác giả cũng đã vạch ra ngoài nghệ thuật độc đáo về sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt còn có nghệ thuật xây dựng hình tượng sống động, tạo không gian và thời gian có tính biểu trưng, mang nghĩa.

Thơ thiền Lí- Trần là một sản phẩm vừa kết tinh tính trí tuệ của Phật giáo, vừa kết tinh tính thẩm mĩ của nghệ thuật thơ ca. “Nó mới lạ và thu hút nhờ xây dựng trên cái nền cơ bản là sự trực cảm tâm linh vượt khỏi tầng không gian của suy luận và nhận thức lí trí” [29, 22]. Thơ thiền thu hút bao thế hệ người đọc và được các học giả ngày nay đặc biệt quan tâm cũng là điều dễ hiểu. Bởi không chỉ nó chứa đựng bên trong biết bao trí tuệ của thời đại, tinh thần dân tộc và nét đẹp của cuộc sống tu hành; mà nó còn được xây dựng bởi một hệ thống phương tiện nghệ thuật hết sức đặc trưng và độc đáo. Thế nhưng, chúng ta không thể phủ nhận ý kiến cho rằng, thơ thiền Lí- Trần rất kén chọn người thưởng thức.

Chương II : Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần

Gần như trong hầu hết sáng tác của nhà văn nhà thơ đều có dấu ấn của không gian. Nói cách khác, người sáng tác văn học luôn có ý thức thể hiện không gian trong tác phẩm của mình. Nói là có ý thức bởi lẽ họ thể hiện không gian không phải chỉ để miêu tả lại vị trí, nơi chốn tồn tại của mình một cách đơn thuần; mà thông qua không gian đó, tác giả thể hiện quan niệm, cách suy nghĩ của riêng mình. Không gian như vậy là không gian mang tính nội dung, được lặp đi lặp lại nhiều lần theo chủ ý của nhà văn nhà thơ trong một sáng tác, một nhóm sáng tác hay trong toàn bộ sự nghiệp, có khi ở một trào lưu, một thời kì của lịch sử văn học…Và khi ấy, việc nghiên cứu không gian sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc giải mã tâm tư tình cảm, quan niệm, suy nghĩ của tác giả, phát hiện chân lí cuộc sống. Lúc này, không gian trong tác phẩm văn học đã trở thành không gian nghệ thuật- một lĩnh vực quan trọng mà người nghiên cứu thi pháp cần tìm hiểu.

1. Thi pháp không gian nghệ thuật:

Thi pháp học là ngành nghiên cứu văn học có lịch sử hình thành từ rất lâu đời, tuy nhiên nó thực sự được giới nghiên cứu văn học xem như là một ngành khoa học hẳn hoi với hệ thống lí luận khá hoàn chỉnh và được tập trung nghiên cứu với những thành tựu quan trọng từ đầu thế kỉ XX đến nay. Ở Việt Nam, nhiều tác giả nghiên cứu về thi pháp như Trần Đình Sử, Phương Lựu, Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Thị Bích Hải, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Xuân Kính…đã cho ra đời những công trình liên quan đến thi pháp và thi pháp học. Dù các nhà nghiên cứu có nhiều cách phát biểu khác nhau và có phần chưa thống nhất về nhiều vấn đề xoay quanh thi pháp và thi pháp học, nhưng tựu lại vẫn gặp gỡ nhau ở các điểm chung. Một là, xem thi pháp học là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu văn học, bên cạnh lí luận văn học, phê bình văn học và lịch sử văn học. Hai là, xem thi pháp học là ngành khoa học chuyên nghiên cứu hệ thống thi pháp của một tác phẩm văn học, do đó, thi pháp học lấy những hình thức mang tính nội dung như: thi pháp nhân vật, không gian, thời gian, kết cấu, chi tiết, cốt truyện…làm đối tượng nghiên cứu. Thứ ba, nghiên cứu thi pháp là nghiên cứu các qui luật, qui tắc xây dựng hình thức của sáng tác nghệ thuật; và từ việc nghiên cứu đó, chúng ta sẽ cảm thụ tác phẩm văn học một cách đầy đủ và khoa học hơn. 

 1.1. Khái niệm thi pháp không gian nghệ thuật:

Trong hệ thống thi pháp, không gian nghệ thuật là một bộ phận quan trọng. Các nhà văn nhà thơ trong sáng tác của mình luôn chú trọng xây dựng, miêu tả hình tượng không gian. Từ đó, thể hiện cách nhìn đầy chất chủ quan về thế giới xung quanh, cảm xúc của bản thân khi đối diện hay trải qua đời sống trong không gian đó. Về vai trò của thi pháp không gian nghệ thuật, trong cuốn Thi pháp thơ Đường, Nguyễn Thị Bích Hải phát biểu: “ Không gian nghệ thuật là một phương diện quan trọng của thi pháp. Nó là phương tiện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật của mình (tác phẩm). Nó cũng là cánh cửa để qua đó người đọc hiểu hình tượng và tư tưởng được tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm” [3, 26].

Trần Đình Sử trong công trình Một số vấn đề thi pháp học hiện đại [22] phát biểu khái niệm về không gian nghệ thuật như sau: “Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn…Do gắn với điểm nhìn, trường nhìn, môi trường hoạt động, không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, đồng thời do gắn với ý nghĩa, giá trị, không gian trở thành ngôn ngữ, biểu trưng nghệ thuật”[22, 42-43]. Tác giả cũng giải thích rõ hơn về không gian nghệ thuật: “Là một hiện tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật là một hiện tượng ngoại lệ, mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng. Không gian trong văn học được biểu hiện bằng không gian điểm mang tính chất ước lệ, tượng trưng (đỉnh Ôlimpơ, Tây trúc, Thiên đình, làng quê, bến sông, tha hương, ngoài vườn…), hoặc các từ chỉ không gian vốn đã mã hóa sẵn về ý nghĩa trong đời sống (trên cao, dưới thấp, quanh co, rộng hẹp, ngắn dài…), không gian nghệ thuật thể hiện tập trung vào cái nhìn, điểm nhìn, điểm quan sát không gian và thời gian” [22, 44].

Tự điển thuật ngữ văn học cũng giải thích về không gian nghệ thuật: “Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng… Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của bức tranh thế giới như: thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự…Không gian nghệ thuật không chỉ cho thấy nội dung mà còn thể hiện quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay cả một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình các hiện tượng nghệ thuật” [4].

Giữa không gian nghệ thuật và thể loại tác phẩm có mối quan hệ khá chặt chẽ. Không gian nghệ thuật nhiều khi phản ánh đặc trưng thể loại của một tác phẩm văn chương. Nói cách khác, ở những loại thể khác nhau, việc phản ánh không gian và quan niệm về không gian của tác giả cũng khác nhau. Nếu không gian trong tác phẩm tự sự thường là không gian sinh hoạt, không gian cuộc sống đời thường, đó là nơi phố thị, hoặc chốn làng quê có nhiều người, nhiều nhà cửa, có công việc làm ăn sinh sống, có nhiều mối quan hệ giữa người với người ở nhiều địa điểm…; thì không gian trong tác phẩm trữ tình thường nghiêng về không gian vũ trụ, không gian tinh thần, ở đó thường có đất trời mênh mông thoáng đãng, thiên nhiên đầy sức sống, cô đơn lặng lẽ ít có hình bóng con người, hay đó là nơi mà nhân vật trữ tình đối diện với chính mình, bộc lộ suy nghĩ tình cảm thái độ của mình trước cuộc sống…

Giáo trình thi pháp học- Đại học Huế đã nêu lên một số đặc điểm của không gian nghệ thuật: “Nó (không gian trong tác phẩm nghệ thuật) không đơn giản là không gian vật chất, không phải là một hiện tượng cơ giới máy móc mà chủ yếu là sự tái hiện lại không gian tinh thần. Không gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh. Do vậy, ngoài ba chiều thông thường, không gian này còn có chiều thứ tư: chiều tâm tưởng- không gian của cảm xúc, của ước vọng” [26, 30-31]. Nghiên cứu về không gian nghệ thuật, sẽ thật thiếu sót nếu chỉ nghiên cứu về không gian hiện thực, không gian vật lí được tác giả miêu tả trong tác phẩm mà quên đi không gian trong thế giới tâm tưởng của con người. Thậm chí đây là lớp không gian quan trọng nhất mà người cảm thụ văn học cần chiếm lĩnh, không gian hiện thực chỉ là cái cớ để tác giả nêu lên quan điểm của mình: “Không gian nghệ thuật trong thơ không chỉ gắn liền với ý thức về không gian tồn tại của con người mà còn gắn liền với cách chiêm nghiệm, thưởng thức không gian, cách ứng xử trong mô hình không gian” [16, 20]. Đối với thơ thiền Lí- Trần, vấn đề này càng phải được chú trọng đặc biệt. Bởi lẽ, không gian trong cảm thức của người tu thiền không phải là thứ không gian thuần nhất mà ngược lại, không gian đó mang đầy quan niệm của con người và được phản ánh không đồng nhất trong quá trình tu chứng của thiền gia. Đó là điều đặc biệt của thơ thiền mà những loại thơ khác không có được.

Tóm lại, dù có nhiều cách định nghĩa và quan niệm về không gian, chúng ta vẫn thấy một số điểm chung nhất định: Không gian cũng là một dạng hình tượng văn học, tác giả xây dựng không gian theo quan niệm và ý đồ riêng của mình, không gian đó được thể hiện lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành một thói quen trong cách cảm nhận thế giới của mỗi nhà văn nhà thơ, mỗi tác phẩm. Nghiên cứu không gian nghệ thuật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải mã nội dung tác phẩm văn học. Mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu không gian nghệ thuật là tìm hiểu được tư duy, quan niệm của tác giả về không gian đó, từ đó mở rộng ra phạm vi toàn xã hội, toàn bộ cuộc sống. Vì thế, ngoài việc khám phá không gian vật lí của thế giới hiện thực cần chú trọng khám phá không gian tâm tưởng, tâm trạng của người sáng tác.

      1.2. Một số quan niệm về không gian  

  1.2.1. Quan niệm về không gian của người phương Đông:

Tìm hiểu quan niệm về không gian của người phương Đông, trong đó có ViệtNam, trước khi tìm hiểu về không gian trong triết lí Thiền tông là việc làm có ý nghĩa. Bởi lẽ, Thiền tông ra đời và phát triển mạnh mẽ ở phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc trong thời điểm các học thuyết triết học khác đã có rồi và chi phối mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Phật giáo Thiền tông đươc du nhập ở thời điểm này không thể không chịu ảnh hưởng tư tưởng của các học thuyết khác. Hơn nữa, từ việc làm này có thể thấy được mối quan hệ, điểm giống và khác nhau trong quan niệm về không gian của các học thuyết, làm cơ sở lí luận vững chắc để soi sáng vấn đề.

 Xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp, với tập quán sản xuất lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đời sống gắn bó mật thiết với không gian tự nhiên xung quanh; từ đó, người phương Đông dần dần đã đúc kết và hình thành thế giới quan, vũ trụ quan mang đậm tính triết học.

Dịch học cho rằng vạn vật của thế giới có điểm khởi nguyên là Thái cực. Với đặc tính vô tận, vô định, vô thủy, vô chung, mông lung thuần khiết…Thái cực đã sinh ra hai khí căn bản của vũ trụ là âm và dương. Hai nguyên lực này bổ sung, xô đẩy và tác động lẫn nhau sản sinh ra vạn vật. Như vậy, vạn vật trong thế giới theo quan niệm của Dịch học đều có cùng nguồn gốc, chúng luôn sinh hóa và tác động hài hòa trở lại với nhau, mọi sự vật trong không gian có mối liên hệ chặt chẽ bởi một sợi dây vô hình. Trong thế giới đó, con người là một bộ phận.

Khổng Tử với quan niệm “thiên nhân hợp nhất” (hay “thiên nhân tương dữ”, “thiên nhân cảm ứng”): theo Khổng Tử, trời và người có tác động tương hỗ với nhau, mọi  hiện tượng tự nhiên đều có ảnh hưởng đến đạo đức con người và đạo đức của con người cũng tác động đến việc phát sinh ra các hiện tượng tự nhiên như: nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, hạn hán, động đất, bệnh dịch… Để phát biểu cho quan niệm đó của mình, ông nói: “Đứng đắn thì mưa phải thời, an ổn thì nắng phải thời, sáng suốt thì ấm phải thời, mưu trí thì lạnh phải thời, thánh minh thì gió phải thời” (thiên Hưu Trưng) và ở thiên Hồng Phạm của Kinh thư, ông nói thêm “Ngông cuồng thì mưa luôn, tiếm loạn thì nắng luôn, uể oải thì ấm luôn, nóng nảy thì lạnh luôn, u mê thì gió luôn”[7]. Vì thế, giữa con người với vũ trụ, tự nhiên có sự gắn bó hòa đồng, có mối quan hệ tương giao.

“Từ xa xưa, từ Lão Tử, Trang Tử, người ta đã xem vũ trụ như căn bản tồn tại của cá thể, là nơi quy về cuối cùng của mỗi đời người, cho nên người Trung Quốc ở trong không gian vũ trụ thấy thân thuộc như trong lòng mẹ” [16, 20]. Trong triết học Lão Tử, Đạo là phạm trù quan trọng nhất. “Đạo là cái có trước vạn vật, có trước hiện tượng đầu tiên: Đạo sinh ra khí thống nhất, khí thống nhất sinh ra hai thứ âm dương, hai khí âm dương đối lập sinh ra ba lực lượng “trời đất người”, ba lực lượng đó sinh ra vạn vật”[30, 53]. Như vậy, theo Lão Tử, vạn vật trong thế giới hiện tượng có chung một nguồn gốc. Không gian không tồn tại độc lập, bó hẹp trong một phạm vi nhỏ mà luôn giao hòa, tương tác với vũ trụ đất trời và con người là một bộ phận không tách rời của không gian ấy.

Đạo Phật quan niệm vạn vật sinh ra do hội đủ các “duyên”, không có sự vật gì tự nó sinh ra và cũng không tự nó mất đi, mà những hiện tượng đó do nhiều nguyên nhân tác động đến. “Bản chất của sự vật, của thế giới là một dòng biến chuyển liên tục, vô thường theo chu trình “sinh- trụ- dị- diệt”, tức “thành- trụ- hoại- không” theo luật nhân quả ấy” [30, 53]. Như vậy, đạo Phật không giải thích nguồn gốc của thế giới mà xem vạn vật, trong đó có con người đều thuộc về thế giới sắc tướng.

Việt Nam là một trong những dân tộc ở phương Đông, sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp làm lúa nước, phụ thuộc thiên nhiên khá nặng nề nên cũng hình thành những quan niệm về thế giới: thế giới hữu thần, tín ngưỡng phồn thực, vạn vật hữu linh…Từ đó, trời đất, vật người, vạn vật trong thế giới hợp chung làm một.

Như vậy, nhìn chung, triết học phương Đông dù không gặp nhau về quan điểm, khái niệm, cách lí giải về thế giới nhưng giữa chúng có một sự tương đồng rất lớn. Các học thuyết đều cho rằng thế giới này là thống nhất và con người là một phần tử trong đó như vạn vật. Giữa con người và thế giới vạn vật có mối quan hệ liên thông, tác động và giao hòa lẫn nhau. Không gian tồn tại xung quanh con người là một bộ phận của thế giới, không thể tách rời ra khỏi tự nhiên vạn vật. Nó tồn tại, vận hành và biến đổi theo qui luật riêng của nó, nhưng luôn nằm trong mối quan hệ với vũ trụ, con người. Không gian không phải là một thế giới tự nhiên vô tình, khách thể mà luôn giao hòa cảm ứng với con người.

   1.2.2. Quan niệm về không gian của Phật giáo Thiền tông:

Cũng có ít nhiều sự tương đồng với thế giới quan của người phương Đông, đặc biệt, cũng là một bộ phận trong hệ thống triết học phương Đông, Phật giáo Thiền tông quan niệm “vạn vật nhất thể”, nghĩa là tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều có cùng một bản thể. Thuyết này đã hòa đồng con người vào giới tự nhiên “hư không tịch diệt”, con người và thế giới tự nhiên vốn “bất nhị”, không hai. Như vậy thì cần gì tìm kiếm tự nhiên hay vạn vật vì tất cả có đủ trong ta rồi. Điều cốt yếu là phải tự giác ngộ tự tánh, bản thể.

Từ cái “một bản thể” ấy biến hóa ra muôn vàn hiện tượng. Đối với Thiền tông, quan trọng nhất là thấu rõ mọi hiện tượng bằng chánh kiến của mình để nhìn thấy bản thể, không vướng vào chấp chước cái hiện hữu cụ thể. Do đó, người tu thiền phải giác ngộ lẽ vô thường của vạn vật, cởi bỏ mọi sự mê lầm của giác quan và ý thức, hòa cái tâm “tiểu ngã” của mình vào cái “đại ngã” chung của vũ trụ…Có như vậy, trong cái khoảnh khắc sống của nhà sư mới có cái vĩnh cửu tự tánh “trong một giọt nước có ba ngàn thế giới”.

Phật giáo Thiền tông chủ trương không rơi vào siêu hình, mê tín mà chú trọng “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” (chỉ thẳng vào tâm người, thấy tánh rồi thành Phật). Như vậy, Phật ở đây theo quan niệm của Thiền tông không phải là một đấng siêu nhiên, toàn năng toàn giác, có quyền ban thưởng hay trừng phạt ai; mà Phật có mang ý nghĩa chỉ sự giác ngộ tâm thể của mỗi người. “Thiền chỉ chú trọng cái tâm chứ không có lễ nghi phiền phức, và ai tu thiền cũng đều làm việc đời đầy đủ mà không hề chấp ngã nên lại là một con người tuyệt vời đẹp về đạo lí và về thẩm mĩ” [30, 132]. “Có được điều này là nhờ sự gặp gỡ giữa chất phóng khoáng, dân chủ, cởi mở, phá chấp của Phật với chất phiêu diêu, phóng nhiệm của Lão- Trang với đức tính dung dị, mềm dẻo, linh hoạt, sống phụ thuộc vào thiên nhiên của người Việt. Nền văn học Lí-Trần đem lại cho người đọc nhiều tác phẩm thể hiện sự gắn bó tương giao ấy, tạo nên những hình ảnh con người vũ trụ thật đẹp” [11, 80].

 Như vậy, Phật giáo Thiền tông xem không gian với con người cùng chung một bản thể, cũng lặng lẽ hư vô và thanh tịnh như chính bản thân tâm thể con người. Sống trong không gian đó, sẽ rất cực đoan nếu con người quá tuyệt đối hóa vai trò của không gian, càng cực đoan hơn nếu con người phủ nhận sự tồn tại của không gian, mặc dù không gian là một dạng biểu hiện của thế giới “sắc tướng”. Như vậy, sống trọn vẹn trong không gian cũng như sống trong sự giác ngộ tâm thể của bản thân mình được xem là cách sống mà những thiền gia lựa chọn. Không gian không ở bên ngoài cũng không ở bên trong thiền gia, không phải là “tha” cũng không phải là “ngã”. Đó là một cách nhìn không vướng mắc câu chấp, nhị nguyên. Thiền gia sống lặng lẽ, hòa nhập với thiên nhiên với tinh thần vô niệm tuyệt đối. Họ sống hết mình với những gì thiên nhiên đang có mà hình như không bao giờ đánh giá hay bàn luận về thiên nhiên. Có thể xem, đó là cách sống và thái độ sống phổ biến của thiền gia trong đời sống tu hành của mình, dù họ đang xuất thế hay nhập thế, sống ở lầu son gác tía hay ẩn cư chốn thâm sơn cùng cốc.

Trên đây, người viết đã giới thiệu một cách sơ lược nhất những vấn đề xung quanh khái niệm không gian, từ đó có cái nhìn tổng quát và vững chắc khi nghiên cứu vấn đề.

2. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần:

Là sáng tác của các thiền sư hay cư sĩ hâm mộ thiền, lúc nào cũng cuốn theo thơ thiền là một thế giới hình tượng nghệ thuật hết sức bóng bẩy và đầy sức thu hút. Dù viết về vấn đề gì và với cảm hứng nào, chất thiền luôn ngấm sâu vào từng sự vật hiện tượng để từ đó toát lên ý vị thiền kín đáo. Lí thuyết lí luận văn học phát biểu “thể hiện hết ý không có gì bằng hình tượng”, và đối với thơ thiền lí thuyết đó lại càng tỏ ra đúng đắn. Nhất là khi không thể trực tiếp diễn đạt kinh nghiệm thiền bằng lời nói hay văn tự, thì hình tượng nghệ thuật là phương tiện hữu hiệu chuyên chở cảm xúc thiền và thể hiện thiền ý của các tác giả. Không gian nghệ thuật là một bộ phận thường được vận dụng nhất trong thế giới hình tượng đó.

