Suy tim mất bù là gì

Khi phát hiện tình trạng mất bù nghiêm trọng bằng tăng phù, đặc biệt là phù phổi, dẫn đến ran nổ và khó thở. Thiếu điều trị phù hợp trong giai đoạn cấp này có thể dẫn đến tử vong.

Nếu tim bị tổn thương nặng nề, không bù được, bằng cả phản xạ giao cảm hay giữ dịch, có thể làm giảm khả năng tống máu của tim. Hậu quả là cung lượng tim không tăng cao đủ để khiến thận bài tiết đủ lượng nước tiểu. Do đó, dịch tiếp tục bị giữ, bệnh nhân tiến triển phù, giai đoạn này cuối cùng dẫn đến tử vong. Tình trạng này được gọi là suy tim mất bù. Do đó, nguyên nhân lớn nhất của suy tim mất bù là tim không tống đủ máu để thận bài tiết lượng nước tiểu cần thiết mỗi ngày.

Phân tích hình ảnh trong suy tim mất bù

Hình cho thấy cung lượng tim giảm ở nhiều thời điểm khác nhau (điểm A đến F) sau khi tim bị yếu trầm trọng. Điểm A trên đường cong biểu diễn trạng thái tuần hoàn trước khi có bất kỳ sự bù trừ nào xảy ra, và điểm B là trạng thái vài phút sau khi kích thích giao cảm đã bù hết có thể nhưng trước giai đoạn giữ dịch. Ở thời điểm này, cung lượng tim có thể tăng đến 4 L/ phút và áp lực nhĩ phải tăng lên 5 mmHg. Bệnh nhân ở trong tình trạng tốt, nhưng không ổn định do cung lượng tim không tăng đủ cao để thận bài tiết đủ nước tiểu, chính vì thế, tiếp tục ứ dịch và có thể dẫn đến tử vong. Những vấn đề này có thể được giải thích một cách định lượng. Chú ý trên đường thẳng hình, ở mức cung lượng tim là 5L/ phút. Mức độ này gần bằng mức cung lượng tim cần thiết ở người lớn để giúp thận tái thiết lập cân bằng dịch - khi lượng muối và nước ra khỏi cơ thể bằng với lượng nạp vào. Với cung lượng tim dưới mức này, cơ chế ứ dịch duy trì vai trò và thể tích dịch tăng nhanh. Do sự tăng nhanh thể tích dịch, áp lực đổ đầy hệ thống trong vòng tuần hoàn tiếp tục tăng cao làm tăng lượng máu từ tĩnh mạch ngoại vi về nhĩ phải, do đó tăng áp lực nhĩ phải. Sau 1 ngày, sự thay đổi trạng thái tuần hoàn trong hình từ điểm B đến C, với áp lực nhĩ phải tăng đến 7 mmHg và cung lượng tim tăng đến 4.2 L/phút. Chú ý rằng cung lượng tim vẫn chưa đủ để giữ lượng nước tiểu bình thường; chính vì thế dịch tiếp tục ứ lại. Sau vài ngày, áp lực nhĩ phải tăng đến 9mmHg, trạng thái tuần hoàn được thể hiện ở điểm D. Cung lượng tim vẫn không đủ để thiết lập cân bằng dịch. Sau vài ngày ứ dịch, áp lực nhĩ phải tiếp tục tăng quá cao, nhưng đến thời điểm này chức năng tim bắt đầu giảm xuống mức thấp hơn. Sự giảm này do tim giãn quá mức, phù ở cơ tim và những yếu tố khác làm giảm khả năng bơm máu của tim. Rõ rằng sự ứ dịch sẽ có hại hơn là lợi với tuần hoàn. Cung lượng tim vẫn chưa đủ cao để khôi phục chức năng thận bình thường, chính vì thế ứ dịch không chỉ tiếp tục mà còn tiến triển do giảm cung lượng tim (và giảm huyết áp động mạch). Hậu quả là trong vài ngày, trạng thái tuần hoàn đạt đến điểm E trên đường cong với cung lượng tim nhỏ hơn 2.5 L/phút và áp lực nhĩ phải là 16 mmHg, trạng thái này hoàn toàn không tương thích, và bệnh nhân sẽ chết nếu tình trạng này không được đảo ngược.