Khi xây dựng không gian nghệ thuật, cho dù các thiền gia viết về không gian nào, tiếp tục mở ra một lần nữa trong nó thế giới sự vật hiện tượng gì đi chăng nữa thì không gian trong thơ thiền lúc nào cũng thấm đượm cảm xúc thiền, ý vị thiền. Nghĩa là, “con mắt thiền” luôn chi phối các thiền gia trong quá trình xây dựng không gian nghệ thuật. Hơn nữa, không gian nghệ thuật trong thơ thiền không phải là thứ không gian thuần nhất, nó được phản ánh phụ thuộc vào độ chín muồi của quả giác ngộ. Nói một cách dễ hiểu hơn, cùng một không gian nhưng khi chưa tu hành, khi tu nhưng chưa giác ngộ và khi đã giác ngộ rồi thì cách nhìn, cách phản ánh của con người cũng không giống nhau. Do đó, để phân loại không gian nghệ thuật, chúng tôi phải cùng một lúc căn cứ vào cảm xúc thiền của các thiền gia và vào đối tượng không gian được phản ánh trong thơ thiền Lí- Trần. Không gian này hầu hết là không gian của thế giới khách quan, trong đó hiện lên hàng loạt các sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên và đời sống của con người. Thế nhưng ở góc độ này chúng tôi thấy không gian được cảm nhận trực tiếp qua các giác quan thông thường của con người, tác giả chỉ phản ánh lại bằng cảm xúc thiền của mình. Người không tu thiền cũng có thể tái hiện và gợi tả được không gian này, chỉ có điều nó không chứa ý vị thiền như các thiền gia. Ở một góc nhìn khác chúng tôi nhận thấy không gian được soi rọi, phản ánh từ cái nhìn của bản thể tự tánh mà chỉ có những người giác ngộ Phật lí mới cảm nhận được, người không am hiểu hoặc ít am hiểu Thiền học khó mà lí giải được nó. Đây là điểm cơ bản, mấu chốt để phân biệt không gian nghệ thuật trong thơ Thiền với thơ mang cảm hứng Nho và Đạo.

Như vậy, có hai tiêu chí để phân loại không gian nghệ thuật trong thơ thiền là không gian từ ngoại cảnh đến tâm cảnh (phản ánh) và không gian từ tâm cảnh đến ngoại cảnh (phản chiếu). Dựa vào hai tiêu chí đó, chúng tôi chia ra 4 loại không gian nghệ thuật: không gian vũ trụ và không gian đời thường (theo tiêu chí 1); không gian tâm thiền và không gian biểu tượng triết lí thiền (theo tiêu chí 2).

2.1. Không gian từ ngoại cảnh đến tâm cảnh:

2.1.1. Không gian vũ trụ:

Có lẽ ở thời trung đại, chưa bao giờ con người xem vũ trụ, thiên nhiên như là một khách thể và mình là chủ thể. Tự trong cảm thức sâu xa, con người thời trung đại xem mình là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên; họ thấy mình sống trong vòng “thiên phú địa tái” (trời che đất chở) của thiên nhiên, nhìn thấy trong bản thân mình có chứa cả vũ trụ, thấy ẩn đằng sau mọi sự vật của thế giới hiện tượng là những ngụ ý sâu xa mà mình phải tìm tòi học hỏi, cũng có lúc họ xem thiên nhiên là người bạn thân thiết mà mình không thể thiếu được trong cuộc đời này. Các thiền gia thời Lí- Trần cũng chịu sự chi phối của vũ trụ quan đó, họ khao khát được hòa nhập với vũ trụ, chiếm lĩnh không gian rộng lớn, thậm chí vượt ra ngoài sự chi phối của vũ trụ. Hay nói đúng hơn, chính sự giác ngộ đã đưa các thiền gia trở về hòa nhập với vũ trụ vì cả hai vốn có cùng một bản thể. Do đó, không gian vũ trụ chiếm một phần khá lớn trong thơ thiền thời Lí- Trần, trong đó, không gian thiên nhiên cao- viễn và không gian tương thông- giao hòa vạn vật là hai kiểu không gian vũ trụ tiêu biểu nhất.

2.1.1.1. Không gian thiên nhiên cao- viễn:

Không gian vũ trụ trong thơ thiền Lí- Trần thường được xây dựng là không gian thiên nhiên cao- viễn. Cao- viễn ở đây không đơn thuần chỉ là cao và xa mà nó đã bao hàm một không gian ba chiều rộng lớn. Không gian đó được gợi nên bởi tầm nhìn rộng và hết sức bao quát của người quan sát. Nên ở đó, mọi sự vật hiện tượng được biểu hiện ra hầu như bằng hết kích cở thật của nó chứ không ẩn khuất hay bị che giấu. Các thiền gia vốn ưa thích sống gần gũi với thiên nhiên, được nương mình ở không gian mênh mông thoáng đãng, cô liêu tịch mịch của thiên nhiên để tu hành tầm đạo. Và vì thế, núi cao rừng sâu hay sông nước bao la là không gian đáp ứng đầy đủ nhất và thích hợp nhất với nguyện vọng đó của họ:

Vạn lí thanh giang vạn lí thiên

Nhất thôn tang giá nhất thôn yên.

(Ngư nhàn- Không Lộ)

(Vạn dặm sông xanh vạn dặm trời

Một xóm dâu gai một xóm khói mây)

(Cái nhàn của ông chài)

Thiền gia sống giữa không gian vũ trụ bao la với sông rộng trời cao, phóng tầm mắt nhìn thẳng lên trên là bầu trời bao la, ngó xuống dưới chân là dòng sông mênh mông lai láng, nhìn sang bên kia là thôn xóm đầy dâu gai, ngó sang bên này là thôn xóm đầy mây khói. Không gian bát ngát hiu quạnh ấy dễ dàng khơi gợi sự rung động của tình cảm con người, gieo vào lòng người cảm hứng thiền mạnh mẽ, là chiếc nôi ru thiền gia trở về với giấc ngủ hồn nhiên của tự tánh. Sống trong không gian đó, con người dễ dàng liên tưởng đến sự nhỏ bé hữu hạn của cuộc đời mình. Không gian thiên nhiên dằng dặc mênh mông, tạo vật cao xa, thăm thẳm hoàn toàn đối lập với con người nhỏ nhoi thấp bé càng khiến cho con người choáng ngợp và sợ hãi. Thế nhưng, đối với các thiền gia, không gian đó không những không đáng sợ bởi lẽ nó vốn dĩ bình đẳng với con người. Họ vươn lên chiếm lĩnh không gian, thậm chí có lúc vượt ra ngoài không gian vũ trụ ấy với niềm vui tươi phấn khích trong cuộc sống:

Thiên địa diếu vọng hề hà mang mang

Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương

Hoặc cao cao hề vân chi sơn

Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương.

(Phóng cuồng ngâm- Tuệ Trung)

(Ngắm trông trời đất sao mà mênh mông

Chống gậy rong chơi ngoài thế gian

Hoặc đến ngọn núi phủ mây cao cao

Hoặc đến chỗ biển nước sâu sâu).

(Bài ngâm cuồng phóng)

Nếu không gian khơi gợi cảm xúc thiền mãnh liệt trong thơ Không Lộ là không gian trời nước mênh mông xung quanh một ngư ông lặng lẽ, thì trong thơ Tuệ Trung, đó là không gian dằng dặc bao la của đất trời mà con người có thể đến đi thỏa thích. Trong không gian vũ trụ bao la đó, con người đã trở thành trung tâm của trời đất mà các chiều kích của không gian có khi như được mở rộng ra đến vô tận, cũng có khi như bị thu hẹp lại qua cách nhìn đầy cảm hứng thiền của thiền sư.

Để nhận thức được không gian đó, các đơn vị đo lường không còn là phương tiện hữu hiệu nữa. Các thiền gia chỉ có thể ước chừng nó bằng những con số không hạn định như thiên lí, vạn lí; hoặc bằng cách nói chung chung là vũ trụ, càn khôn, thiên địa, trường giang, đại hải; cũng có khi đó là những sự vật cụ thể có tầm vóc lớn lao như mây (vân), núi (sơn, phong), sông (hà, giang), biển (dương, hải), mặt trời (nhật), mặt trăng (nguyệt); diễn tả cho cái mênh mông bát ngát đó là một loạt các tính từ: thâm thâm, du du, cao cao, mang mang…Cái cao của núi, cái rộng của sông, cái sâu của biển, cái dài của mây, cái sức buông tỏa ánh sáng mặt trời, mặt trăng…dệt nên những bức tranh thoáng đạt mênh mông khá gần gũi với tranh họa Nam tông Trung Quốc đời Đường- Tống. Đó có thể là cảm hứng chung của các thiền gia khi đối diện với vũ trụ bao la mà con người là một phần không thể tách rời trong đó.

Không gian vũ trụ trong thơ thiền không chứa trong nó con người cá nhân với những suy tư thầm kín mà chỉ dung chứa những con người vũ trụ, hòa cái “bản ngã” của cá nhân vào cái “đại ngã” của thế giới:

Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

(Ngôn hoài- Không Lộ)

(Có lúc lên thẳng đỉnh núi trơ vơ

Kêu dài một tiếng, lạnh cả bầu trời).

(Tỏ nỗi cảm hoài)

Nếu con người trong thơ Nho thời trung đại xem thiên nhiên là đối tượng để “tải đạo” hay “ngôn chí”, là người bạn để xẻ chia tình cảm, tâm sự thì con người trong thơ thiền xem mình và thiên nhiên có cùng một bản thể, từ đó các thiền gia vươn đến thiên nhiên để đạt được một sự cộng hưởng tinh thần cao độ. Cũng miêu tả về không gian bao la rộng lớn, cũng trời mây núi sông hùng vĩ, nhưng không hoàn toàn giống như thái độ “vô vi” hòa mình vào tự nhiên của Đạo gia, càng không giống như ý chí tiến thủ của các nhà Nho, mà thông qua việc miêu tả không gian thiên nhiên rộng lớn, các thiền gia thường thể hiện “xung thiên chí” (chí xông lên trời thẳm) để đi đến giác ngộ Phật tánh của mình. Không gian trong hoàn cảnh này thường là không gian lên núi cao, không gian con đường sâu thẳm đến vô tận. Hình ảnh con đường xa thẳm mênh mông vô lối nhiều khi là nỗi ám ảnh lớn lao với người cầu đạo.

 Như vậy, không gian vũ trụ cao- viễn trong thơ thiền là không gian hiện thực mênh mông bát ngát. Các sự vật trong không gian đó to lớn hùng vĩ phù hợp với tâm thế con người và dễ dàng tạo được cảm hứng thiền ở các thiền gia. Con người sống trong đó bên cạnh việc hòa nhập hết mình còn muốn vượt ra khỏi sự hữu hạn để vươn lên một thế giới rộng mở tuyệt đối. Thiên nhiên trong không gian này không phải là thứ thiên nhiên giả tạo siêu hình, thiếu màu sắc mà ngược lại, nó sinh động, nên thơ và gợi cảm giữa cuộc sống tu hành; đồng thời nó cũng chứa bên trong cảm hứng thiền, tâm trạng thiền, ý vị thiền qua con mắt nhà sư.

2.1.1.2. Không gian tương thông- giao hòa vạn vật:

Cách nhìn mọi sự vật tồn tại trong mối tương thông giao hòa lẫn nhau xuất phát từ quan điểm “vạn vật nhất thể” của triết lí Phật giáo Thiền tông. Do đó, nhìn nhận về bất cứ những sự vật gì, nhà sư cũng nhận ra sợi dây vô hình liên thông giữa chúng. Không gian vũ trụ lúc này không phải là thế giới rời rạc rạch ròi, cũng không hỗn dung tạp nhạp mà ở không gian đó, vạn vật luôn giao hòa với nhau một cách nhịp nhàng, khăng khít. Có khi đó là cánh chim nhỏ hót dưới bầu trời thu, là hoa mẫu đơn nở giữa trời tuyết bay; có khi là ngọn gió thổi xuyên cành trúc, cũng có khi là ngọn núi đỡ vầng trăng vượt qua đầu tường…

Thiên thu đoàn thử lệ

Tuyết cảnh mẫu đơn khai

Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo

Sơn nham đới nguyệt quá tường lai.

(Tham đồ hiển quyết- Viên Chiếu)

(Hoàng anh hót dưới trời thu

Mẫu đơn nở giữa mịt mù tuyết bay

Xuyên rặng trúc còi theo gió tới

Vượt bờ tường núi đội trăng sang).

(Ghỉ rõ bí quyết đạo thiền cho môn đệ)

Không gian vũ trụ ấy không đơn điệu, nhàm chán mà qua cảm nhận của nhà sư, vạn vật đầy màu sắc và sinh động như mang dáng dấp hình hài của con người. Chúng quấn quít lấy nhau, liên thông với nhau để tồn tại dưới gầm trời này. Nhưng sự liên thông đó không diễn ra một cách ồn ả, vồ vập mà mọi thứ diễn biến một cách lặng lẽ, êm đềm cũng giống như cái lặng lẽ, êm đềm của người tu hành khi trở về suối nguồn đạo pháp:

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

(Sơn phòng mạn hứng- Trần Nhân Tông)

(Hoa rụng hết, mưa tạnh, núi vắng lặng

Một tiếng chim kêu, lại mùa xuân tàn).

(Mạn hứng ở Sơn Phòng)

Hình ảnh hoa rụng núi vắng, chim kêu xuân tàn gợi nên một không gian mà vạn vật tồn tại trong mối quan hệ lẫn nhau, một thứ nhỏ bé tầm thường nhưng có sức tác động lớn lao đến đất trời rộng lớn, giống như kiểu “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu” (Ngô dồng một chiếc lá rơi, cả trời đất đều biết mùa thu đến) của thơ Đường. Không chỉ thiên nhiên hòa mình vào không gian vũ trụ vắng lặng, con người cũng sống trong vũ trụ đó thì không thể không có sự giao hòa, tương cảm với vạn vật:

Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình

Tâm kì phong cảnh cộng thê thanh

(Kí Thanh Phong am tăng Đức Sơn- Trần Thái Tông)

(Gió đập vào cửa thông, trăng chiếu sáng trên sân

Lòng hẹn với phong cảnh cùng trong trẻo lặng lẽ).

(Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong)

Các thiền gia tỏ ra say sưa với thiên nhiên cuộc sống chứ không phủ nhận thực tại. Sự giao hòa đó khiến cho mọi sự vật uyển chuyển hơn, sinh động hơn khi nó tồn tại tự thân, một mình, đơn lẻ. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên trong con mắt thiền gia lúc này khá bóng bẩy, tươi đẹp và luôn tràn đầy sức sống. Từ đó, ta cảm nhận được tình cảm yêu đời thắm thiết, thái độ lạc quan, an nhiên tự tại, bản lĩnh vững vàng và tự tin của con người trước vũ trụ bao la huyền bí.

Như vậy, trong không gian vũ trụ của thơ thiền Lí- Trần, các sự vật luôn tồn tại trong sự hòa hợp tương cảm lẫn nhau. Mọi thay đổi hay chuyển biến của sự vật này luôn tạo ra sự tác động đến các sự vật khác. Thế giới đó là thế giới của sự hòa điệu.

Tóm lại, nếu không gian vũ trụ trong thơ Đường là không gian bao la rộng lớn với nhiều chiều kích, đơn vị để đo lường cho nó là: thiên lí, thiên xích, vạn tầm… thì cũng giống như vậy, không gian vũ trụ trong thơ thiền là không gian rộng lớn mà con người là một bộ phận. Vũ trụ mênh mông dằng dặc, lặng lẽ cô tịch luôn tác động mạnh đến cảm hứng thiền của các thiền sư, hoặc ngược lại không gian đó chịu cảm hứng thiền của các thiền sư chi phối. Tuy nhiên, không hoàn toàn đồng nhất với con người vũ trụ trong thơ Đường xem mình là một bộ phận của thiên nhiên, hướng về thiên nhiên để giãi bày nỗi niềm tâm sự; con người vũ trụ trong thơ thiền Lí- Trần hòa nhập mình vào vũ trụ bao la, thậm chí vượt ra ngoài vũ trụ một cách nhàn tản tự tại. Trước không gian vũ trụ đó con người dứt bặt mọi suy tưởng, có chăng thì đó cũng là niềm vui an nhiên của người thoát khỏi mọi ràng buộc của không gian hữu hạn cuộc đời.

2.1.2. Không gian đời thường:

Là con người, ai cũng có không gian cuộc sống đời thường của riêng mình. Dù là nhà sư giác ngộ chân lí Phật hay người đang nỗ lực tiến bước trên con đường tu tập thì không ai có thể tách rời cuộc sống này để tồn tại. Do đó, không gian đời thường cũng là một loại không gian được các thiền gia nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm của mình. Nếu như không gian vũ trụ mở ra bởi một tầm nhìn hun hút rộng mở của thiền gia, thì không gian đời thường chính là phản ánh của cái nhìn thu hẹp hơn từ phía cuộc sống đời thường. Nói một cách khác đi, nhờ tầm nhìn rộng mở, không gian vũ trụ hiện lên với hình ảnh núi sông, bầu trời, mây gió…; còn khi thu hẹp tầm nhìn về phía cuộc sống xung quanh mình, không gian đời thường hiện lên là những thứ cụ thể hơn, nhỏ bé hơn như cây lá, sân nhà, am thất, chim chóc, chiếc lá rơi… Các thiền gia sống cuộc sống ẩn dật, nhàn tản ở chốn núi rừng, hay chốn chùa chiền với công việc hằng ngày hết sức quen thuộc. Cũng một phong thái ung dung, thoát tục ấy, các nhà thơ đã miêu tả chân thực và đầy đủ không gian cuộc sống đời thường diễn ra xung quanh mình.

2.1.2.1. Không gian ẩn dật nhàn tản thoát tục:

An lạc, nhàn nhã từ thể xác đến tinh thần và đi đến giải thoát khỏi luân hồi sinh tử là điều mà những người tu Phật mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, cái nhàn nhã đó không phải là kiểu nhàn nhã của kẻ “ngồi không ăn bát vàng”, cũng không phải là kẻ sống nhàn theo kiểu mà Khổng Tử chê trách “nhàn cư vi bất thiện” (kẻ ở không chẳng làm gì thường hay nghĩ ra chuyện ác); mà cái nhàn ở đây toát lên từ tâm hồn của một con người đạt đạo xa lánh mọi phiền não, lo lắng hay chấp trước phân biệt của cuộc đời, thoát khỏi mọi ràng buộc đua chen của sự đời ảo ảnh. Cái an nhàn đó xuất phát từ tâm thái của người đạt đạo thoát tục, giữ được sự thanh thản, bình tĩnh, an vui của tâm hồn.

Cuộc sống nhàn nhã đó được gợi lên thông qua một loạt không gian mà trong đó con người lúc nào cũng bắt gặp những niềm vui bất tận. Có khi đó là không gian cuộc sống mà thiền gia suốt ngày vui tươi cất lên điệu đàn khúc nhạc và chỉ có thiên nhiên mới hiểu và chia vui cùng nỗi lòng con người:

 Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm

Nhàn môn vô sự khả quan tâm

Cá trung khúc phá vô nhân hội

Duy hữu tùng phong họa thử âm

Khiết phạn đả miên tùy xứ dụng

Cánh vô tha sự khả ưng vi.

(Tự thuật- Trần Thánh Tông)

(Suốt ngày thảnh thơi gảy cây đàn không điệu

Nơi cánh cửa nhàn không có việc gì đáng để tâm

Trong đó, khám phá ra khúc nhạc mà không ai hay biết

Chỉ có gió trên cây tùng là họa được âm thanh này

Ăn cơm, đi ngủ đều tùy ý

Ngoài ra không có việc gì khác đáng làm).

(Tự thuật)

Cũng có khi là không gian mà trong đó, thiền gia ung dung lướt thuyền tìm tiếng sáo thuyền chài giữa đêm thu hắt hiu tịch mịch ngoài bãi sậy, thả hồn mình say sưa vào cơn gió dòng sông:

Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diễu mang

Sơn thanh thủy lục hựu thu quang

Sổ thành ngư địch lô hoa ngoại

Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.

(Phiếm chu- Huyền Quang)

(Mênh mang theo gió trôi thuyền nhỏ

Sáng ánh thu xanh bóng nước mây

Vọng sáo thuyền chài ngoài bãi sậy

Trăng rơi đáy sóng sông sương đầy).

(Đi thuyền)

Các thiền gia gạt qua một bên những sợ hãi về qui luật vô thường của cuộc đời, hòa mình vào cuộc sống tự nhiên bình dị nhất để sống một cách bình thường, an vui và tự tại. “Đói-ăn”, “mệt-ngủ” là cách sống hồn nhiên, giản dị, là những nhu cầu cần thiết của “người phàm mắt thịt”. Những qui luật vốn bình thường trong cuộc sống chính là chân lí của đạo, hà tất phải đi tìm cầu những điều cao siêu ở bên ngoài cuộc sống. Thiền gia sống hết mình với hoàn cảnh, tùy duyên mà hành động, không vướng mắc câu chấp cũng không yêu cầu đòi hỏi, vừa khơi dậy tiềm lực của chính mình lại vừa không phải khó nhọc công tìm kiếm bên ngoài. Họ hướng về thiên nhiên bộc lộ niềm hân hoan an lạc:

Thu lai lương khí sảng hung khâm

Bát đẩu tài cao đối nguyệt ngâm

(Hãn tri âm II- Tịnh Giới)

(Mùa thu đến, khí trời mát mẻ, sảng khoái trong lòng

Những nhà thơ tài cao tám đấu nhìn trăng mà ngâm vịnh).

(Ít tri âm II)

Không gian cuộc sống xô bồ, ồn ả không phải là nơi thích hợp của người tu hành đi đến giác ngộ chân lí Phật. Trong thơ thiền Lí- Trần, cuộc sống con người luôn lặng lẽ nhưng lúc nào cũng ngập tràn niềm vui, an nhàn thoát tục. Không gian cũng là không gian ít có hình ảnh con người, nếu có thì cũng thưa thớt vắng vẻ, con người sống trong không gian đó là con người ưa trầm tĩnh, hay đối diện với chính mình, con người vô ngôn yên lặng:

Khách lai bất vấn nhân gian sự

Cộng ỷ lan can khán thúy vi

(Xuân cảnh- Trần Nhân Tông)

(Khách đến chơi không hỏi việc đời

Cùng đứng tựa lan can ngắm xa xa một màu xanh biếc).

(Cảnh mùa xuân)

Cả bài thơ toát lên sự thanh tịnh, u nhàn lặng lẽ đến mức không thể ngờ. Cả một bầu không gian mà sống trong đó, tâm hồn thi sĩ luôn luôn có thể bắt gặp những đường nét, những màu sắc hài hòa cùng với những tình tứ chân thật và sâu rộng, một ý vị say sưa và trong trẻo. Chất thiền một cánh nhẹ nhàng lộ ra từ trong bức tranh cô liêu tịch mịch đó khiến cho con người càng nức lòng trước hương vị thiền phảng phất. Thiền gia lắng nghe mọi âm thanh của cuộc sống, ngắm nhìn mọi màu sắc của cảnh vật, theo dõi mọi diễn biến của thế giới vật chất xung quanh nhưng không vồ vập, cuốn hút hồn mình theo nó mà cảm thụ bởi tâm thức thiền và cuối cùng dẫn tới chỗ ngưng lắng, vô ngôn.

Không gian cuộc sống an nhàn thoát tục ở đây không có những biến động lớn lao, không có những sóng gió ba đào, cũng không có những ốm đau chết chóc; không gian dường như rất thuận lợi, mọi thứ diễn ra bình thường tốt đẹp, êm đềm lặng lẽ như rộng mở vòng tay chào đón lấy con người say sưa sống trong niềm vui vô biên đó. Con người sống trong không gian này là những con người nhàn nhã, vui với lẽ đạo và dễ dàng hòa nhập vào thiên nhiên, sống cuộc sống hồn hậu tuỳ cảnh tuỳ thời giữa suối nguồn an lạc đang trào dâng bất tuyệt.

2.1.2.2. Không gian chùa chiền của đời sống tu hành:

Rời bỏ cung vàng điện ngọc, xa lìa mái ấm gia đình, các thiền gia dấn thân vào con đường đạo pháp để tu hành giác ngộ chân lí Phật. Sống ở chốn “thâm sơn cùng cốc”, bên cạnh không gian cảnh vật thiên nhiên xung quanh cuộc sống nhà sư còn có không gian chùa chiền của đời sống tu hành. Không tách biệt với thiên nhiên, không gian nhà chùa tự bao đời đã hòa mình vào khung cảnh thanh u đó tạo nên những bức tranh tuyệt đẹp. Ở không gian này, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh con am, mái chùa, hiên vắng, sân đình, đài cổ, giường thiền, bóng tháp, tiếng chuông, song mai, hiên trúc, đường thông…Không gian này gợi nên khung cảnh cuộc sống đời thường thanh nhàn, đạm bạc còn gợi cảm giác siêu thoát, “vắng bóng người, thưa khách tục”.

Giới am bán gian khả dung tất

Ngột ngột đằng đằng tự độ nhật

Bách điểu bất lai xuân trí nhàn

Tiêu nhiên tứ bích chân vô vật.

(Giới am ngâm- Trần Minh Tông)

(Nửa gian am cỏ đủ chứa đôi chân

Khi lặng lẽ, khi lâng lâng tự sống qua ngày

Trăm loài chim chẳng đến, ngày xuân nhàn nhã

Bốn vách quạnh quẽ, thật không có vật gì).

(Bài ngâm về cái am cỏ)

Bức tranh cuộc sống tu hành mà Trần Minh Tông gợi nên thật bình dị mộc mạc, nó thể hiện sinh động nhất cho cái “không”- biểu hiện của ý chí thoát li, buông xả mọi thứ vật chất giả tạm cuộc đời- của con người cầu đạo. “Am cỏ” vốn dĩ đã quá đơn sơ mà lại chỉ có “nửa gian”, “bốn vách” vốn dĩ đã nghèo nàn mà lại thêm “trống không quạnh quẽ”. Cuộc sống như vậy có khác gì cuộc sống của các nhà Nho trí sĩ hay các đạo sĩ ở ẩn ? Họ cũng sống ẩn dật trong “thảo lư” hay “mao ốc” với tâm thái an nhàn thoát tục, cũng hòa nhập với thiên nhiên cảnh vật, cũng theo đuổi chí hướng riêng hoặc có khi suy nghĩ và chiêm nghiệm về lẽ đời…

Trong thơ thiền Lí- Trần, các thiền gia hòa mình tuyệt đối vào không gian cuộc sống đời thường, phảng phất đâu đó trong không gian này hương thơm giải thoát của một tâm hồn đạt đạo, vạn vật cũng hiện lên đầy vẻ đẹp thông qua cảm hứng thiền của con người. Các sự vật được gợi lên trong bức tranh cuộc sống đời thường cũng gắn liền với đời sống tu hành của một nhà sư hay cư sĩ. Từ đó dẫn đến, không gian đời thường trong thơ thiền gắn liền với cảm hứng thiền và tràn ngập hương vị thiền mà các loại thơ khác không có được:

 Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn)

Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên

(Ngẫu tác – Tuệ Trung)

(Ngồi ngay ngắn giữa nhà, lặng lẽ không nói

Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân).

(Chợt hứng làm thơ)

hay:

Như kim khám phá Đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

(Xuân vãn- Trần Nhân Tông)

(Như nay đã khám phá ra bộ mặt của chúa xuân

Ngồi trên tấm đệm cỏ trên phản nhà chùa ngắm cánh hồng rơi rụng).

(Buổi chiều xuân)

Hai bài thơ là hai khung cảnh khác nhau nhưng cùng thể hiện không gian tu hành ở chốn chùa chiền, thể hiện thế giới tâm thức mênh mông trong tâm hồn con người đạt đạo. Giác ngộ chân lí, các thiền gia trở về với bản thể thanh tịnh, tưởng chừng họ sẽ khép cửa lòng mình để sống an vui với tự tánh, thế nhưng không ngờ sự tỉnh thức đó lại giúp con người nhạy cảm hơn, tinh tế hơn khi đón nhận những thay đổi nhỏ bé của thiên nhiên, cảnh vật. Cái tĩnh tại, đồ sộ, vững chải của không gian chùa chiền với những “thiền bản”, “bồ đoàn”, “đường trung”, “Côn Luân” cùng với tư thế bất động, trầm tĩnh của nhà sư hoàn toàn đối lập với cái mỏng manh yếu ớt như “tia khói bay”, “cánh hồng rơi” khiến cho không gian có chiều sâu hun hút và đầy gợi hình gợi cảm.

Nhiều khi không gian cuộc sống ấy “đời thường” đến nỗi nó phản ánh cả những khung cảnh sinh hoạt đơn giản nhất, quen thuộc nhất của con người mà thơ xưa ít ai nói tới:

Oi dư cốt đốt tuyệt phần hương

Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương

Thủ bả xuy thương hòa thái thác

Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang.

(Địa lô tức sự- Huyền Quang)

(Củi đã tàn, cũng chẳng thắp hương

Miệng trả lời chú bé trên núi hỏi về những chương sách ngắn

Tay cầm ống thổi lửa, tay nhặt mảnh cây

Luống để người ta cười ông sư già này bận bịu).

(Trước bếp lò tức cảnh)

Góp phần xây dựng nên không gian đời thường của cuộc sống tu hành là hình ảnh chiếc giường. Hình ảnh này được nhắc đến khá nhiều lần trong sang tác của các thiền gia ẩn cư. Đối với nhà sư tu thiền, chiếc giường không chỉ là nơi ghé lưng nghỉ ngơi trong những lúc mệt mỏi mà hơn thế nữa, chiếc giường là người bạn vô cùng thân thiết và yêu quí của nhà sư trong những thời tham thiền tầm đạo, đọc sách xem kinh hay tham công án, dạy đạo cho đệ tử… Trong những lúc nhập thiền hay xuất thiền, ngủ nghỉ hay giật mình thức giấc giữa đêm khuya trong lành tĩnh mịch, chiếc giường là nơi đầu tiên chứng kiến tâm sự nhà sư, là người bạn đầu tiên chứng minh nhà sư ngộ đạo. Hình ảnh “chiếc giường đầy sách”, “chiếc giường thiền ở nơi am mây” đã xua tan đi những suy nghĩ về một đời sống tu hành nhọc nhằn gian khó, gợi lên một cái nhìn lạc quan yêu đời đầy vẻ thoát tục trong tâm hồn nhà sư.

Như vậy, không gian cuộc sống tu hành ở chốn chùa chiền là một không gian được nhiều thiền gia ẩn cư đề cập tới. Không gian này được xây dựng trong mối quan hệ với không gian cảnh vật thiên nhiên xung quanh và với hình ảnh con người gắn liền cuộc sống tu hành thiền định. Các tác giả thường không miêu tả một cách đầy đủ, dài dòng, chi tiết về nó mà chỉ phác thảo trong mỗi bài thơ một vài sự vật để qua đó làm nổi bật thế giới tâm cảnh của con người. Không gian này có lúc là một không gian đơn sơ, thiếu thốn, khắc khổ thách thức sức chịu đựng bền gan, “nhẫn nhục” của người tu hành; có lúc là không gian đồ sộ, tĩnh lặng so với những biến đổi xung quanh như đại diện cho thế giới tâm cảnh của người giác ngộ; cũng có lúc không gian đó giao hòa với thế giới tự nhiên vạn vật giống như tâm hồn của con người khát khao hòa nhập. Tuy nhiên, dù ở trường hợp nào, không gian đó cũng gợi nên cuộc sống tĩnh lặng, an nhàn; không khí cô liêu tịch mịch, tạo chiều sâu hun hút để con người dễ dàng đi sâu thiền định công phu, giác ngộ và sống an vui với tự tánh.

Tóm lại, không gian đời thường là không gian thế giới sự vật tồn tại xung quanh cuộc sống đời thường của con người. Ở không gian đó, con người sống an nhàn lặng lẽ và thoát khỏi mọi sự vướng bận. Đây là không gian “thuận cảnh” mà người tu hành sống an nhiên với lẽ đạo bởi gần như không gặp một trở lực nào, cho dù đó là cuộc sống thiếu thốn gian khổ.

2.2. Không gian từ tâm cảnh đến ngoại cảnh:

2.2.1. Không gian tâm thiền:

“Thơ thiền thường có hai thế giới đối sánh: thế giới trần tục với lẽ sinh diệt, đau khổ và thế giới Niết bàn tịch diệt vĩnh hằng”[25, 196]. Nếu các không gian trên là không gian của thế giới trần tục thì không gian tâm thiền được xem là không gian của thế giới Niết bàn. Nhà thơ đứng trước khung cảnh thiên nhiên, miêu tả và thể hiện tình cảm đối với thiên nhiên không giống như cách thể hiện trong thơ vịnh cảnh thông thường. Khẩu quyết của các thiền gia là “thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước”, hình ảnh thiên nhiên trong thơ thiền giống như một xuất phát điểm để các nhà sư đi vào thế giới như nhiên của tâm hồn để siêu nghiệm.

“Qui mô không gian có ý nghĩa đặc biệt để biểu hiện sức mạnh tâm hồn. Người xưa thường nói “hùng tâm đại chí”- chí lớn gắn với chiếm lĩnh không gian lớn. Không gian lớn có tác dụng giải phóng tầm nhìn” [25, 216]. Do đó, dù không trực tiếp nói không gian tâm thiền của mình nhưng thông qua những hình ảnh đầy sức khơi gợi, không gian đó đã hiện lên khá toàn diện. Ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu ba kiểu không gian tâm thiền tiêu biểu nhất.

2.2.1.1. Không gian bao la của “hư không pháp giới”:

“Hư không pháp giới” là không gian rộng lớn mênh mông của thế giới hữu hình lẫn vô hình theo quan niệm đạo Phật. Ở không gian này, tất cả mọi sự vật đều tồn tại bình đẳng không phân biệt, không có cái lớn cái nhỏ, cái cao cái thấp, cái rộng cái hẹp. Theo đó, thế giới đang tồn tại của con người chỉ là một hạt bụi nhỏ trong “tam thiên đại thiên thế giới” (ba ngàn đại thiên thế giới). Đây không phải là kiểu không gian mà “người trần mắt thịt” có thể cảm nhận hay tính toán đo lường, chỉ khi nào giác ngộ tự tánh, vượt qua mọi cản trở của không gian và thời gian thì mới cảm nhận được không gian mênh mông vi diệu đó.

Diễn đạt cho cái không gian trống rỗng hư vô đó, các sự vật của thế giới vật chất thông thường không tỏ ra hữu hiệu nữa, các thiền gia đành phải dùng những từ ngữ có sẵn trong kinh điển, sách vở nhà Phật để khơi gợi sự liên tưởng sâu xa trong tâm trí người tiếp nhận: trần số (số bụi trong không gian), hà sa (số cát sông Hằng), hư không giới (thế giới hư không), giới giới xứ xứ (khắp nơi khắp cõi), hư không, pháp giới, biến sa bà (đầy khắp thế giới như số cát)…

Mãn không trần số chúng

Phật pháp từ bi đại

Uy quang phúc đại thiên

(Phật pháp- Khuyết Danh)

(Chúng sanh đông đảo như số bụi trong không gian

Phép Phật rất từ bi

Ánh sáng linh quang bao trùm cả ba nghìn đại thiên thế giới).

(Phép Phật)

hay:

Hà sa cảnh thị bồ đề đạo

Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm

(Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn- Trí Huyền)

(Khắp những thế giới nhiều như cát sông Hằng đều là đạo của Phật

Thế mà lại tưởng muốn đến cõi Phật còn phải mất hàng vạn tầm).

(Trả lời Từ Đạo Hạnh hỏi về chân tâm)

 Nếu không gian vũ trụ là những cảm nhận của con người về thế giới hiện thực rộng lớn xung quanh, trong đó con người là một bộ phận hữu cơ đang vươn lên hòa nhập thì ở không gian hư vô trống vắng, bao la của “hư không pháp giới”, con người đã đạt tới một sự hòa nhập tuyệt đối. Hơn thế, sự hòa nhập này đạt đến một không gian siêu không gian, không gian mà chỉ ở những người giác ngộ tự tánh mới có thể cảm nhận trọn vẹn:

 Diệu bản hư vô nhật nhật khoa

Hòa phong xuy khởi biến sa bà

(Cảm hoài- Chân Không)

(Cái thể tính thần diệu vốn trống không, ngày ngày vẫn biểu hiện ra khắp nơi

Như luồng gió ôn hòa thổi khắp ba nghìn thế giới).

(Cảm hoài)

Sống trong không gian tâm thiền đó, các thiền gia ý thức được vị trí của mình trong mối quan hệ với thế giới, tương quan với môi trường xung quanh. Do đó, nhà thơ đã hình thành một điểm nhìn siêu cá thể, nhìn thế giới và bản thân trong toàn cảnh thế giới. Đây không còn là không gian mà mắt thường có thể chiếm lĩnh được. Muốn chiếm lĩnh nó, người cảm thụ phải huy động toàn bộ tâm thức, tư duy và trí tưởng tượng của mình. Thế nhưng, không gian đó không làm các thiền gia choáng ngợp hay sợ hãi mà ngược lại, họ ung dung bước lên trên nó, nhìn nó bằng một con mắt bình thản, nhiều khi lạ lùng đến mức logic đời thường không giải thích được:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

(Đáp Pháp Dung sắc không, phàm thánh chi vấn- Khánh Hỉ)

(Trời đất hết thảy đều ở trên đầu một sợi lông

Mặt trời mặt trăng chỉ chứa đựng trong một hạt cải).

(Trả lời Pháp Dung hỏi về sắc không, phàm thánh)

Nhà thơ sống và hòa nhập sâu sắc với cuộc đời, xem mình cùng với vũ trụ, tạo vật có cùng một bản thể. Rõ ràng, việc miêu tả không gian này không phải là những lời phóng đại, ngoa dụ thiếu cơ sở hay mang tính ngẫu hứng, mà nó luôn toát ra một ấn tượng chân thật từ những cảm giác đã sống, đã trải qua một cách trực tiếp và đầy đủ. Trên cơ sở ấy, nó đã chắp cánh cho những dòng thơ bay bổng đầy mơ hồ đó càng dễ dàng được chấp nhận.

Trong nghệ thuật điêu khắc hay hội họa, nói đến một không gian, một khung cảnh không thể không nói đến điểm nhìn của người quan sát để cảm nhận về không gian và khung cảnh đó. Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn chương cũng vậy, sẽ đầy đủ hơn nếu ta chỉ ra điểm nhìn của tác giả khi phản ánh cuộc sống, phản ánh không gian bằng cặp mắt chủ quan của mình. Giải thích cho câu hỏi xuất phát từ điểm nhìn nào mà các thiền sư nhìn rõ được không gian “hư không pháp giới” với tầm vóc như vậy không phải là điều quá khó. Không gian trong thơ thiền chịu sự chi phối của cái tâm người sáng tác. Như vậy, trong tâm thức của người giác ngộ như các thiền gia, không gian vật chất hữu hạn không còn sự cản trở, con người vươn lên một không gian siêu hiện thực mà ở không gian đó, tất cả đều bình đẳng không sai biệt. Cho nên, nhà sư mới thấy:

Hà sa thế giới bất khả lượng

Tuy nhiên biến mãn hư không giới

Giới giới xứ xứ thường lãng lãng

(Tâm pháp- Đàm Cứu Chỉ)

(Thế giới nhiều như cát sông Hằng chẳng thể đếm hết

Tuy rằng đầy khắp cõi hư không

Chốn chốn nơi nơi nó thường sáng tỏ).

(Tâm và pháp)

Tóm lại, không gian “hư không pháp giới” là không gian trong tâm thiền của người giác ngộ Phật tánh. Cái tâm con người suy nghĩ vốn không có giới hạn, không thể đo lường hay suy tính thì khi thấy rõ cái tâm ấy rồi, thế giới này hiện lên trong cảm nhận của thiền gia cũng trở nên tuyệt đối vô biên không thể đo lường. Không gian đó đại diện cho thế giới tâm thức rộng mở đầy vi diệu mà mỗi người tu Phật mong đạt tới và theo họ đó mới là không gian chân thật nhất.