Hình. Cung lượng tim suy giảm nghiêm trọng cho thấy bệnh tim mất bù. Tình trạng ứ nước tiến triển làm tăng áp lực tâm nhĩ phải trong khoảng thời gian nhiều ngày, và cung lượng tim tăng dần từ điểm A đến điểm F, cho đến khi tử vong.

Giai đoạn suy tim tiếp tục tồi tệ được gọi là suy tim mất bù

Do đó, một người có thể nhìn thấy từ phân tích này đó là giảm cung lượng tim (và huyết áp động mạch) để tăng mức độ quan trọng của chức năng thận bình thường dẫn đến (1) tăng ứ dịch dẫn đến (2) tăng áp lực đổ đầy hệ thống (3) tăng áp lực nhĩ phải cho đến khi tim giãn hoàn toàn hoặc phù và không thể bơm đủ lượng máu dẫn đến suy hoàn toàn. Theo lâm sàng, khi phát hiện tình trạng mất bù nghiêm trọng bằng tăng phù, đặc biệt là phù phổi, dẫn đến ran nổ và khó thở. Thiếu điều trị phù hợp trong giai đoạn cấp này có thể dẫn đến tử vong.

Điều trị suy tim mất bù

Quá trình mất bù thường được dừng lại bằng (1) làm mạnh cơ tim theo một trong nhiều cách, đặc biệt bằng thuốc tác dụng trên tim như digitalis, chính vì thế tim trở nên mạnh hơn để bơm đủ lượng máu theo yêu cầu giúp thận thực hiện chức năng hoặc (2) sử dụng thuốc lợi tiểu để tăng đào thải ở thận trong khi cùng lúc giảm lượng muối nước nạp vào, tạo nên sự cân bằng giữa xuất và nhập mặc dù cung lượng tim thấp. Cả 2 phương pháp đều làm dừng quá trình mất bù để loại bỏ dịch trong cơ thể.

Cơ chế tác dụng của thuốc tác dụng trên tim như Digitalis

Thuốc tác dụng trên tim như digitalis, khi được sử dụng trên người bình thường, thường ít có tác dụng tăng lực co cơ tim. Tuy nhiên, khi sử dụng cho bệnh nhân có suy tim mạn, thuốc có thể tăng lực co cơ tim từ 50-100%. Chính vì thế, chúng là điều trị chính ở bệnh nhân có suy tim mạn. Digitalis và những glycoside tác dụng trên tim có tác dụng tăng lực co cơ tim bằng cách tăng ion Ca trong sợi cơ. Tác dung này thường do chẹn bơm Na-K- ATPase trên màng tế bào cơ tim. Chẹn kênh Na-K làm tăng Na nội bào và giảm bơm trao đổi Na-K, đẩy Ca ra ngoài để thay cho Na. Do bơm Na-K phụ thuộc vào gradient Na cao để đi qua màng, sự tích tự Na trong tế bào làm giảm hoạt động này.

Trên cơ tim suy, lưới sarcoplasmic không thể tập trung đủ lượng Ca và do đó không thể giải phóng ion Ca vào trong sợi cơ để gây co cơ. Tac dụng của digitalis làm giảm hoạt động của bơm Na-K và tăng nồng độ Ca trong cơ tim cung cấp thêm Ca cần để tăng lực co cơ tim. Do đó, nó thường có lợi trong giảm cơ chế bơm Ca với một lượng digitalis trung bình cho phép nồng độ Ca nội cơ tương tăng nhẹ.