2.2.1.2. Không gian trong suốt, đầy ánh sáng của bản thể giác ngộ :

Là thơ của các thiền gia đã giác ngộ hay trên đường đi đến giác ngộ chân lí, thơ thiền Lí- Trần chú trọng việc phản ánh cái giây phút quan trọng nhất, cái giây phút con người bước từ thế giới giả hiệp vô thường sang thế giới bất biến hằng thường. Đó là giây phút giác ngộ tự tánh, mà từ giây phút đó trở đi thì “phàm thánh bất dị” (phàm thánh không khác), “mê ngộ bất dị” (mê ngộ không khác), “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (sắc tức là không, không tức là sắc)… Khi đó, con người sống trong thế giới tâm cảnh an nhiên tự tại, không còn phiền não hay lo lắng:

 Thùy tri vân quyển, trường không tịnh

Thúy lộ thiên biên nhất dạng san

(Phổ thuyết sắc thân kệ- Trần Thái Tông)

(Có ai hay khi mây cuốn đi thì cả bầu trời không quang tạnh

Xanh biếc lộ ra bên chân trời một rặng núi).

(Bài kệ bàn rộng về sắc thân)

“Bầu trời không quang tạnh”, “rặng núi và màu xanh biếc lộ ra phía chân trời” giờ đây không còn là cảnh vật thuần túy của tự nhiên mà là cảnh vật trong thế giới tâm cảnh của người giác ngộ. Diễn tả cho thế giới tâm cảnh đó là một không gian mà vạn vật trong trẻo lạ thường, thuần khiết đến cao độ; nó biểu trưng cho cái tâm giác ngộ trong suốt lặng lẽ, không còn tạp nhiễm một thứ gì dù chỉ nhỏ như hạt bụi. Cái thuần khiết trong suốt và tràn trề sức sống đó có khi được thể hiện là một không gian đơn sắc như “màu xanh biếc” (Phổ thuyết sắc thân kệ- Trần Nhân Tông, Tạ Đạo Huệ thiền sư- Nguyễn Trí Bảo), “màu trong suốt” (Thị tu Tây Phương bối- Tuệ Trung), không gian “đầy ánh sáng” (Đăng Bảo Đài sơn- Trần Nhân Tông); có khi là một âm thanh trong trẻo không lẫn tạp âm, hoặc thổi vào chốn hang trống, hoặc dừng bặt tất cả mọi âm thanh (An định thời tiết- Tuệ Trung, Độc Phật sự đại minh lục hữu cảm- Trần Thánh Tông, Nguyệt- Trần Nhân Tông); có khi là một mùi hương bao phủ khắp cả mặt đất (Đề Gia Lâm tự- Trần Quang Triều), có khi là tràn ngập hoa nở trên mặt đất (Thị học- Tuệ Trung) cũng có khi là một luồng hơi đêm lạnh lẽo trống không (Nguyệt- Trần Nhân Tông)…

Khi ấy, con người và vạn vật là một, không còn chia nhân- ngã, người- vật; tất cả đều bình đẳng và có có mặt ở bên trong nhau:

 Thúy trúc, hoàng hoa, phi ngoại cảnh

Bạch vân, minh nguyệt, lộ toàn chân.

(Nhật nguyệt- Thiền Lão)

(Trúc biếc, hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài

Mây trắng, trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn).

(Ngày tháng)

Cũng có lúc nhà sư cố gắng miêu tả cái tâm tánh giác ngộ của mình, nó hiện ra là một thứ vốn rộng lớn phi thường, lại chứa đựng trong nó sức mạnh huyền diệu vô biên khó mà diễn tả hết:

Hành, trụ, tọa, ngọa độc trác nhiên

Ứng hiện hóa thân bất khả lượng

Tuy nhiên sung tắc biến hư không

Quan lai bất kiến như hữu tướng

Thế gian vô vật khả tỉ huống

Trường hiện linh quang minh lãng lãng.

(Liễu ngộ thân tâm- Nguyện Học)

(Đi, đứng, ngồi, nằm riêng nó cao vòi vọi

Hóa thân ứng hiện không thể nào lường được

Tuy rằng đầy dẫy khắp hư không

Nhưng xem ra không thấy có hình tượng gì cả

Trên thế gian không có vật nào có thể so sánh được

Ánh sáng linh diệu biểu hiện không cùng và sáng vằng vặc).

(Hiểu rõ thân tâm)

Cái thế giới mà tự tánh giác ngộ mang lại vừa mênh mông lại vừa ngập tràn ánh sáng. Cái mênh mông và tràn đầy ánh sáng ấy xuất hiện nhiều trong thơ thiền. Khảo sát toàn bộ các bài thơ thiền có chứa không gian nghệ thuật, chúng tôi nhận ra khoảng 50 bài có nhắc đến ánh sáng. Tuy nhiên, một nửa không gian ánh sáng trong số đó miêu tả ánh sáng của bản thể tự tánh giác ngộ. Ánh sáng đó có khi được thể hiện là những sự vật phát sáng như: mặt trăng, mặt trời, đuốc, ánh đèn, luồng sáng; có khi được gợi lên từ những động từ chiếu, thông, quá (qua), minh (soi), xuất (mọc); có khi được gợi lên qua một loạt tính từ: minh (sáng), lãng lãng (sáng tỏ), hạo hạo (vằng vặc), mãn (đầy), tịch tịch (vắng lặng)…

 Phật nhật chiếu vô cùng

(Sắc thân dữ diệu thể I- Đạo Huệ)

(Mặt trời nhà Phật soi sáng khôn cùng).

(Sắc thân và diệu thể I)

Bên cạnh mặt trời, ánh trăng là hình ảnh rất có ý nghĩa trong thơ thiền. Trăng tồn tại từ muôn thuở, con người mới sinh ra thì trăng đã lơ lửng tỏa sáng trên đỉnh đầu rồi. Như vậy, những đêm ánh trăng không xuất hiện không phải là không có trăng mà trăng chỉ tạm thời chìm khuất ở đâu đấy, một khi bắt gặp ánh trăng tiêu diêu sáng tỏ thì lòng người vui mừng vô kể. Trăng được nói đến ở đây ngoài ý nghĩa ánh trăng quyến rũ của tự nhiên còn có nghĩa là ánh trăng vằng vặc sáng của bản thể giác ngộ.

 Như vậy, gắn liền với hình ảnh con người giác ngộ bản thể, sống an nhiên tự tại là một không gian trong suốt lặng lẽ, vạn vật của thiên nhiên và cuộc sống hoặc là được thể hiện một cách thuần khiết không pha tạp hoặc là được chiếu rọi bởi nguồn ánh sáng bất tận. Không gian thế giới hiện thực đó không còn nguyên vẻ như trong cảm nhận của con người bình thường mà được thanh lọc qua thế giới tâm cảnh của người giác ngộ, nên nó cũng được phủ lên một màn sương huyền diệu đầy năng lực. Đó là không gian hiện thực nhất của thế giới trong ngoài mà người giác ngộ tự tánh cảm nhận.

2.2.1.3. Không gian thế giới siêu nhiên Phật tiên, ma quỉ:

“Thơ thiền trước hết là thơ của con người siêu nghiệm, đứng ngoài sinh diệt, đau khổ. Nó phải biểu hiện ý thức về sự hiện hữu của con người theo quan điểm thiền học, đặc biệt là thái độ trước cái chết, sự tàn phai, biến ảo của cuộc đời” [19, 170]. Nhà sư chú trọng thể hiện triết lí thiền, sống tốt ở thực tại, ít khi nghĩ tới thế giới siêu nhiên huyền thoại đầy quyền lực. Thế nhưng cũng không ít lần trong thơ kệ của mình, nhà sư gợi lên không gian siêu nhiên của thế giới thần tiên ma quỉ.

Các thiền gia xây dựng thế giới siêu nhiên thần thánh ma quỉ không phải để gieo rắc nỗi sợ hãi hay mê tín vào lòng đệ tử hay đại chúng học đạo. Không gian ấy vốn dĩ gắn liền với thuyết giáo nhà Phật, nhưng với tinh thần phá chấp, thoát ra khỏi mọi giáo điều khuôn sáo triệt để, các thiền gia không vin vào đó để vướng mắc hay sai lầm phân biệt. Việc thể hiện không gian siêu nhiên đó một mặt phục vụ cho việc giáo huấn đệ tử, một mặt thể hiện triết lí thiền của mình.

Không gian đó được xây dựng có khi là không gian mà đức Phật A Di Đà luôn hiện hữu trong tự tánh của mỗi con người:

Tâm nội Di Đà tử má khu

Đông Tây Nam Bắc pháp thân chu

(Thị tu Tây Phương bối- Tuệ Trung)

 (Cái thân vàng cao quí của Phật Di Đà ở ngay trong lòng

Pháp thân chan hòa khắp Đông Tây Nam Bắc).

(Bảo những người tu Tây Phương)

Có khi là không gian địa ngục hay thiên đường với những cực hình ghê rợn. Người ta biết nhiều đến nó thông qua sách truyện của Phật giáo hay những truyện thần kì lưu truyền trong dân gian:

Phiền não bồ đề ám tiêu ma

Địa ngục thiên đường tự khô kiệt

Hoạch than lô thán đốn thanh lương

Kiếm thụ đao sơn lập tồi chiết

(Sinh tử nhàn nhi dĩ- Tuệ Trung)

(Phiền não và bồ đề ngầm tiêu ma hết

Địa ngục và thiên đường tự nó khô kiệt

Vạc dầu, lò lửa bỗng trở nên mát mẻ

Rừng gươm, núi đao lập tức đổ gãy).

(Sống chết là lẽ thường mà thôi)

Cũng có khi đó là thế giới hữu thần với các hình tượng nhân vật siêu nhiên thần tiên, ma quỉ đầy quyền năng và phép lực, thế nhưng cũng phải thuần phục trước sức mạnh tự tại của người giác ngộ Phật:

Vạn thần câu hướng hóa

Tam giới tận hồi tuyền.

Ngô sư hành hiệu lệnh

Tà quỉ thục cảm tiên

(Phật pháp- Khuyết Danh)

(Muôn vị thần đều hướng theo giáo hóa

Ba cõi đều trở về sự hồn toàn,

Nay sư ta thi hành hiệu lệnh

Ma quỉ đâu dám khinh nhờn).

(Phép Phật)

Nhìn chung, không gian siêu nhiên được xây dựng gắn liền với thế giới siêu nhiên, các đấng siêu nhiên đầy quyền lực. Không gian đó được vận dụng từ kinh kệ hay sách truyện Phật giáo, nó vốn không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới tâm cảnh con người. Chỉ có một vài tác giả viết về không gian này, tiêu biểu nhất là Tuệ Trung.

2.2.2. Không gian biểu tượng triết lí Thiền:

2.2.2.1. Không gian vận hành theo qui luật vô thường:

Không gian trong thơ thiền là không gian thể hiện cái tâm của con người giác ngộ thiền lí. Trong sáng tác của mình, các thiền gia chú trọng việc thể hiện sự chiêm nghiệm về các mặt mang ý nghĩa đối lập: vọng- thực, có- không, nhất thời- vĩnh cửu, động- tĩnh, hữu hạn- vô hạn…Để thể hiện một cách đầy đủ và thuyết phục về những phạm trù đó, thiền gia có thói quen sử dụng những thi liệu quen thuộc của thiên nhiên như: mùa thu, ánh trăng, gió, hoa, chim, nước, mây, núi…Những hình ảnh đó đầy chất thơ nhưng khi được sử dụng vào thơ của các thiền gia thì cũng đậm chất thiền. Chúng vừa gợi liên tưởng về cái hằng thường của bản thể, của qui luật, vừa gợi cái hữu hạn của thế giới vật chất cuộc đời.

Trong cảm thức của người tu thiền, dù không còn chấp trước, phân biệt đối đãi, nhưng những vấn đề mê- ngộ, phải- trái, lành- dữ luôn được họ ý thức rõ. Các thiền sư chủ trương trước tiên phải rèn luyện cho thiện tâm được thuần thục, tránh xa mọi tội lỗi vướng vào mình; đến khi “tìm được trâu”, “dẫn trâu về nhà”, “người trâu đều quên” rồi thì mặc tình mà “thõng tay vào chợ” (tranh chăn trâu Thiền tông). Vì có như vậy, con người sẽ không còn bị ràng buộc bởi thiện- ác, phải trái vì mỗi mỗi hành động, suy nghĩ, lời nói đều không còn là xấu ác nữa; mà dù cho có ác thì lời nói ác hay hành động ác ấy cũng nhằm mục đích thiện lành, tốt đẹp. Như vậy, triết lí thiền là một biểu hiện sinh động của tinh thần “tự giác giác tha” (tự giác ngộ cho bản thân sau đó giúp cho người khác giác ngộ) của các thiền gia, là sự thể nghiệm “sở chứng sở đắc” của mình.

Các thiền gia quan niệm cuộc đời này là giả hiệp vô thường, không có cái gì là trường tồn bất biến, không có gì là vĩnh hằng, chân thật cả:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

(Cáo tật thị chúng- Mãn Giác)

(Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa nở).

(Cáo bệnh dạy môn đồ)

Mọi thứ trong cuộc đời này đều phải tuân theo vòng quay của bánh xe vô thường ấy, kể cả thân mạng con người:

Thân như tường bích dĩ đồi thì

(Tâm không- Viên Chiếu)

(Thân như tường vách đã đến lúc đổ nát)

(Cái tâm là không)

Thể hiện cho triết lí vô thường, thế giới sự vật của không gian đó mang những phẩm chất vốn là “tiền giả định bách khoa” có sẵn trong nhận thức của con người. Không gian diễn tả cho triết lí vô thường luôn là không gian biến đổi, vận hành. Trong đó, thế giới sự vật thường yếu ớt mỏng manh, dễ tan biến như: sương, lộ; có khi nó diễn ra chớp nhoáng, không tồn tại lâu với thời gian như: lôi (sấm), điện (chớp), phi tiễn (tên bay); có khi sự vật luôn di động, thay hình đổi dạng không ngừng nghỉ: phù vân (mây nổi), phi vân (mây bay), bạch y thương cẩu (mây hình áo trắng chó xanh), hoa khai hoa lạc (hoa nở hoa tàn); cũng có khi không gian mà sự vật đang bị hư hại, xuống cấp trầm trọng: tường bích dĩ đồi (tường vách mục nát)…Không gian đó dễ dàng gieo vào lòng người niềm trắc ẩn về cuộc đời bể dâu, vô thường không chân thật, khơi gợi ý chí tu hành mạnh mẽ.

 Đôi lúc, không gian chật hẹp, ngột ngạt của tù ngục hiện ra là biểu tượng cho cuộc đời khổ đau mà con người không có niềm tự do an lạc, một khi thoát khỏi không gian mất tự do của “lung”, “tù”, “quynh”, “lao” đó thì con người sẽ được cởi trói, sống đời sống an nhiên tự tại:

 Lao quan khiêu xuất vạn trùng quynh

Động như phong cốc phong xao hưởng

Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt lậu minh)

(Độc Phật sự Đại Minh lục hữu cảm- Trần Thánh Tông)

(Đã nhảy ra khỏi vạn tầng cửa tù ngục

Động thì như tiếng gió vang trong hang trống

Tĩnh thì như ánh trăng lọt xuống đầm lạnh).

(Cảm xúc khi đọc Phật sự Đại Minh lục)

Đối lập với cái không gian luôn vận động vô thường ấy là không gian mà sự vật thường hằng, không thay đổi dù hoàn cảnh có khắc nghiệt như thế nào đi chăng nữa. Đó là hình ảnh “cành hoa trong lò lửa” (Sắc thân dữ diệu thể II- Đạo Huệ) vẫn giữ mãi sắc xinh tươi, là “đoá sen nở hoa trong lò lửa hồng” (Phật tâm ca- Tuệ Trung), là “ngọc bị thiêu trên núi màu vẫn luôn tươi nhuần”, “hoa sen nở trong lò lửa mà vẫn ướt chưa hề khô” (Thị tịch- Ngộ Ấn), là “cành mai nở trước sân nhà” (Cáo tật thị chúng- Mãn Giác)… Tất cả không gian ấy biểu trưng cho cái bản thể hằng thường, bất diệt, vượt lên trên qui luật sinh diệt của cuộc đời.

Nhiều thiền gia viết về không gian mang tính chất mộng tưởng, ở đó, nhà thơ trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, nửa tỉnh nửa mê, nửa hư nửa thực (Diên Hựu tự- Huyền Quang, Hoa điệp- Giác Hải)… Phải chăng nhắc đến không gian mộng tưởng đó, nhà sư muốn triết lí về sự mộng huyễn của thế gian này.

Cái vô thường, ngắn ngủi của vạn vật và đời người cần phải hiểu đúng và theo hướng tích cực. Đó không phải là tư tưởng bi quan yếm thế để con người xem nhẹ, trốn tránh cuộc sống. Nhà sư coi mọi biến đổi của thế sự cũng như không nên không còn sợ hãi, kinh ngạc mà ngược lại còn tỏ ra điềm nhiên, bình thản trước mọi việc. Hơn thế nữa, họ khao khát được sống an nhiên tự tại, ung dung giải thoát khỏi mọi ràng buộc của kiếp sống trần tục đầy bó buộc, thậm chí có người muốn giải phóng theo cá tính riêng của mình. Đó thực sự là một thái độ tích cực lạc quan, một tinh thần khoan dung cởi mở, một tâm hồn phóng khoáng và giàu chất nhân bản của thiền gia. Điều này càng tạo nên một khí sắc độc đáo, hòa lẫn đạo với đời của Phật giáo Thiền tông thời Lí- Trần.

Tóm lại, không gian biểu tượng cho triết lí vô thường là không gian mà mọi sự vật hiện tượng trong nó luôn vận động và biến đổi. Sự vận động và biến đổi ấy diễn ra theo vòng tuần hoàn của thời gian, tiêu biểu nhất là các mùa trong năm (xuân- hạ- thu- đông), các buổi trong một ngày (sáng- trưa- chiều- tối), ngày này qua ngày khác hay năm này qua năm khác. Cũng có khi sự biến đổi ấy diễn ra theo hướng xấu đi và tiến đến huỷ hoại…Các sự vật trong không gian đó thường nhỏ nhoi, yếu ớt, không tồn tại lâu trong cuộc đời này. Cách hiểu và đánh giá về bản chất của sự vật ấy đã trở thành một lối mòn vốn rất quen thuộc trong quan niệm người tu hành theo đạo Phật.

2.2.2.2. Không gian vạn vật  tồn tại “như nhiên” vốn có:

Giác ngộ ra qui luật vô thường của cuộc đời không phải để sợ sệt hay đau khổ mà theo các thiền sư, chỉ có nhàm chán luân hồi sinh tử mới thoát khỏi khỏi luân hồi sanh tử, chỉ có xa lìa cái vô thường mới đạt được cái hằng thường. Hiểu rõ qui luật vô thường là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người tiến bước trên con đường cầu đạo. Thế nhưng, sẽ vẫn chưa đủ nếu con người không có con đường đi đúng đắn. Không gian tồn tại “như nhiên” vốn có được mở ra để nhà sư mượn đó giáo huấn về cách sống ở đời. Cách sống “như nhiên” ở đây là cách sống bình thường như nó vốn có, không cần gò ép vào khuôn khổ. Theo đó, con người hãy sống bình thản lặng lẽ, mộc mạc hồn nhiên, không cần dụng tâm, câu chấp hay phân biệt nhị nguyên như vạn vật sống theo qui luật vận động tự thân của nó:

Chúng tinh củng bắc, thủy triều đông

(Vạn sự qui như- Tuệ Trung)

(Các ngôi sao đều hướng về bắc, nước chảy về đông).

(Muôn sự qui về chân như)

“Các ngôi sao đều hướng về bắc”, “nước chảy về đông” là hình ảnh các sự vật trong thế giới tự nhiên luôn vận động. Nhưng sự vận động ở đây không diễn ra theo dòng tuần hoàn khép kín, cũng không phải theo hướng suy tàn như không gian thể hiện triết lí vô thường. Mà các sự vật ấy vận động theo trạng thái vốn có, theo bản tánh tự nhiên không thể sai khác của nó. Nó vốn là vậy và vận động cũng như vậy, không cần suy tính hay lo lường sau trước:

Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận

Thiên phong xuy bất giản cao đê

Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc

Liên nhụy hồng hương bất trước nê

(Thị chúng- Tuệ Trung)

(Trăng xưa soi rọi chẳng kể gì xa hay gần

Gió trời thổi lộng không chọn nơi cao hay thấp

Ánh sáng mùa thu lúc đen lúc trắng tùy theo duyên sắc

Nhụy sen đỏ thơm chẳng nhuốm bùn).

(Bảo mọi người)

Các sự vật vốn có thể thích ứng trong mọi hoàn cảnh để tồn tại. “Trăng xưa”, “gió trời”, “ánh sáng mùa thu”, “nhuỵ sen thơm đỏ” đều sống một cuộc sống chẳng có gì lạ giữa cuộc đời này. Đó là qui luật tồn tại bình thường của chúng và triết lí thiền của bài thơ nằm khuất trong điều bình thường đó. Tu hành, giác ngộ trong suy nghĩ của nhà sư cũng hết sức bình thường bởi tự tánh giác ngộ luôn tồn tại bình thường và đâu phải sở hữu của riêng ai, nó vẫn còn đó dù bao biến chuyển đổi thay của thời cuộc. Con người cũng vậy, hà tất gì phải dụng tâm phân biệt để càng vướng sâu vào sai lầm, không dứt bặt mọi suy nghĩ lo toan để trở về với bản thể thanh tịnh. Và đến khi con người đã giác ngộ rồi, hãy sống bình thản lặng lẽ cùng với tự tánh cũng vốn bình thản lặng lẽ:

Sơn vân dã hữu xuất sơn thế

Giản thủy chung vô đầu giản thanh

Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu

Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh

(An định thời tiết- Tuệ Trung)

(Mây núi đã có cái thế ra khỏi núi

Nước suối rốt cuộc không có tiếng của vật gì ném vào lòng suối

 Hằng năm hoa vẫn nở vào tháng ba

Sáng sáng gà vẫn gáy vào canh năm).

(Thời tiết yên định)

Đằng sau hình ảnh thế giới tự nhiên sống và vận động theo qui luật bình thường vốn có, không cần dụng tâm suy lường toan tính; các thiền sư muốn giáo huấn và khuyên nhủ hành giả thoát khỏi những khuôn khổ giáo điều, phân biệt chấp trước, sống cuộc sống hồn nhiên tự tại chân thật.

Trong thơ thiền Lí- Trần, không gian thiên nhiên có tác dụng chuyển tải một hệ thống triết lí thiền khá to lớn. Nhìn bất cứ khung cảnh thiên nhiên nào, nhà thơ cũng nhận ra qui luật cuộc đời chi phối sự vận hành của nó. Một khi nhận ra điều đó, các thiền giả đều muốn đúc kết thành một triết lí gì đó để tự chiêm nghiệm hay truyền đạt cho đệ tử. Vì thế, ta hiểu vì sao tác giả Trần Đình Sử nhận định: “So với thơ thiền Trung Quốc như của Vương Duy thì thơ thiền ViệtNamthuộc loại thơ thiền sư nhiều hơn là thơ thi nhân” [25, 199]. Nói như vậy có nghĩa là so với thơ thiền Đường Tống, thơ thiền Lí- Trần nặng về chất thiền hơn chất thơ.

Như vậy, không gian nghệ thuật trong thơ thiền là một không gian đa không gian. Trong đó, mỗi không gian đều được phản ánh qua cái nhìn đầy cảm hứng thiền của tác giả. Có lẽ do gắn bó nhiều với không gian thiên nhiên nên ta ít thấy không gian văn hoá, không gian cuộc sống lao động trong thơ thiền. Gắn liền theo nó là khung cảnh thiên nhiên với đủ sự vật và hiện tượng, đủ mọi âm thanh và màu sắc. Không gian trong thơ thiền luôn là không gian hữu tình, sinh động và tràn đầy sức sống. Nó có lúc bao la mênh mông, có khi tập trung qui chiếu về một sự vật nhỏ nhoi mỏng mảnh, thế nhưng trong trường hợp nào, nó cũng gợi lên chiều sâu hun hút trong tâm hồn con người, khơi gợi nhiều cảm xúc sâu kín, tinh tế mà hiếm khi con người có được.

Xét từ phương diện mục đích sáng tác, vào thời Lí, nhiều thiền gia sáng tác thơ thiền nhằm thể hiện sự chứng ngộ, giải thích triết lí Thiền tông bằng sự trải nghiệm của mình, nên ở thơ thiền lúc này, chất thiền đậm hơn chất thơ. Ngược lại, thơ thiền đời Trần giàu chất thơ hơn bởi lẽ các thiền gia ngoài việc chú trọng giải ngộ triết lí Thiền tông, họ còn muốn phản ánh cuộc sống hay cảm xúc chân thật của mình trước thiên nhiên vạn vật. Thậm chí có thể xem những bài thơ sáng tác trong thời gian này mang tính mua vui trong những lúc nhàn nhã, do đó thơ thiền ngày càng giống thơ vịnh cảnh thiên nhiên hơn, các thiền gia càng giống các Nho sĩ hay Đạo sĩ sống ẩn dật hơn. Nên càng về sau, thơ thiền càng đậm chất thơ hơn và không gian nghệ thuật ngày càng hiện rõ hơn. Tuy nhiên, dù ở thời điểm nào, nhà sư cũng nhìn đời, quan sát thế giới xung quanh bằng cặp kính nhuốm màu thiền của người giác ngộ Phật tánh; xuyên qua lớp kính đó, khung cảnh dù có hiện thực nên thơ như thế nào đi chăng nữa thì ít nhiều cũng bị phủ lên đó một chút màu sắc thiền, nó phảng phất đâu đó trong từng bài thơ, làm nên cái đẹp hiếm gặp trong thơ thiền trước đây.

3. Không gian nghệ thuật trong thơ thiền của một số tác giả

tiêu biểu:

Ở thời Lí, dù có nhiều người sáng tác thơ thiền nhưng số lượng tác phẩm ít, mỗi tác giả có thường vài ba bài thơ, thậm chí có người chỉ còn lại duy nhất một bài thơ. Vì thế, để viết về không gian nghệ thuật trong thơ thiền của một số tác giả tiêu biểu, người viết đành phải chọn một số tác giả sáng tác nhiều thơ thiền, mà trong đó, chủ yếu là các thiền sư đời Trần.

3.1. Không gian nghệ thuật trong thơ Huyền Quang- Không gian của tâm hồn đạt đạo:

Sáng tác của Huyền Quang còn lại không nhiều, thế nhưng những bài thơ của ông dễ dàng để lại trong lòng người đọc niềm cảm xúc. Đọc thơ Huyền Quang, ta thấy tâm hồn mình được thanh lọc bởi một tâm hồn trong trẻo thuần khiết của nhà sư giác ngộ Phật tánh. Nhà thơ không lí luận nhiều về những triết lí cao siêu, không “thị chúng” hay “vấn đáp” với thiền giả, không luận bàn hay khuyến tu với bạn đạo; mà ông chỉ lẳng lặng miêu tả không gian và trải lòng mình sống trong không gian ấy với những tình cảm chân thành và hồn hậu nhất. Từ không gian đó, ta nhận ra tư thế ung dung, an nhiên; tâm hồn sáng trong thanh thoát của một thiền gia ngộ đạo.

Là một nhà sư từ nhỏ có khiếu ngôn ngữ văn chương, lại mê thú chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên, thích sống ẩn dật tu hành nơi rừng núi; những yếu tố đó góp phần tạo nên một Huyền Quang vừa là thiền sư, đồng thời cũng là một thi sĩ nổi tiếng đời Trần. Nói như thế cũng chưa đủ bởi nếu không có khung cảnh thiên nhiên, nơi nhà sư sống ẩn dật tu hành trong hầu như những tháng ngày nửa sau cuộc đời mình thì chắc chắn thơ Huyền Quang sẽ kém đi phần quyến rũ. Sống cuộc sống ẩn dật ở chốn vắng vẻ cô tịch, hơn bất cứ thứ gì hết, rừng núi, suối hồ, trăng thanh gió mát, cây cối hoa cỏ là người bạn thân thiết nhất mà nhà sư ngày ngày đối mặt, ngắm nghía, thưởng ngoạn:

Dạ khí phân lương nhập họa bình

Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh

(Hơi đêm tỏa mát vào bức bình phong vẽ

Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu).

(Tảo thu –Thu sớm)

Nhà sư mở rộng lòng mình đón nhận những thứ nhỏ bé đơn sơ nhất của thiên nhiên, cũng giống như mở rộng lòng từ bi đón lấy những sinh linh bé bỏng nhỏ nhoi hữu tình không thể thiếu được trong cuộc đời này. Đó là hạt sương hạt móc nhẹ nhàng rơi lên cỏ cây, là bông hoa cúc hé nở giữa đêm mát trong báo hiệu mùa thu đã đến (Cúc hoa IV–Hoa cúc IV); là con thuyền nhỏ giữa trăng nước bao la, mà ở đó, nhà sư lắng tai nghe tiếng sáo thuyền chài véo von văng vẳng trong đêm thu hắt hiu, tịch mịch (Phiếm chu– Đi thuyền)

Nhà sư tỏ ra say sưa với khung cảnh thiên nhiên nên thơ tươi đẹp xung quanh mình. Trong con mắt thiền sư, đây không phải là một không gian cứng đờ, khô héo mà ngược lại, nó là một không gian trữ tình nên thơ đầy màu sắc và âm thanh, giống như một làn sóng cuốn hút lòng người mãi mê ngụp lặn. Chả trách tại sao nhà thơ thoát tục ấy không hờ hững với những cánh hoa rụng, không bỏ mặc trăng trong gió mát, cúc nở sương rơi, nhà sư rộng mở lòng mình đến với thiên nhiên để nhận ra hết vẻ đẹp của nó, cảm thấy thỏa thích như được về với chính tâm tánh của mình…Không có một tình yêu thiên nhiên thiết tha, một sự tĩnh lặng tập trung đến cao độ, một tâm hồn cởi mở muốn giao hòa với vạn vật thì nhà sư làm sao cảm nhận được những sự vật trong bức tranh nên thơ, những biến động nhỏ bé của thiên nhiên trong khung cảnh huyền diệu ấy?

Bên cạnh không gian thiên nhiên đời thường nhàn tản thoát tục ấy, ta nhận ra không gian sinh hoạt bình lặng nhất của một người tu hành. Nơi đó có con đường đi, am thiền, chuông chùa, bóng tháp…

Thượng phương thu dạ nhất chung lan

Nguyệt sắc như ba phong thụ đan

Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh

Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.

(Đêm thu, trên chùa một tiếng chuông đã tàn

Ánh trăng như sóng, cây phong thắm đỏ

Bóng xi vẫn ngủ được dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá

Ánh tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt).

(Diên Hựu tự -Chùa Diên Hựu)

Không gian cô tịch lặng lẽ của chốn tu hành càng gợi niềm thanh thản thoát tục. Cảnh vật dường như có hồn, có sự sống. Hình con chim bằng đá xây chạm trên nóc chùa (xi vẫn) in bóng xuống mặt hồ mà nhà thơ tưởng như đang ngủ, mặt hồ lúc này trở thành tấm gương vuông lạnh giá, ngọn tháp thì được ví như ngón tay ngọc rét buốt. Đó là bức tranh của cõi tâm linh hun hút vô tận mà con người ngắm hoài không biết mỏi. Nhà sư không còn vướng bận sự đời, hòa mình vào không gian tĩnh mịch ấy để nhận ra triết lí tu hành, giác ngộ chân lí Phật pháp.

Trong không gian cuộc sống sinh hoạt, đôi lúc nhà sư tỏ ra bận bịu với công việc bếp núc vốn hết sức quen thuộc hằng ngày. Củi lửa, khói hương, mảnh cây, ống thổi, chú bé trong núi hỏi về chương sách ngắn…(Địa lô tức sự -Trước bếp lò tức cảnh) hiện lên một cách tự nhiên trong thơ Huyền Quang. Thiền sư đôi lúc tỏ ra vụng về, lóng ngóng; thế nhưng tràn ngập trong bài thơ là một tâm hồn mộc mạc, chân thành, hồn hậu, vui với lẽ đạo mà mình bắt gặp được trong cuộc sống. Lẽ đạo đó nhà thơ tìm thấy trong không gian cuộc sống đời thường bình dị, lặng lẽ chứ không ở chốn trời nước mênh mông, không phải trong trang kinh lời kệ. Nhà sư an nhiên tự tại đầy thỏa thích, đó không phải là thỏa thích theo kiểu hô phong hoán vũ, đạp gió cưỡi mây ngao du bồng lai tiên cảnh; mà đó là niềm thỏa thích nhẹ nhàng như dòng suối lai láng mênh mông chảy ra từ nguồn mạch vô tận của cuộc sống dung dị bình thường.

Cũng có lúc nhà sư gợi nên một không gian mà ở đó con người quên đi tất cả để trở về sống với thực tại, thậm chí có lúc quên đi cả thực tại để sống với bản thể chân thật của chính mình, hay chính xác hơn là không để gì cả. Nhà sư đã hòa nhập vào cuộc sống hiện tại, hòa nhập đến cao độ để không còn nhận ra mình đang sống giữa hiện tại đó, không còn nhận ra sự tồn tại của mọi sự vật xung quanh mình. Nói như vậy không có nghĩa đến lúc này, tâm hồn của nhà sư vô vị, trống phỗng như gỗ đá; mà ngược lại, tâm hồn đó đầy ắp đến cao độ nên không thể dung nạp thêm gì được nữa. Nhà sư sống giữa cuộc đời, mê mãi nhìn ngắm thiên nhiên, đất trời vạn vật với một tâm niệm duy nhất là “vô tâm niệm”, không còn phân biệt hay tách rời bản ngã với vạn vật xung quanh, vì thế mà có những câu thơ như:

Vong thân, vong thế, dĩ đô vương (vong)

Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật

Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

(Quên mình, quên đời, đã quên hết cả

Ngồi lâu trong hiu hắt, cả giường mát lạnh

Cuối năm ở trong núi không có lịch

Hoa cúc nở tức là đã đến tiết Trùng dương).

(Cúc hoa III– Hoa cúc III)

Phút giây “quên” kì diệu đưa con người vượt qua thế giới hữu hạn đến cõi bờ của một không gian vĩnh hằng. Ngồi hồi lâu nhà sư mới chợt nhận ra cái lạnh của giường thiền, sống trong núi cô tịch không biết ngày tháng, hoa cúc báo hiệu cho nhà sư sực nhớ đến tiết Trùng dương. Trong con mắt của nhà sư- một con người giác ngộ- thì cái không gian quên ấy mới chính là thực tại đích thực mà ở đó, con người mới sống trọn vẹn nhất trong cái bản thể hằng hiện hữu.

Đọc thơ Huyền Quang, chúng ta còn nhận ra một loại không gian khác chiếm vị trí khá quan trọng là không gian tràn đầy ánh sáng của một người giác ngộ tự tánh. Nói là không gian đầy ánh sáng không có nghĩa là xung quanh nhà thơ đầy ánh sáng, nhà thơ không sống trong bóng tối của những đêm dài hiu hắt. Mà ánh sáng được đề cập đến ở đây là ánh sáng của tự tánh, của tuệ giác; dường như ánh sáng đó soi tỏ cả cõi tâm thức nhà thơ, khúc xạ qua nhiều lớp lang của tâm hồn rồi mới chiếu thẳng đến nhiều câu thơ của ông. Không gian muốn tràn đầy ánh sáng thì trước tiên phải có cái nền là “trời quang mây tạnh”, bởi nếu như trời âm u tăm tối thì làm gì ánh sáng xuyên qua lớp lớp không khí để tỏa đi khắp nơi, làm gì có ánh sáng rạng rỡ như thế này để nhà sư cảm nhận:

Sơn thanh thủy lục hựu thu quang

(Sáng ánh thu xanh bóng nước mây)

(Phiếm chu –Đi thuyền)

Cũng giống như vậy, một nhà sư tu hành phải phủi sạch lớp bụi trần ai, trút bỏ mọi ham muốn trong cuộc đời mới có thể tìm thấy ánh sáng tuệ giác. Để diễn đạt cho cái ánh sáng bất tận đó, tác giả hay dùng hình ảnh ánh trăng. Ánh trăng chiếu sáng soi rõ vạn vật là một hình ảnh đầy ý nghĩa, nó không chỉ là ánh trăng của thiên nhiên đang tròn đầy viên mãn, tỏa ánh sáng tuyệt diệu khắp đất trời, mà nó còn là ánh trăng tâm thức của người giác ngộ bản thể, tất cả lộ ra vằng vặc như chưa từng bị che khuất. Bóng tối của thiên nhiên thì vẫn còn nhưng bóng tối của tự tánh được quét sạch bởi bóng trăng lung linh sáng tỏ ấy. Khi ấy, sông núi mây nước, khóm cây cành cây lộ rõ mồn một:

Trúc đình vong thích hương sơ tận

Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.

(Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt

Từng khóm, từng khóm cành cây giăng lưới vầng trăng sáng).

(Tảo thu –Thu sớm)

Không gian trong thơ Huyền Quang không phải là một khách thể, nó là không gian cuộc sống mà nhà thơ hòa mình vào trọn vẹn, cũng có lúc là không gian mang ý nghĩa biểu tượng cho sự chiêm nghiệm triết lí của nhà sư, cũng có khi không gian ấy là người bạn đem lại niềm vui hay báo tin cho nhà sư những điều hay quên trong cuộc sống. Đọc thơ Huyền Quang, ta nhận thấy nhà thơ trải qua đời sống tu hành trong không gian êm đềm nhất với những sinh hoạt hết sức bình thường. Thơ ông không nghiêng về lí luận, chỉ tả cảnh và kể việc giản dị, giọng thơ dí dỏm hồn nhiên nhưng ẩn chứa bên trong những triết lí thiền sâu sắc.

  3.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Trần Thái Tông- Không gian tượng trưng triết lí thiền và không gian thể hiện mối tương quan giữa ánh sáng và bóng tối :

Để tiếp cận không gian nghệ thuật trong thơ Trần Thái Tông theo một hướng mới, chúng tôi chọn lọc và tìm hiểu hai kiểu không gian nổi bật nhất này trong thơ thiền cuả tác giả này.

Là vị vua đầu tiên của triều đại nhà Trần, vốn là vị vua có tài năng, tính tình khoan dung nhân hậu và hết lòng yêu thương dân chúng, Trần Thái Tông đã lãnh đạo nhân dân đời Trần đánh tan quân xâm lược Nguyên- Mông lần thứ nhất, đưa đất nước bước vào gian đoạn phát triển thịnh vượng. Ngoài thời gian lo việc nước, ông rất chăm chỉ đọc sách và nghiên cứu kinh điển Phật giáo, đó là nguyên nhân giải thích vì sao thơ thiền Trần Thái Tông mang mang đậm màu sắc triết lí. Ông đã trở thành một tác gia văn học với những tác phẩm nổi tiếng về triết học Phật giáo.

Không gian nghệ thuật trong thơ thiền Trần Nhân Tông phần lớn là không gian biểu trưng cho triết lí thiền. Tác giả thường sử dụng những điển cố trong kinh sách Phật giáo, những hình ảnh được nhắc trong lời thuyết pháp, dạy đạo của tổ sư hay trong điển tích văn học Trung Quốc trước đó để bộc lộ suy nghiệm của mình về đời sống tu hành. Do đó, thơ Trần Thái Tông đậm đà ý vị triết lí hơn chất thơ. Khảo sát toàn bộ 7 bài thơ thiền của Trần Thái Tông trong cuốn Thơ thiền Lí- Trần [13] của tác giả Đoàn Thị Thu Vân, chúng tôi nhận thấy có ít nhất 6 bài sử dụng không gian mang ý nghĩa biểu trưng cho triết lí thiền, trong khi đó chỉ có 3 bài tác giả miêu tả khung cảnh thật của thiên nhiên và cuộc sống xung quanh. Tuy nhiên, khung cảnh đó cũng phảng phất hương vị giải thoát, mang ý vị thiền của người giác ngộ chân lí đạo Phật. Đi sâu phân tích 6 bài có sử dụng hình ảnh không gian ẩn dụ cho triết lí thiền, chúng tôi phát hiện ra trên 10 lần tác giả dùng hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng.

Nếu không gian thiên nhiên và cuộc sống hiện lên với hình ảnh: gió thổi, cửa thông, trăng chiếu, sân nhà, con đường, ánh sáng ban mai, bầu không…thì không gian mang ý nghĩa biểu tượng được xây dựng với một loạt những khung cảnh: mây cuốn trời quang tạnh, núi hiện chân trời, màu xanh biếc, đường đến Trường An, băng gặp nắng trời, ngọn đèn trước gió, non tây, rừng tà, ý ngựa, lòng vượn, quạ vàng khuất núi, thỏ ngọc nhô lên, lạc nhà nghìn dặm, cá trên mặt nước…

Tác giả sử dụng hình ảnh thiên nhiên để phát biểu suy nghiệm của bản thân mình về lẽ đời. Cuộc đời này dưới con mắt của nhà thơ chỉ là một cuộc đời hư ảo, giả hiệp vô thường, không chân thật:

Nhật xuất hoàn tương một

Thân phù hựu phục trầm.

(Mặt trời mọc rồi sẽ lặn

Tấm thân nổi rồi lại chìm).