Thuốc điều trị suy tim bao gồm:

  • Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống: Ức chế men chuyển (ACE) Chất ức chế men chuyển angiotensin (ACE) (Xem thêm Suy tim.) Các thuốc điều trị suy tim bao gồm: Điều trị triệu chứng:: Thuốc lợi tiểu, nitrates hoặc digoxin Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống Ức chế men chuyển, thuốc chẹn... đọc thêm , chẹn beta giao cảm Thuốc chẹn beta (Xem thêm Suy tim.) Các thuốc điều trị suy tim bao gồm: Điều trị triệu chứng:: Thuốc lợi tiểu, nitrates hoặc digoxin Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống Ức chế men chuyển, thuốc chẹn... đọc thêm , kháng aldosterone Thuốc kháng aldosterone (Xem thêm Suy tim.) Các thuốc điều trị suy tim bao gồm: Điều trị triệu chứng:: Thuốc lợi tiểu, nitrates hoặc digoxin Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống Ức chế men chuyển, thuốc chẹn... đọc thêm , chẹn thụ thể angiotensin II (ARBs) Thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARBs) (Xem thêm Suy tim.) Các thuốc điều trị suy tim bao gồm: Điều trị triệu chứng:: Thuốc lợi tiểu, nitrates hoặc digoxin Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống Ức chế men chuyển, thuốc chẹn... đọc thêm , chẹn thụ thể angiotensin/ức chế neprilysin Chất ức chế thụ thể angiotensin/neprilysin (ARNI) (Xem thêm Suy tim.) Các thuốc điều trị suy tim bao gồm: Điều trị triệu chứng:: Thuốc lợi tiểu, nitrates hoặc digoxin Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống Ức chế men chuyển, thuốc chẹn... đọc thêm (ARNIs), ức chế 2-đồng vận natri-glucose Ức chế đồng vận glucose - natri (SGLT-2i) (Xem thêm Suy tim.) Các thuốc điều trị suy tim bao gồm: Điều trị triệu chứng:: Thuốc lợi tiểu, nitrates hoặc digoxin Kiểm soát lâu dài và cải thiện tiên lượng sống Ức chế men chuyển, thuốc chẹn... đọc thêm , hoặc ức chế nút xoang

Trong suy tim còn bảo tồn phân suất tống máu, ít nghiên cứu về hiệu quả điều trị của các thuốc hơn. Tuy nhiên, các chất ức chế ACE, ARB, và chất kháng aldosteron thường được sử dụng trong điều trị suy tim còn bảo tồn phân suất tống máu. ARNIs có thể giảm nhập viện vì suy tim nhưng không cải thiện các kết quả khác. Các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, có đối chứng cho thấy lợi ích của các thuốc kháng aldosterone, nhưng chưa cho thấy lợi ích của các thuốc nhóm nitrate. Thuốc chẹn beta chỉ nên được sử dụng khi có chỉ định khác (ví dụ: kiểm soát nhịp tim trong thời gian rung nhĩ, đau thắt ngực, sau nhồi máu cơ tim). Ở những bệnh nhân suy tim còn bảo tồn phân suất tống máu mức độ nặng, việc hạ nhịp tim (thuốc chẹn beta) có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng, bởi thể tích nhát bóp của bệnh nhân đã tương đối biến động, do rối loạn chức năng tâm trương mức độ nặng. Ở những bệnh nhân này, cung lượng tim phụ thuôc tương đối nhiều vào nhịp tim, và việc hạ nhịp tim có thể làm giảm cung lượng tim khi nghỉ và/hoặc khi gắng sức.

Trong HFmrEF, có thể có một lợi ích cụ thể từ ARNIs, mặc dù khả năng này đòi hỏi phải xác nhận thêm.

Ở những bệnh nhân bị thâm nhiễm, hạn chế, hoặc bệnh cơ tim phì đại Bệnh cơ tim phì đại

Suy tim mất bù là gì
, digoxin không mang lại hiệu quả và có thể có những tác dụng có hại. Ngoài ra, liệu pháp thuốc giãn mạch cũng có thể được dung nạp kém và không cho thấy lợi ích ở những bệnh nhân này.

Tất cả bệnh nhân cần được cung cấp thông tin một cách rõ ràng về thuốc họ sử dụng, bao gồm tầm quan trọng của việc đổi thuốc đúng hẹn và tuân thủ điều trị, cách nhận biết các tác dụng không mong muốn, và khi nào cần liên hệ với bác sĩ.