(Nhật một vô thường kệ -Bài kệ vô thường buổi chiều)

Vạn vật luôn vận động biến chuyển theo qui luật đời thường, chẳng có gì là trường cửu vĩnh viễn. Còn thân mạng của con người cũng chỉ là giả tạm, cuộc đời chớp nhoáng trong khoảnh khắc ít ỏi:

Thân như băng kiến hiệu

Mệnh tự chúc đương phong

(Thân như băng gặp nắng trời

Mệnh như ngọn đền trước gió).

(Sơ nhật vô thường kệ – Bài kệ vô thường buổi sớm)

Băng sẽ tan khi gặp ánh nắng mặt trời, ngọn đèn sẽ tắt khi ra trước gió. “Băng” và “đèn” đã trở thành hai hình ảnh sinh động minh họa cho sự ngắn ngủi của kiếp người, nó đối lập với cái trường cửu của tự nhiên vô cùng vô tận mà “nắng trời”, “gió” là hình ảnh biểu tượng. Hai câu thơ như lời cảnh tỉnh của nhà thơ đối với những người sống “buông thả cái ý ngựa”, “không dừng cái lòng vượn”, đến nỗi phải bị lạc vào “rừng tà”, “không biết trăng mọc mà thức dậy”, “suốt ngày chỉ quyến luyến cùng hoa”, hậu quả tất yếu dẫn đến là họ sẽ “lạc xa nhà nghìn dặm”. Nhà thơ kêu gọi mọi người tỉnh ngộ, không mê đắm vào những cái giả tạo để rồi “lạc lối nơi đất khách quê người”.

Thiền gia khẳng định tự tánh giác ngộ luôn có sẵn trong mỗi con người mà từ bấy lâu nay, họ nhọc công tìm kiếm xa xôi, vọng cầu ở bên ngoài để rồi si mê lầm lạc. Do đó, bất cứ ai cũng có thể trói buộc con ngựa tâm tưởng của mình và tìm ra con đường chân lí đi đến giác ngộ Phật pháp. Khi con người thấu hiểu chân lí Phật pháp và trở về với bản thể giác ngộ thanh tịnh rồi thì lúc đó:

Thùy tri vân quyển, trường không tịnh

Thúy lộ thiên biên nhất dạng san.

(Có ai hay khi mây cuốn đi thì cả bầu không quang tạnh

Núi hiện chân trời, biếc một màu).

(Phổ thuyết sắc thân kệ -Bài kệ bàn rộng về sắc thân)

Đó là màu xanh biếc bình đẳng của vạn vật trong cuộc đời này, màu xanh biếc vĩnh cửu mà khi đó con người đánh giá về sự vật không hề sai lầm chấp trước. Đối với người giác ngộ chân lí thiền thì đây là niềm vui bất tận, là niềm an lạc vô biên khi thoát khỏi mọi trói buộc của thất tình lục dục hay tà kiến phân biệt. Sự giác ngộ đó dẫn nhà sư đến ánh sáng của tuệ giác, của bản thể thường hằng thanh tịnh, thoát khỏi bóng tối dằng dặc lờ mờ che phủ bấy lâu nay. Nhận ra ánh sáng tràn đầy không giới hạn ấy và sống trọn vẹn trong nó, bóng tối của thực tại không còn là gì đối với nhà sư nữa. Đó là lí do vì sao đọc thơ thiền Trần Thái Tông, ta thấy xuất hiện nhiều lần hai loại không gian đối lập: không gian tràn đầy ánh sáng và không gian che phủ bởi bóng tối. Khảo sát những 7 bài thơ thiền của Trần Thái Tông trong cuốn Thơ thiền Lí- Trần [29], chúng tôi nhận thấy trên dưới 10 lần tác giả đề cập đến ánh sáng và ít nhất 3 lần tác giả gợi lên hình ảnh bóng tối. Để thể hiện sự tràn đầy của ánh sáng, nhà thơ dùng một loạt từ ngữ hoặc là trực tiếp nói tên sự vật hoặc trực tiếp miêu tả sự vật đó: ánh trăng (4 lần), mặt trời (2 lần), đèn, đuốc, luồng sáng (2 lần), chiếu (2 lần), minh, trong trẻo…

Ánh sáng trong thơ thiền Trần Thái Tông có khi đó là ánh trăng chiếu sáng trên sân, là con đường về dưới trăng ít người đi, là thỏ ngọc lấp lánh nhô lên khỏi biển, là ánh trăng mọc giữa đêm khuya để người ngủ thức dậy nhìn ngắm; có khi lá ánh mặt trời mọc lên rồi lặn khuất, là quạ vàng nằm gác sườn núi; có khi là luồng ánh sáng (nhất đạo thiềm quang) trên mặt đất lạnh lẽo, là ánh sáng ban mai (thần quang) hiện dần giữa bầu không; có khi là ngọn đuốc của nhà người, ngọn đèn của nhà mình… Ánh sáng đó nhiều lúc là ánh sáng thuần túy của không gian hiện thực, đôi khi ẩn dụ cho ánh sáng soi đường tìm đến chân lí, cũng đôi lúc là ánh sáng hằng hữu trong tâm thức của người giác ngộ Phật tánh… Bên cạnh ánh sáng, bóng tối u mê lầm lạc cũng là một nỗi ám ảnh lớn của nhà sư trên con đường đi tìm chân lí. Cụm từ “dạ sắc” (màu đêm) xuất hiện 2 lần gợi nên không gian đêm tối hoang lương, mênh mông dằng dặc. Khi chiều tối đến (mộ), màn đêm buông phủ xuống khắp nơi, thì “hôn cù nhiễu nhiễu hựu trùng tăng” (con đường tối tăm rối bời lại càng tăng thêm). Không gian càng tối, quyết tâm vươn tới ánh sáng của con người càng mãnh liệt hơn:

Mạc tác trường niên khách

Chung qui tảo chiếu công

(Chớ làm người khách trọ mãi mãi

Cuối cùng hãy quay về với công soi rọi sớm).

(Sơ nhật vô thường kệ- Bài kệ vô thường buổi sớm)

Giải thích nguyên nhân tại sao lại có những hiện tượng trên không phải là điều quá khó. Những bài thơ này đều được trích từ tập Khóa hư lục của Trần Nhân Tông, đây đều là những bài kệ mang tính chất giáo huấn, lí luận về Phật pháp và giải ngộ những gì lãnh hội được trên con đường tầm đạo. Do tác giả chú trọng phát biểu triết lí thiền, thuyết giáo cho người đối diện nên miêu tả thiên nhiên cũng cốt yếu thể hiện mục đích chính của mình. Thế nên cách cảm nhận về thiên nhiên của nhà thơ chưa cụ thể, chưa rung động mãnh liệt, sâu sắc như những tác giả về sau.

Nhìn chung, dù viết về nhiều loại không gian, nhưng lúc nào tác giả cũng thể hiện phong thái ung dung tự tại của một con người ngộ đạo. Con người và thiên nhiên hòa điệu, không còn phân biệt nhân ngã là giây phút an lạc vô hạn vô biên mà nhà sư luôn ca ngợi và hướng tới. Qua thơ của Trần Thái Tông, ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh một con người say mê chiêm nghiệm và giải ngộ chân lí Phật pháp. Nếu đọc thơ Huyền Quang hay Trần Nhân Tông, ta nhận ra bóng dáng những con người hòa mình vào thiên nhiên bao la thoáng đạt, sống giữa không gian mênh mông cô tịch đó với một cảm giác an nhàn tự tại, như nhiên vô vi giống như đang sống với bản thể giác ngộ đầy an vui hoan lạc; thì đọc thơ Trần Thái Tông ta nhận ra hình ảnh một con người sống trong thư phòng, bên trang kinh quyển sách cùng với chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ. Chả trách vì sao nhà thơ không nhìn thấy trời mây bao la, hư không mênh mông huyền diệu, không hòa mình vào trăng trong gió mát. Như vậy có thể thấy, cảm hứng chủ đạo trong thơ thiền Trần Thái Tông là giải ngộ triết lí thiền mà không gian nghệ thuật là minh chứng cụ thể nhất.

3.3. Không gian trong thơ thiền Tuệ Trung Thượng sĩ- Không gian vũ trụ và không gian mang ý nghĩa biểu tượng:

Vừa là một dũng tướng có công lớn trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên- Mông, vừa là một nhà thiền học nổi tiếng, Tuệ Trung Thượng sĩ- Trần Tung chắc chắn có được một vị thế cao trong triều đình phong kiến thời bấy giờ. Sáng tác nhiều thơ thiền vừa để thể hiện cảm xúc thiền của mình, vừa để thể hiện triết lí thiền tự do phóng khoáng, không câu chấp giáo điều khi xã hội đã bước sang một thời đại mới; ta hiểu vì sao không gian biểu tượng triết lí Thiền tông xuất hiện nhiều trong thơ ông. Cùng với tâm thế của người giác ngộ chân lí Phật pháp, không gian vô tận của vũ trụ mênh mông cũng được thu nhỏ và hiện lên qua con mắt thiền quan sát thông suốt của nhà sư. Đây là hai loại không gian nổi bật nhất trong thơ thiền của Tuệ Trung thượng sĩ mà chúng tôi muốn đề cập.

Không gian vũ trụ trong thơ thiền Tuệ Trung là một không gian mênh mông, rộng lớn với hàng loạt những sự vật thiên nhiên lớn lao, kì vĩ: bầu không, vầng trăng, mặt trời, ngọn núi, áng mây, biển nước…

Tam giới mang mang, tâm liễu liễu

Nguyệt hoa tây một, nhật thăng đông.

(Ba cõi mênh mông lòng sáng tỏ

Bóng trăng chìm xuống phương tây, mặt trời lên ở phương đông).

(Thoát thế- Thoát đời)

Mặc dù cũng gợi lên một không gian cao- rộng và ẩn chứa sự vận động hòa điệu của vạn vật, nhưng khác với không gian vũ trụ trong thơ Nho Lí- Trần hay thơ Đường của Trung Quốc thường miêu tả không gian vũ trụ tồn tại trước mắt, không gian trong thơ thiền Tuệ Trung là “không gian vượt ra ngoài không gian”. Cụ thể hơn, thơ thiền của ông gợi nên một không gian mà mắt thường sẽ không quan sát thông suốt hết; chỉ khi có được con mắt trí tuệ của người giác ngộ mới có thể bao quát được. Đó là kiểu không gian rộng lớn khắp “Đông Tây Nam Bắc”, “trường không”, “tam giới”, “hư không”, “biến giới”, “pháp giới”, “hằng sa thế giới”…trong cảm thức của người giác ngộ tự tánh.

Vũ trụ mênh mông với những biến động của nó từ xưa đã trở thành niềm ám ảnh trong không biết bao nhiêu người. Nếu thơ Đường của Trung Quốc xem không gian vũ trụ là nơi dung chứa con người vũ trụ, là không gian mà con người khát khao vươn tới hòa nhập và chinh phục thì trong thơ thiền Tuệ Trung, con người cũng là con người vũ trụ nhưng không còn ở vị trí trung tâm của vũ trụ, “cái rốn” của vũ trụ nữa mà con người hòa nhập làm một với vũ trụ:

 Thiên địa diếu vọng hề hà mang mang

Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương

Hoặc cao cao hề vân chi sơn

Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương

(Ngắm trông trời đất sao mà mênh mông

Chống gậy rong chơi ngoài thế gian

Hoặc đến ngọn núi phủ mây cao cao

Hoặc đến chỗ biển nước sâu sâu).

(Phóng cuồng ngâm- Bài ngâm cuồng phóng)

Trên cái phông nền “trời đất mênh mông”, “mây núi cao cao”, “biển nước sâu sâu” là hình ảnh một con người nhàn nhã tự tại. Cái “mang mang”, cái “cao cao”, cái “thâm thâm” của vũ trụ không làm cho thiền gia choáng ngợp và tự thu nhỏ mình; mà trái lại, nhà thơ tỏ ra ung dung, an nhiên, đạt đến sự hòa nhập vào không gian với tất cả tâm ý. Thể hiện không gian vũ trụ trong thơ thiền, đồng thời, Tuệ Trung cũng đã thể hiện vị thế con người đứng ngang hàng, thậm chí vượt ra ngoài và đứng lên trên sự tuần hành của không gian, không còn chịu sự chi phối của trời đất.

Có thể nói, Tuệ Trung là một thiền sư thông đạt triết lí Thiền và muốn truyền đạt những điều mình chứng ngộ được cho những người tu thiền khác. Quá trình đi từ “tự giác” đến “giác tha” đó của Tuệ Trung biểu hiện ra một loạt bài thơ thiền, mà ngay chính đầu đề của chúng cũng đã nói rõ mục đích ấy: Thị chúng, Thị học, Chí đạo vô nan, Thị tu Tây Phương bối, Thị đồ, Vạn sự qui như, Thế thái hư huyễn, Đốn tỉnh, Sinh tử nhàn nhi dĩ…Phục vụ cho mục đích đó, không gian đã trở thành nguồn khai thác dồi dào mà thiền gia tận dụng xây dựng và thể hiện.

 Không gian cảnh vật mang ý nghĩa biểu tượng triết lí Thiền tông trong thơ Tuệ Trung chiếm số lượng rất lớn. Khảo sát 21 bài thơ thiền của ông trong cuốn Thơ thiền Lí- Trần [29] đã có đến 19 bài tác giả sử dụng những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, trong đó khoảng 13 bài nhà thơ xây dựng hình tượng không gian nghệ thuật.

Triết lí thiền thì nhiều, trong khi mỗi tác giả lại có nhiều cách kiến giải khác nhau. Do đó, không gian tượng trưng cho triết lí thiền phải là một thế giới không gian với một hệ thống sự vật và hiện tượng phong phú. Trong thơ Tuệ Trung, không gian đó có khi đó là khung cảnh mùa xuân trăm hoa đua nở, là ngọn núi cô tịch vắng lặng làm nền cho một làn khói mỏng bay lên, là vầng trăng cô đơn giữa bầu trời trong suốt; là mùa hạ sen đâm bông, là mùa xuân mai nở rộ; có khi là đàn chim én bay xuống đỗ trước sân nhà, là cơn gió thổi lồng lộng, là ánh sáng mùa thu lúc đen lúc trắng, là nhụy sen thơm đỏ, là ngọn đuốc trước gió, là con kiến nhỏ bé bò trên miệng cối xay bột; cũng có khi là thiên đường địa ngục, vạc dầu lò lửa, rừng gươm núi đao đầy hiểm nguy chết chóc… Tất cả tạo nên một không gian đầy hình ảnh, âm thanh và màu sắc.

Thiên nhiên trong thơ thiền Tuệ Trung phần lớn là thiên nhiên luôn vận hành theo qui luật vô thường:

Xuân lai bách thảo sinh

(Mùa xuân đến thì trăm cây cỏ sinh sôi).

(Trì giới kiêm nhẫn nhục- Trì giới và nhẫn nhục)

Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu

Thu đáo vô phi thu thủy thâm

(Mùa xuân đến thì hoa xuân cười

Mùa thu đến thì không nơi nào không phải là nước thu sâu).

(Phật tâm ca- bài ca tâm và Phật)

Biểu hiện trực cảm nhất cho quan niệm đó là không gian thời tiết mùa màng với một trường các sự vật liên quan. Bốn mùa xuân- hạ- thu- đông cùng với hoa lá cỏ cây đi kèm nó luôn biến chuyển xoay vần theo qui luật khách quan, thấy đó rồi mất đó, đẹp đó rồi xấu đó, nở đó rồi tàn đó, tươi đó rồi héo đó…không có sự vật nào là trường tồn bất biến, kể cả thân mạng con người, phàm thánh, công danh, phú quí, tháng năm…cũng không thoát khỏi vòng quay vô tình nghiệt ngã đó. “Lộ”, “sương”, “lôi”, “điện”, “phù vân”, “phi tiễn”, “huyễn kính”, “ảnh”, “thanh phong”, “cỏ bồng” là những hình ảnh của thế giới “sắc tướng” mà tác giả thường sử dụng để thể hiện quan niệm về cuộc đời ngắn ngủi, hư ảo, giả tạm. Nó hoàn toàn trái ngược với không gian thường hằng bất sinh bất diệt của bản thể, mà con người chẳng cần dụng công gì cả, chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi thôi là có thể tìm được cái quí giá nhất của đời mình. Tác giả khuyên không nên “dựa ngõ nhà người khác” vì như thế là si mê lầm lạc, chỉ cần “một điểm sáng mùa xuân” thôi là “khắp nơi hoa nở”, cái khoảnh khắc giác ngộ quí giá sẽ đến với mỗi con người. Cũng có khi trong một bài thơ, tác giả xây dựng cùng lúc hai loại không gian đối lập nhau. Đặc biệt hơn, không gian thể hiện qui luật vô thường của vạn vật qua một cách nói khác đi đã trở thành không gian mang ý nghĩa hoàn toàn trái ngược:

Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt

Tân niên hoa phát cố niên hoa

Tam sinh thúc hốt chân phong chúc

Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma

(Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm nay

Hoa nở năm mới cũng là hoa năm cũ

Ba sinh thắm thoắt thực như ngọn đuốc trước gió

Chín cõi tuần hoàn giống như con kiến bò trên miệng cối xay bột).

(Đốn tỉnh- Chợt tỉnh)

“Hoa” và “trăng” lúc này là đại diện cho cái bản thể thường hằng bất biến vốn có ở mỗi con người, mà bằng nhận thức này hay khác, phân biệt xưa hay nay, con người lại nhận ra “trăng đêm qua”- “trăng đêm nay”, “hoa năm mới”- “hoa năm cũ”, để rồi mãi mê rượt đuổi theo một cái gì hư ảo giống như “con hươu khát chạy đuổi theo bóng nắng”, tưởng rằng bớt khát chẳng dè lại càng khát thêm. Qua đó, nhà sư khuyên tất cả nhận thức rõ sự tương đối của cuộc đời, buông bỏ những câu chấp để đi đến giác ngộ tự tánh.

Như vậy thì, theo Tuệ Trung, con người hãy sống cuộc sống bình thường như nó vốn có, không cần phải suy nghĩ, phân vân hay chọn lựa, tự nhiên vô niệm giống như “bóng trăng xưa” và “ngọn gió trời” (Thị chúng- Bảo mọi người). Một cách tế nhị, nhẹ nhàng, nhà sư trách con người chỉ trông thấy “nghìn non sáng sủa” mà chẳng chú ý đến “tiếng vượn cô đơn kêu ở nơi sâu thẳm”, cái bản thể ngọn nguồn của vạn vật, nó vốn trong lắng, nguyên thủy như bản tánh con người chưa hề vây bẩn, pha tạp. Khi thấu rõ tất cả là không chân thật, là giả tạo rồi thì chẳng cần lo lắng gì nữa. Không gian siêu nhiên mở ra để xua đuổi con người thoát khỏi những mối bận tâm chẳng đâu ra đâu ấy, mở ra con đường đi đến “bỉ ngạn” (bờ bên kia), nơi sáng trong tươi đẹp không còn bụi bặm nữa:

Phiền não bồ đề ám tiêu ma

Địa ngục thiên đường tự khô kiệt

Hoạch than lô thán đốn thanh lương

Kiếm thụ đao sơn lập tồi chiết

(Phiền não và bồ đề ngầm tiêu ma hết

Địa ngục và thiên đường tự nó khô kiệt

Vạc dầu, lò lửa bỗng trở nên mát mẻ

Rừng gươm, núi đao lập tức đổ gãy).

(Sinh tử nhàn nhi dĩ- Sống chết là lẽ thường mà thôi)

Viết về không gian gì, viết như thế nào và với cảm hứng gì, cuối cùng nhà thơ cũng thể hiện một niềm tin lạc quan, một cái nhìn đầy tin tưởng vào bản tánh chân thật của mỗi người, đó là tâm niệm “Ta là hiện tại Phật và chúng sanh sẽ là tương lai Phật” (đức Phật Thích-ca-mâu-ni). Đằng sau mỗi bài thơ, tác giả gợi nên một khoảng lặng, để lại cái dư vị sâu lắng trong lòng người đọc.

Để phát biểu cho triết lí thiền, nhà thơ xây dựng những không gian mang đặc trưng phù hợp thể hiện triết lí thiền đó. Đó có khi là không gian diễn biến theo vòng tuần hoàn sinh diệt, tốt xấu, đổi thay; có khi là không gian tĩnh tại, thường hằng, bất biến; có khi là không gian hiện hữu cũng có khi chỉ là không gian trong thế giới tâm tưởng. Cuộc đời vô thường giả hiệp thì không gian thiên nhiên thời tiết bốn mùa vần xoay, hóa sinh – sinh hóa; cuộc sống con người ngắn ngủi trong gang tấc thì không gian được xây dựng với một loạt những sự vật nhỏ bé, mỏng manh, dễ tan, dễ mất, không gì có thể níu kéo lại được; kêu gọi sống an nhiên tự tại không câu chấp nhị nguyên thì không gian là không gian hằng thường bất biến, sự vật tồn tại như nó vốn có không cần dụng tâm đo lường suy tính…

Đọc thơ thiền Tuệ Trung giống như tiếp thu những lời giáo huấn, những chia sẻ chân thành nhất kinh nghiệm giác ngộ tự tánh. Tất cả tác phẩm của ông toát lên ý chỉ của một đạo thiền Việt Nam phóng khoáng cởi mở, đầy sức sống và đậm đà hào khí của thời đại, thật tiêu biểu cho tinh thần thiền học Việt Nam.

—————o0o—————-

PHẦN KẾT LUẬN

—————o0o—————-

1. Giờ đây, nhắc đến thời đại Lí- Trần, chắc hẳn chúng ta không chỉ nhớ đến một thời đại hoàng kim trong lịch sử dân tộc với những lần đại phá quân Nguyên- Mông, với những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước, với những con người hào hùng phấn chấn sống hòa mình và hết mình với kích thước của cuộc sống; mà thời đại Lí- Trần còn là thời đại của văn học, nơi mà từ đó, suối nguồn văn học viết được khơi dòng và ào ạt tuôn chảy, dung hợp các nguồn mạch khác nhau làm nền tảng xuất hiện các trào lưu văn học ở những thời kì sau. Trong nền văn học viết còn ít nhiều dấu ấn của thời kì sơ khai đó, văn chương Phật giáo là một bộ phận chủ đạo mà tầng lớp quí tộc triều đình và tăng lữ nhà chùa là lực lượng sáng tác chủ yếu. Tuy nhiên, đây không phải là thứ văn chương khô khan, thiếu chất trữ tình, các thiền sư không phải là những người lạnh lùng không cảm xúc mà ngược lại, văn học Phật giáo vẫn có sức thu hút mạnh mẽ của riêng nó. Thể hiện tiêu biểu nhất cho điều đó là thơ thiền Lí- Trần.

2. Là một bộ phận quan trọng của văn học Phật giáo, thơ thiền Lí- Trần đã xây dựng được một thế giới nghệ thuật mới lạ và đầy sức thu hút. Mới lạ ở chỗ các tác giả đã đưa vào văn chương những nội dung triết học- tôn giáo sâu sắc, trong đó, con người có những cảm thụ, nhận thức về thiên nhiên, không gian và thời gian cuộc sống theo cách nhìn của riêng mình mà không phải ai cũng có thể lí giải được. Còn thu hút ở chỗ những triết lí đó được chuyển tải bằng một hệ thống hình ảnh phong phú và giàu ý nghĩa. Khám phá ra ý nghĩa ẩn đằng sau những hình ảnh đó, người đọc sẽ cảm thấy lí thú và vô cùng khoan khoái. Tuy nhiên, khám phá thơ thiền quả không là một điều đơn giản. Nếu cảm thụ thơ rất cần yếu tố trực giác để nhận ra ý nghĩa ẩn chứa bên trong thơ, thì khi cảm nhận thơ thiền, yêu cầu này càng tăng thêm bội phần. Có như vậy, người đọc mới trực ngộ được triết lí thiền ẩn chứa bên trong mà với tư duy logic thông thường, chúng ta sẽ không thể khám phá được.

3. Trong đề tài “Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần”, dẫu biết đây là một vấn đề khá phức tạp nhưng chúng tôi cũng đã mạnh dạn căn cứ vào 2 tiêu chí khác nhau để phân chia không gian nghệ thuật trong thơ thiền. Dựa vào tiêu chí không gian được phản ánh là không gian đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh có hai loại không gian là: không gian vũ trụ và không gian đời thường. Còn dựa vào tiêu chí không gian được phản ánh là không gian đi từ tâm cảnh đến ngoại cảnh có không gian tâm thiền và không gian biểu tượng triết lí thiền. Sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, và dường như chỉ có giá trị ở một chừng mực nhất định. Bởi lẽ không thể có sự tách bạch rạch ròi giữa không gian hiện thực- không gian vật lí với không gian siêu hiện thực- không gian tâm linh trong thơ thiền, các loại không gian này tồn tại trong mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau, không gian vật lí đa phần chỉ là cái vỏ bề ngoài để thông qua đó, tác giả thể hiện thế giới tâm tưởng của mình. Các thiền gia luôn hướng tới giải ngộ những triết lí Phật giáo, đôi lúc hết sức trừu tượng cao siêu nhưng đó không phải là lí do để họ trở lại phủ nhận thực tại. Họ sống bằng tất cả tâm hồn mình, cảm nhận hết mọi hương vị của không gian cuộc đời, rồi từ cái nền vững chắc đó hướng lên một không gian đạt đạo siêu thoát.

Chúng tôi cũng chỉ ra một số đặc điểm chung của không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần:

Thứ nhất, không gian trong thơ thiền Lí- Trần là không gian rộng lớn bao la không có giới hạn, không có phạm vi bó buộc. Bởi lẽ, đối với con người thấu triệt chân lí, giác ngộ lẽ vô thường của vạn pháp thì không gian không còn giới hạn nào nữa cả, mọi chiều kích được mở rộng, vươn xa đến vô cùng vô tận. Lúc này tâm thức của nhà thơ thoát khỏi mọi ràng buộc của không gian hữu hạn đời thường để vươn đến và hòa nhập vào không gian bao la của “hư không pháp giới”, gắn liền mình vào cái bản thể hun hút vô tận của vũ trụ. Có ở vị trí đó, con người đạt đạo mới quán xét thông suốt được vạn vật trong càn khôn vũ trụ, thấu rõ cổ kim đông tây, xa gần trên dưới.

Thứ hai, không gian trong sáng tác của các thiền gia thời Lí- Trần chủ yếu là không gian tĩnh. Cái tĩnh đó một phần do đặc điểm khách quan vốn có của không gian cuộc sống, một phần do sự chi phối từ “con mắt thiền” của người sáng tác. Không gian tĩnh lặng, hư vô, u tịch, lặng lẽ ấy thường gắn liền với cảnh vật đơn sơ mộc mạc gần gũi, khung cảnh thiên nhiên hoang sơ vắng vẻ, cuộc sống ẩn cư nhàn nhã thoát tục, hay thời gian chiều tà tịch mịch hoặc giữa đêm thu hiu hắt… Không gian tĩnh tại ấy khiến cho nhà thơ lắng sâu vào lòng mình, sống cuộc sống như nhiên, hồn hậu cùng với bản thể giác ngộ. Nhà sư cũng viết về không gian động, tuy nhiên cái động đó nhìn chung cũng là cái động của những sự vật nhỏ bé mong manh, cái động vi tế nhỏ nhoi trong sự đối chiếu với khung cảnh rộng lớn xung quanh, nhờ đó càng góp phần làm tăng thêm cái tĩnh.

Thứ ba, không gian trong thơ thiền Lí- Trần là không gian tràn ngập ánh ánh sáng. Các thiền sư- những con người giác ngộ Phật tánh, tìm ra chân lí trong cuộc đời này- dường như luôn đắm mình sống trong ánh sáng vô lượng vô biên của tuệ giác. Ánh sáng đó chi phối cảm nhận không gian của nhà thơ, nên không ít lần trong sáng tác của mình, các thiền gia ca ngợi ánh sáng ấy bằng tất cả sự chứng nghiệm của bản thân. Để thể hiện ánh sáng tuệ giác đó, các tác giả sử dụng một loạt các sự vật phát sáng của thiên nhiên lẫn nhân tạo để phản ảnh như: mặt trời, mặt trăng, vì sao, ánh đèn, đuốc, luồng sáng…Có điều, ánh sáng phát ra từ các sự vật đó không còn là ánh sáng vốn có của nó nữa mà đã trở thành một loại ánh sáng huyền diệu và đầy năng lực, tất cả đều sáng sủa, trong trẻo đến không thể ngờ, soi chiếu rõ vạn vật trong một phạm vi mênh mông rộng lớn.

Thứ tư, không gian được các thiền gia miêu tả luôn theo những cặp phạm trù đối lập: tối- sáng, nhỏ- lớn, hạn hẹp- bao la, khoảnh khắc- vĩnh cửu, động- tĩnh…Việc chú trọng thể hiện những cặp phạm trù đó cho thấy cách nhìn khá độc đáo, tinh tế của các thiền gia về không gian xung quanh. Nhưng nhìn chung, việc xây dựng các phạm trù tối tăm, hạn hẹp, nhỏ bé, khoảnh khắc, nhất thời, vận động…xét cho cùng cũng để phản ảnh và làm nổi bật các phạm trù vốn mang ý nghĩa thiền học như sáng sủa, to lớn, bao la, vĩnh cửu, tĩnh tại…theo cảm thức thiền của các tác giả.

Thứ năm, không gian trong thơ thiền luôn là không gian mang tính quan niệm của các thiền gia, cụ thể hơn là quan niệm chịu sự chi phối của triết lí thiền. Đó là các quan niệm: không gian vận hành theo qui luật vô thường, không gian hư không pháp giới vô hạn, không gian hằng thường bất biến của diệu thể, không gian an nhiên tự tại làm chủ tâm thể, không gian tỏa sáng vi diệu của bản thể…Để làm rõ những quan niệm đó, các thiền gia thường sử dụng những hình ảnh có sẵn trong kinh kệ, sách vở Phật giáo hay trong lời nói của sư tổ. Lúc ấy, thiền gia đứng lên trên nhờ thấu rõ mọi hiện tượng trong không gian đó, quán xét chúng bằng một trí tuệ tỉnh thức, giác ngộ.

Tóm lại, dù được các thiền gia phản ánh từ hiện thực cuộc sống hay vay mượn điển cố trong kinh sách Phật giáo, không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần luôn toát lên một ấn tượng chân thật, ấn tượng từ những cảm giác đã sống, đã trực tiếp cảm nhận và trải nghiệm của các thiền gia; chứ đây không phải là những lời múa bút hoa hòe thiếu cơ sở. Chính nền tảng chân thật đó đã chấp cánh cho thơ thiền bay bổng đến những chân trời mới lạ và thật sự đi sâu vào lòng người.

4. Với vị trí mở đầu cho nền văn học viết, thơ văn Lí- Trần không thể không ảnh hưởng đến văn học các thời kì sau. Thơ thiền Lí- Trần cũng nằm trong qui luật kế thừa và phát triển đó. Đọc thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm, Chu Mạnh Trinh, ngay cả các nhà thơ hiện đại như Huy Cận, Chế Lan Viên, Bùi Giáng, thơ và nhạc Trịnh Công Sơn…ta thấy ẩn hiện đâu đó dáng vấp của thơ thiền Lí- Trần. Dáng vấp đó không chỉ là chỉ bức tranh thiên nhiên gắn liền với không gian chùa chiền, không chỉ là những khung cảnh cô liêu tịch mịch phảng phất hương vị thiền; mà còn ở phong thái sống an nhàn ẩn dật khá gần với cách sống của các thiền sư, cách nhìn đời chịu ảnh hưởng triết lí Phật giáo, nhất là triết lí Thiền tông; thậm chí có không ít tác giả đời sau xuất gia tu hành và cũng sáng tác thơ thiền. Những tác phẩm như vậy không thể không chịu ảnh hưởng của thơ thiền Lí- Trần. Như vậy, có thể khẳng định thơ thiền Lí- Trần có ảnh hưởng khá rõ nét đến văn chương của những người đời sau, nhất là khi chữ Hán còn giữ vai trò độc tôn của nó.

5. Khóa luận đã vạch ra một cái nhìn khá hoàn chỉnh về không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần. Ngoài việc phân chia một cách có hệ thống các loại không gian nghệ thuật (có thể chưa phải là cách tối ưu), chúng tôi còn chú ý chỉ ra một vài đặc điểm cơ bản của không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần. Khi tìm hiểu về thi pháp hình tượng con người và thi pháp thời gian nghệ thuật trong thơ thiền Lí- Trần, chắc chắn ít nhiều chúng ta sẽ bắt gặp sự trùng lắp với cách phân chia và những đặc điểm kể trên của thi pháp không gian nghệ thuật. Do đó, người tìm hiểu thơ thiền có thể xuất phát từ những thành quả nghiên cứu về không gian nghệ thuật đã nêu để tiếp cận và chiếm lĩnh các bài thơ thiền từ nhiều góc độ.

6. Được tiếp cận nghiên cứu đề tài, chúng tôi rất lấy làm phấn khởi vì đã đóng góp được một phần nào công sức của mình trong việc khám phá thơ thiền Lí- Trần, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy các bài thơ thiền ở trường phổ thông và cung cấp thêm nguồn tư liệu cần thiết cho những ai tìm hiểu, nghiên cứu thơ thiền. Nói như vậy, không có nghĩa luận văn không mắc phải những thiếu sót, sơ xuất và những kiến giải chủ quan. Vì thế, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đánh giá và phát hiện sai sót, góp ý chân thành của quí thầy cô và bạn đọc để luận văn càng hoàn chỉnh hơn. Nếu có điều kiện, chúng tôi xin được phép trở lại đề tài này ở một mức độ khám phá mới mẻ, sâu sắc và toàn diện hơn. Âu cũng là ước muốn tiếp tục khẳng định tầm vóc, vai trò và vị trí của thơ thiền Lí- Trần trong nền văn học đáng tự hào của dân tộc.

———————————@@@——————————–

PHẦN PHỤ LỤC

———————–o0o————————–

Phụ lục 1:

THỬ PHÂN TÍCH MỘT SỐ BÀI THƠ TIÊU BIỂU TRONG THƠ THIỀN LÍ – TRẦN TỪ GÓC ĐỘ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

  1. 1.     Cáo tật thị chúng – thiền sư Mãn Giác :

Phiên âm bài thơ:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Trước mắt nhà thơ hiện ra một không gian luôn luôn vận động cùng với sự diễn tiến vô thường của thời gian và vũ trụ. Mùa xuân đến và mang theo một bầu “khí dương hòa” phủ trùm lên khắp cả đất trời, khiến cho vạn vật tràn trề sức sống. Mùa xuân đi rồi mùa hè đến, cũng đồng nghĩa với việc thế giới cỏ cây trở về trạng thái bảo toàn của riêng nó cho phù hợp với sự vận hành thiên nhiên vũ trụ. Đó là những biểu hiện tất yếu, vốn dĩ là vậy của không gian cảnh vật trước vòng xoáy vô thường của thời gian. Hình ảnh “bách hoa lạc”, “bách hoa khai” giờ đây không đơn thuần mang ý nghĩa là trăm hoa, trăm thứ cây cỏ đua nở hay rơi rụng mà nó đã trở thành biểu tượng cho vạn vật trong thế giới vật chất hữu hình “pháp tướng”. Tất cả đều chịu sự chi phối và tác động không cùng của quy luật khách quan, không thể nào thoát khỏi vòng tuần hoàn vô tận của thiên nhiên trời đất.

Xuân đi, trăm hoa rụng

Xuân đến, trăm hoa nở

Việc đời đuổi nhau qua trước mắt

Trên đầu tuổi già đã đến rồi.

Sự việc của cuộc đời cứ vô tình rượt đuổi nhau chạy qua trước mắt, mặc tình cho con người có mong mỏi níu kéo hay hay hy vọng đợi chờ. Con người cũng không nằm ngoài quy luật tự nhiên vô thường đó, những sợi tóc bạc dần dần hiện ra trên mái đầu đang báo hiệu tuổi già đang đến. Sinh- lão- bệnh- tử hay sinh- trụ- dị- diệt là vòng quay cuồn cuộn của bánh xe cuộc đời mà con người không thể nào thoát ra được dù cho có cố sức đến mức nào đi chăng nữa.

Trước cảnh tượng vô thường bất như luôn hiện hữu trước mắt đó, nhà sư trong đêm khuya khoắt bỗng bắt gặp trước sân nhà một cành hoa mai vẫn nở những cánh hoa vàng khoe sắc giữa đất trời:

Đừng bảo rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,

Đêm qua, trước sân đã nở một cành mai.

Một nhành mai nhỏ nhoi nở sừng sững giữa đất trời bao la vô tận, đáng chú ý hơn cành hoa mai này lại nở khi mùa xuân đã tàn phai. Nếu chiếu theo qui luật của thời gian như phía trên nhà sư đã gợi ra, thì xuân tàn tết hết cũng là lúc hoa mai đã rụng sạch, chỉ còn trơ lại cành khô với lá già gốc lạnh. Vậy mà, bất chấp mọi diễn tiến của thời gian, cành mai trong bài thơ như là một ngoại lệ hết sức đặc biệt, vẫn khoe sắc và nở rộ trong đêm tối trong khi hoa của muôn loài cây khác đã lìa cành. Cả bầu không gian bao la, hư vô tĩnh mịch về đêm bị thu hẹp lại và qui chiếu về làm nền cho một cành hoa phi thường ngập tràn sức sống tỏa hương sắc giữa đêm khuya. Trong bóng tối và sương đêm lạnh lẽo, những cánh hoa mai đua nở dường như làm tỏa ánh sáng và ấm áp lên khung cảnh tịch mịch. Hình ảnh nhành mai như là một biểu tượng phát ngôn cho triết lí thiền của nhà sư, dù quy luật vô thường khắc nghiệt có làm cho vạn vật vận động và biến đổi đến đâu thì bản tánh chân như của con người là thường tồn, bất biến. Nó giống như cành hoa mai sừng sững giữa đất trời, mặc cho bao chuyển biến của cuộc đời nó vẫn không hề suy suyễn.

Mai là một hình ảnh ước lệ vốn có trong thơ ca xưa. Hình ảnh hoa mai thường biểu tượng cho sự mảnh mai, yếu đuối của người phụ nữ sống dưới xã hội thời phong kiến; hoặc là biểu tượng của sự tinh khiết, trong sạch, cao quý trong tính cách con người (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa – Cao Bá Quát)… Nhưng với hình ảnh cành hoa mai trong bài thơ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, ta nhật ra rằng, chưa bao giờ nhành mai trong văn học lại sừng sững, hùng vĩ và cao ngất đến như vậy.

Đến lúc này, không gian vận động vô thường theo diễn biến của thời gian đã mất đi, hiện ra trước mắt là không gian mùa xuân hằng thường, vĩnh cửu. Cái tâm con người vượt ra khỏi sự ràng buộc của không gian, qui luật vận động vốn tồn tại từ ngàn xưa để vững vàng tin rằng, từ nay mùa xuân không còn lẫn khuất ở đâu nữa. Tác giả đã hòa nhập tâm thể của mình vào mùa xuân miên viễn, trường cửu vô thủy vô chung của chân như, mà biểu hiện của sự hằng hữu ấy là một cành hoa mai nhỏ bé, đơn sơ, hữu hạn. Lúc này, không gian hiện thực là cái cớ để tác giả phát hiện ra không gian siêu hiện thực; hay thật ra, làm gì có không gian hiện thực và không gian phi hiện thực, bởi lẽ không gian từ trước đến giờ vẫn tồn tại, hiện hữu như thế chứ nào có giấu giếm hay ẩn khuất gì?

Bài thơ như là tiếng ca reo vui của một tâm thái thanh thản giác ngộ, thể hiện một cách sâu sắc niềm tin tưởng, lạc quan của Mãn Giác trước những biến chuyển của cuộc đời, tạo vật. Vượt khỏi vòng luân hồi của thế giới hữu hình pháp tướng, nhành mai đã tự hòa mình vào cõi vô sinh vô diệt. Vạn vật trên đời tiêu điều tàn tạ như được đánh thức sự sống, tươi tắn và đẹp đẽ hơn bởi một nhành mai nở giữa sân nhà.

2. Ngư nhàn – Dương Không Lộ:

Phiên âm bài thơ:

Vạn lí thanh giang vạn lí thiên

Nhất thôn tang giá nhất thôn yên,

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

Hiện lên trong bức tranh thiên nhiên là một không gian vũ trụ bao la thoáng đãng, mênh mông tươi sáng của trời mây sông nước. Trong bức tranh ấy có dòng sông phẳng lặng nước trong xanh, có bầu trời lồng lộng một màu trong suốt. Tất cả được đo đếm một cách chung chung là muôn dặm (vạn lí), gợi nên chiều sâu và chiều cao của không gian tươi đẹp muôn trùng. Trong thơ Đường, không gian vũ trụ mênh mông thoáng đạt được diễn tả bằng những từ “thiên lí”, “thiên xích”, “vạn trượng” gợi cho người đọc sự liên tưởng về một thế giới mênh mông vô tận. Bài thơ này cũng vậy, “vạn lí” như thước đo cho sự vô hạn của không gian đất trời. Nhưng với điểm nhìn khá đặc biệt của mình, nhà sư từ chiếc thuyền trôi giữa dòng nước mênh mông sóng gợn, ngắm thẳng lên bầu trời trong xanh hay bầu trời ấy được phản chiếu từ dòng sông lặng lẽ trôi dưới mạn thuyền. Dường như, chính dòng sông muôn dặm ấy là tấm gương phản chiếu cả bầu trời trong tầm nhìn hun hút của nhà thơ. Đưa ánh mắt trở về những cảnh vật gần gũi hơn, nhà sư- ông chài thấy xóm làng thấp thoáng ẩn hiện trong những bụi dâu gai, những ngọn khói phủ trùm như ôm ấp cuộc sống. Một cái nhìn rất nên thơ và sống động:

Trời xanh nước biếc muôn trùng,

Một thôn sương khói, một vùng dâu đay.

                                                                       (Kiều Thu Hoạch dịch thơ)

Cảnh vật không tách rời riêng rẽ mà tồn tại trong sự hòa điệu, pha trộn lẫn nhau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thu hút. Bức tranh thiên nhiên cảnh vật rộng lớn, đầy đường nét, màu sắc và cũng hết sức tĩnh lặng. Tất cả tạo nên một không gian giao hòa trong trẻo, không gian ấy trống trải mênh mông mà tưởng chừng ôm đồm, vồ vập. Nó tràn đầy bởi một loạt “vạn lí”, “nhất thôn” như có cảm giác một người nào đó đem đủ thứ màu sắc, sự vật đổ đầy vào từng cái khuôn của không gian rộng lớn. Thế nhưng tất cả đều là sự vật của thiên nhiên, tồn tại trong đất trời trong sự hài hòa với vạn vật. Nhờ đó bên cái không gian trong trẻo mát lành còn có một không gian mây khói mơ màng mờ ảo. Và cái mờ ảo, hồn nhiên của xóm làng lại được gói trọn trong không gian trời nước đẹp tươi và tràn đầy sức sống.

Trong bức tranh thiên nhiên xinh đẹp và gợi tình gợi cảm ấy là hình ảnh một ông chài say sưa với giấc ngủ. Ông bỏ ngoài mắt sự khơi gợi của thiên nhiên, ông bỏ quên tất cả màu sắc của đất trời, thậm chí quên cả sự tồn tại trong cuộc đời của bản thân mình để đắm chìm trong giấc ngủ như nhiên, hồn hậu, tự tại.

Ông chài ngủ tít ai lay

Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.

                                                                      (Kiều Thu Hoạch)

Một giấc ngủ dài và sâu, vô tư hồn nhiên trước sự đời. Trước sau không một bóng người, không một lời kêu gọi càng tô đậm thêm bầu không gian êm đềm, lặng lẽ. Đó không là một giấc ngủ bất cần đời mà chính là giấc ngủ của sự hòa nhập tuyệt đối với cuộc đời, với không gian trời đất bao la rộng lớn. Chính cái quên đó là bước đệm để ông chài- thiền sư “hốt nhiên” bắt gặp sự đầy đủ tràn trề của cái bản thể diệu dụng

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

Con thuyền đã đầy tuyết lúc nào không hay, bây giờ tỉnh dậy nhà sư mới bất thần nhận ra, cũng giống như bản thể con người vốn tràn đầy và đủ khắp. Một lúc nào đó, khi lắng đọng tất cả mọi xô bồ, ôm đồm, vồ vập của cuộc đời, con người sẽ nhận ra cái toàn chân toàn giác vốn hiện hữu, đầy khắp không gian và thời gian ở bên trong mỗi con người.

Bài thơ thể hiện một cách kín đáo triết lí Thiền tông mang màu sắc “đốn ngộ”. Tuyết vốn không phải là một hiện tượng phổ biến ở ViệtNam, thế nhưng nhà thơ đã sử dụng hình tượng mang tính quy phạm này một cách tài tình để diễn đạt triết lí thiền của riêng mình. Có thể khẳng định rằng, sau khi tỉnh dậy, bất giác nhận ra “tuyết mãn thuyền”, nhà sư đã bắt gặp “chủ nhân ông” của chính mình. Cả bài thơ là một bài ca hồn hậu tự nhiên và tươi vui của một con người sống an nhàn lặng lẽ khi đã trở về với bản thể giác ngộ.

3. Nguyệt – Trần Nhân Tông:

Phiên âm bài thơ:

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư

Lộ trích thu đình dạ khí hư

Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

Hiện lên trong bài thơ là không gian cuộc sống đời thường ở chốn chùa chiền trong một đêm thu tĩnh mịch. Trong không gian ấy có một nhà sư đang để tâm chú ý đến những cái nhỏ bé đơn sơ, những biến đổi vốn hết sức bình thường của các sự vật xung quanh mình:

Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường

Móc rơi trên sân thu, hơi đêm trống không

 Bóng đèn, cửa sổ, giường sách, hạt móc rơi, sân thu, hơi đêm…những thứ quá đỗi bình thường, đơn giản đến nỗi những ai hằng ngày đối đầu với cuộc sống quay cuồng tất bật thì làm gì mà để ý tới. Còn vị thiền sư Trần Nhân Tông đã trở về với bản thể giác ngộ thì đối với ông, không có giây phút nào không phải là giây phút tĩnh lặng, sống chân thật với tự tánh thường hằng để cảm nhận không gian cảnh vật một cách tự nhiên vốn có.

Không gian trên gợi nên trong mắt người đọc một không khí trong trẻo, tĩnh lặng đến không thể ngờ. Đêm khuya mênh mông dằng dặc giờ càng mênh mông hơn bởi khung cảnh cô liêu, u tịch mà thiền gia gợi tả. Đó không chỉ là không gian hiện thực của thiên nhiên và cuộc sống tu hành mà còn là biểu hiện của không gian trống trải, lặng lẽ trong tâm hồn con người đạt đạo. Hình ảnh “dạ khí hư” gợi lên trong lòng người đọc một không gian bao la không ngằn mé, bờ bến. Sự rộng lớn vô tận ấy cũng chính là biểu hiện của một thế giới tâm linh vừa trong suốt, không còn bị khuấy động; vừa bao la khoáng đạt đầy thiền ý. Nó mơ hồ trừu tượng cũng giống như không gian trống trải hư vô trong lòng người mà nó phản ánh.

Tỉnh giấc tiếng chày nện vải không còn nghe thấy

Trên chùm hoa mộc tê trăng vừa mọc

Sau một giấc ngủ dài thức dậy, nhà sư không còn nghe thấy tiếng chày nện vải nữa bởi đã bị tiếng nói của tự tánh cuốn hút mất rồi. Ánh trăng vừa đến trên chùm hoa mộc tê hé nở giữa đêm khuya như là sự bừng sáng của trí tuệ giữa khoảng không bao la của vũ trụ. Nhà sư như từ thế giới của bóng tối bước ra thế giới ánh sáng, từ cõi vô thường bước đến cõi hằng thường, từ không gian hạn hẹp của cuộc đời trần thế bước vào vũ trụ mênh mông bát ngát không cùng tận. Hình ảnh ấy gợi lên chiều sâu hun hút trong thế giới tâm thức con người, mà chính bản thân nó cũng đã hàm chứa biết bao ý nghĩa. Không gian tĩnh lặng đến mức tuyệt đối. Những chi tiết nhỏ bỗng trở nên diệu huyền, bừng sáng. Hồn con người đã được lọc sạch, trong lặng như hư không.

Mấy câu thơ trên gợi sự liên tưởng đến mấy câu thơ thiền đời Đường của Thi Phật- Vương Duy:

Nhân nhàn quế hoa lạc

Dạ tĩnh xuân sơn không

Nguyệt xuất kinh sơn điểu

Thời minh tại giản trung.

(Người nhàn hoa quế rụng

Đêm xuân núi vắng teo

Trăng lên chim núi hãi

Dưới khe chốc chốc kêu).

(Điểu minh giản –Khe chim kêu, Vương Duy)

Trong thơ xưa, cái tĩnh tồn tại trong sự biện chứng với cái động, cái tĩnh nhờ cái động mà hiện hữu; và ngược lại, cái động nhờ cái tĩnh mà sinh ra. Tiếng chim kêu không những không xóa tan bầu không khí yên tĩnh, lặng lẽ nơi miền sơn cước mà ngược lại càng làm cho không gian càng cô tịch hơn. Xây dựng không gian vắng lặng, u tịch, yên tĩnh vốn là đặc điểm chung của thơ thiền, mà trong đó, thơ thiền Lí –Trần, thơ Hai-cư hay thơ thiền Đường- Tống là những minh chứng sinh động. Tuy viết về hai khung cảnh khác nhau, các sự vật và hiện tượng gợi lên trong không gian đó khác nhau, một bên không còn nghe thấy bất cứ âm thanh gì, một đằng thỉnh thoảng nghe tiếng chim kêu trong núi vắng…nhưng cả hai bài thơ đều gợi nên một không gian cô tịch lặng lẽ, một chiều sâu hun hút của tâm thể con người, nơi không khí thiền đang dằng dặc bao phủ. Trước khung cảnh tịch diệt hư vô đó, cả hai con người gặp nhau ở sự an lạc tự tại, đắm mình trong niềm an vui vô hạn với tự tánh giác ngộ hiện hữu.

Phụ lục 2:

DANH MỤC 192  BÀI THƠ THIỀN LÍ – TRẦN

DÙNG ĐỂ KHẢO SÁT

Tên bài thơ

Tên tác giả

  1. Thủy chung.
  2. Nguyên hỏa.
  3. Phật pháp I.
  4. Phật pháp II.
  5. Thị đệ tử.
  6. Chân dữ huyễn.
  7. Nhật nguyệt I.
  8. Nhật nguyệt II.
  9. Thị chư Thiền lão tham vấn thiền chỉ.
  10. Truy tán Tì-ni-đa-lưu-chi thiền sư.
  11. Tâm pháp.
  12. Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn I.
  13. Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn II.
  14. Thủy hỏa I.
  15. Thủy hỏa II.
  16. Thị tịch.
  17. Tham đồ hiển quyết.
  18. Tâm không.
  19. Cáo tật thị chúng.
  20. Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn.
  21. Cảm hoài.
  22. An Hoạch sơn Báo Ân tự bi kí (16 câu thơ đầu bài minh).
  23. Thị đệ tử Bản Tịch.
  24. Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (12 câu thơ đầu bài minh).
  25. Sinh lão bệnh tử.
  26. Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn.
  27. Thất châu.
  28. Hữu không.
  29. Vấn Kiều Trí Huyền.
  30. Thị tịch cáo đại chúng.
  31. Hữu tử tất hữu sinh.
  32. Sắc không.
  33. Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (16 câu thơ đầu bài minh).
  34. Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh (12 câu thơ đầu bài minh).
  35. Ngôn hoài.
  36. Ngư nhàn.
  37. Trình sư.
  38. Đại Việt quốc dương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (9 câu thơ đầu bài minh).
  39. Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh (8 câu thơ đầu bài minh).
  40. Truy tán Sùng Phạm thiền sư.
  41. Bất giác nữ đầu bạch.
  42. Hoa điệp.
  43. Sinh tử.
  44. Văn chung.
  45. Viên Quang tự bi minh tự (10 câu thơ đầu bài minh).
  46. Đáp Pháp Dung sắc không, phàm thánh chi vấn.
  47. Thị đạo.
  48. Nhất nhật hội chúng.
  49. Cảm hoài I.
  50. Cảm hoài II.
  51. Qui tịch.
  52. Sắc thân dữ diệu thể I.
  53. Sắc thân dữ diệu thể II.
  54. Đạo vô ảnh tượng.
  55. Liễu ngộ thân tâm.
  56. Phát đại nguyện.
  57. Kinh trung xuất hình tượng.
  58. Nhất quỹ.
  59. Thị Thái úy Tô Hiến Thành, Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa.
  60. Đạm nhiên.
  61. Thạch mã.
  62. Chân tính.
  63. Tạ Đạo Huệ thiền sư I.
  64. Tạ Đạo huệ thiền sư II.
  65. Đáp nhân tri túc chi vấn.
  66. Hưu hướng Như Lai.
  67. Hi di.
  68. Tầm hưởng.
  69. Tâm.
  70. Đạo.
  71. Hãn tri âm I.
  72. Hãn tri âm II.
  73. Báo Ân thiền tự bi kí (8 câu thơ đầu bài minh).
  74. Thành chính giác.
  75. Hóa vận.
  76. Đáp tăng vấn.
  77. Huyễn pháp.
  78. Nhật đăng sơn.
  79. Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn.
  80. Phổ thuyết tứ sơn (những bài thơ trong bài phổ thuyết).
  81. Phổ thuyết sắc thân (những bài thơ cuối bài phổ thuyết).
  82. Phổ khuyến phát bồ đề tâm (2 câu thơ cuối bài phổ khuyến).
  83. Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ (bài thơ cuối bài phổ thuyết).
  84. Ngữ lục vấn đáp môn hạ.
  85. Niệm tụng kệ.
  86. Dần thì cảnh sách chúng kệ, lục thì sám hối khoa nghĩa.
  87. Hiến hương kệ.
  88. Hiến hoa kệ.
  89. Chí tâm khuyến thỉnh.
  90. Chí tâm tùy hỷ.
  91. Chí tâm hồi hướng.
  92. Chí tâm phát nguyện (Sơ nhật thì).
  93. Sơ nhật vô thường kệ.
  94. Chí tâm phát nguyện (Trung nhật thì).
  95. Thử thời vô thường kệ (Trung nhật thì).
  96. Chí tâm phát nguyện (Nhật một thì).
  97. Thử thời vô thường kệ (Nhật một thì).
  98. Hoàng hôn khuyến chúng kệ.
  1. Bát khổ kệ.
  2. Chí tâm phát nguyện (Sơ dạ thì).
  3. Thử thời vô thường kệ (Sơ dạ thì).
  4. Chí tâm phát nguyện (Bán dạ thì).
  5. Thử thời vô thương kệ (Bán dạ thì).
  6. Chí tâm phát nguyện (Hậu dạ thì).
  7. Thử thời vô thường kệ (hậu dạ thì).
  8. Kiến giải.
  9. Dưỡng chân.
  10. Thủ nê ngưu.
  11. Phỏng Tăng Điền đại sư.
  12. Vấn Phúc Đường đại sư tâm.
  13. Điệu tiên sư.
  14. Thị chúng.
  15. Thị học.
  16. Ngẫu tác.
  17. Xuất trần.
  18. Chí đạo vô nan.
  19. Tâm vương.
  20. Phóng ngưu.
  21. Đề tịnh xá.
  22. Ngẫu tác.
  23. Tự tại.
  24. Thị tu Tây phương bối.
  25. Thoái thế.
  26. Thị đồ.
  27. An định thời tiết.
  28. Nhập trần.
  29. Vạn sự quy như.
  30. Thế thái hư huyễn.
  31. Họa huyện lệnh.
  32. Họa Hưng Trí thượng vị hầu.
  33. Tụng thánh Tông đạo học.
  34. Thướng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư I.
  35. Thướng Phúc Đường Tiêu dao thiền sư II.
  36. Tặng Thuần Nhất pháp sư.
  37. Khuyến thế tiến đạo.
  38. Thị chúng.
  39. Trụ trượng tử.
  40. Tự đề.
  41. Đốn tỉnh.
  42. Phật tâm ca.
  43. Phóng cuồng ngâm.
  44. Sinh tử nhàn nhi dĩ.
  45. Phàm thánh bất dị.
  46. Mê ngộ bất dị.
  47. Trì giới kiêm nhẫn nhục.
  48. Trừu thần ngâm.
  49. Trừ từ tự cảnh văn.
  50. Đối cơ.
  51. Tụng cố.
  52. Họa Tuệ Trung thượng sĩ.
  53. Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm I.
  54. Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm II.
  55. Tự thuật.
  56. Độc Phật sự đại minh lục hữu cảm.
  57. Chân tâm chi dụng.
  58. Sinh tử.
  59. Đáp Tuệ Trung thượng sĩ.
  60. Đề Cổ Châu huơng thôn tự.
  61. Đăng Bảo Đài sơn.
  62. Xuân cảnh.
  63. Xuân vãn.
  64. Nguyệt.
  65. Sơn phòng mạn hứng I.
  66. Sơn phòng mạn hứng II.
  67. Tán Tuệ Trung thượng sĩ.
  68. Hữu cú vô cú.
  69. Sư đệ vấn đáp.
  70. Cư trần lạc đạo phú.
  71. Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca.
  72. Thượng sĩ hành trạng.
  73. Ký Phổ Tuệ tôn giả I.
  74. Ký Phổ Tuệ tôn giả II.
  75. Đề Gia lâm tự.
  76. Thị tịch.
  77. Tán Tuệ Trung thượng sĩ.
  78. Trúc Lâm đại tôn giả thượng tọa thính sư thị    chúng.
  79. Yếu minh học thuật (bài thơ ở cuối bài văn).
  80. Thạch thất.
  81. Địa lô tức sự.
  82. Sơn vũ.
  83. Đề Động hiền đàn việt giả sơn.
  84. Đề Đạm Thủy tự.
  85. Tảo thu.
  86. Cúc hoa III.
  87. Cúc hoa IV.
  88. Cúc hoa V.
  89. Diên Hựu tự.
  90. Vịnh Vân Yên tự phú (bài thơ cuối bài phú).
  91. Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự.
  92. Tặng Huyền Quang tôn giả.
  93. Giới am ngâm.
  94. Tương tịch, ký Kim Sơn thiền sư.
Khuông Việt.

Khuyết danh.

Vạn Hạnh.

Định Hương.

Thiền Lão.

Lý Thái Tông.

Cứu Chỉ.

Huệ Sinh.

Ngộ Ấn.

Viên Chiếu.

Mãn Giác.

Chân Không.

ChuVăn Thường.

Thuần Chân.

Lý Thừa Ân.

Diệu Nhân.

Trí Huyền.

Đạo Hạnh.

Trì Bát.

Ỷ Lan.

Pháp Bảo.

Không Lộ.

Khuyết danh.

Nguyễn Công Bật.

Khuyết danh.

Lý Nhân Tông.

Giác Hải.

Giới Không.

Viên Học.

Dĩnh Đạt.

Khánh Hỉ.

Trường Nguyên.

Tịnh Không.

Bảo Giám.

Bảo Giác.

Đạo Huệ.

Nguyện Học.

Bản Tịnh.

Trí Thiền.

Đại Xả.

Trí Bảo.

Quảng Nghiêm.

Minh Trí.

Thường Chiếu.

Tịnh Giới.

Ngụy Tự Hiền.

Y Sơn.

Hiện Quang.

Khuyết danh.

Trần Thái Tông.

Tuệ Trung thượng sĩ.

Trần Thánh Tông.

Trần Nhân Tông.

Trần Anh Tông.

Trần QuangThiều.

Pháp Loa.

Huyền Quang.

Trần Minh Tông.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10. Thiền sư Đinh Lực và cư sĩ Nhất Tâm, Phật giáo Việt Nam và thế giới, NXB Văn hóa thông tin, 2003.

11. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lí- Trần- diện mạo và đặc điểm, NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2002.

12. Đặng Thai Mai, Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học– Thơ văn Lí-Trần, tập 1, NXB Khoa học xã hội, 1977.

13. Nhiều tác giả, Tuệ Trung Thượng sĩ-  Kỉ yếu hội thảo khoa học, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, 1993.

14. Nhiều tác giả, Tuyển tập 10 năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, NXB GD, 2004.

15. Nhiều tác giả, Tuyển tập 40 năm tạp chí văn học 1960-1999, tập 2- Văn học cổ-cận đại VN, Viện văn học, NXB TPHCM, 1999.

16. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng, 1997.

17. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, Lịch sử Việt Nam (thế kỷ X đến 1427), NXB Giáo dục, Hà Nội  ,1977.

18. Vũ Tiến Quỳnh (sưu tầm và biên soạn), Thơ văn Lí- Trần (Phê bình và bình luận văn học), NXB Văn Nghệ TP HCM, 1997.

19. Langlet Thanh Tâm, Thơ ca và tâm linh trong nước VN cổ xưa (qua một vài thí dụ tiêu biểu)- VN học, kỉ yếu hội thảo quốc tế lần I, tập 2, NXB Thế giới.