So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

Lịch sử Phật giáo

Trước khi so sánh hai tôn giáo vĩ đại này có lẽ chúng ta nên tìm về cội nguồn của nó. Trong khi Ấn giáo không có một cá nhân đại diện sáng lập ra thì nhân vật có thật trong lịch sử đã khai sinh ra Phật giáo có tên Sĩ-Đa-Tha Cồ-đàm (Siddhartha Gautama) (sự khác biệt thứ nhất), ngoài cái tên này ra thì còn có nhiều tên gọi, danh hiệu khác đơn cử như Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni), nghĩa là Bậc thức giả tộc Thích Ca, hoặc chỉ gọi đơn giản là Phật, tức một người đã giác ngộ, toàn giác, biết tất cả mọi thứ. Theo trang Wiki thì Gautama được sinh ra vào khoảng năm 624 TCN tại một tiểu quốc nằm gần biên giới Nepal-Ấn Độ; Ngài mất vào khoảng năm 544 TCN.

Sau khi Phật qua đời khoảng 400 năm thì các kinh sách mới bắt đầu được đặt bút ghi chép lại, còn trước đó thì các tăng đoàn chỉ có truyền thống truyền miệng những lời Phật nói. Một người có thể đặt ra nghi vấn liệu tất cả những kinh sách Phật giáo có đầy đủ hay chính xác 100% không thêm bớt chỉnh sửa hay không? Đó cũng là lý do vì sao trong Phật giáo có rất nhiều tông phái khác nhau với 3 nhánh lớn: Nam Tông (Tiểu Thừa), Bắc Tông (Đại Thừa), và Kim Cương Thừa; trong những nhánh lớn này lại còn có phân chia ra những nhánh nhỏ hơn. Chúng ta chỉ có thể trau dồi đức tin vào kinh sách và tự vận dụng trí não của mình và tìm ra những gì phù hợp với bản thân. Trăm sông đổ về một biển. Đại dương chân lý không từ chối một con sông nào. Mọi con đường đều dẫn tới cùng một chân lý, vấn đề chỉ là nhanh chậm thế nào và có phù hợp với mình hay không.

Cuộc đời của Gautama không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Ấn giáo, mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh (Sramana) như Kỳ-na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka (triết học duy vật khoái lạc). Phật Thích Ca đã đề xướng con đường Trung đạo (Majjhimāpaṭipadā), vừa từ bỏ đời sống vật chất lạc thú và cũng vừa từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh đang thịnh hành thời đó.

Thích Ca xuất thân là một chàng hoàng tử của một vương quốc nhỏ, sống trong nhung lụa, ăn sung mặc sướng. Năm 29 tuổi anh quyết định từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để chập chững bước chân vào con đường đạo, hầu tìm kiếm và giác ngộ chân lý, bản chất của thực tại, của sự tồn tại. Trong 6 năm anh đã khổ luyện những phương pháp thực hành tâm linh của Ấn giáo như ngồi thiền và yoga với 2 người thầy và đã đạt tới những tầm mức trình độ đáng kể. Tuy nhiên nó vẫn không mang lại được thỏa mãn cho Gautama; anh thấy mình vẫn chưa chứng thực giác ngộ.

Có một chuyện cần lưu ý ở đây. Nhiều người căn cứ vào chi tiết này để lý luận rằng Ấn giáo thua kém Phật giáo, hay Ấn giáo không thể mang tới giác ngộ, trong khi Phật giáo thì có thể! Đây là một quan niệm hết sức ngây thơ, sai lầm, vô minh. Bởi vì nếu chịu khó suy nghĩ kỹ hơn, sâu hơn thì sẽ thấy nó không đơn giản như vậy. Có một số nghi vấn cần được trả lời ở đây trước khi một người có thể hồ đồ phán xét: Chúng ta phải biết được 2 vị thầy của Gautama đã dạy anh những gì? Nó có đại diện được cho toàn bộ Ấn giáo không? Và bản thân Gautama đã hiểu được những gì? Nếu gặp một người thầy thứ ba giỏi hơn hai người trước thì sao? Tại sao Gautama không thể chứng đắc được với những thứ đã được học trong khi nhiều người khác trong quá khứ cũng như tương lai thì có thể? Có khi nào con đường này không phù hợp với chàng hoàng tử Gautama nhưng lại phù hợp với những người khác? Theo tôi đây mới là câu trả lời chính xác nhất.

Thích Ca sau khi giác ngộ tới khi lìa trần là 45 năm đã dành thời gian đó để đi khắp nơi có thể để rao giảng những đạo lý của Ngài. Thời đó Ấn giáo đang thịnh hành trong dân gian tại vùng đất Nepal – Ấn Độ. Ra đời trong một hoàn cảnh như thế nên nó có thể được nói rằng nguồn gốc của Phật giáo là Ấn giáo, hay nói cách khác là nếu Ấn giáo là mẹ thì Phật giáo là (một trong những người) con trai. Khi tôi nói ra quan điểm này trong THĐP Club thì có một thanh niên, fan hâm mộ Phật giáo mới “phản biện” bằng cách nêu ra hàng loạt những điểm khác biệt, những triết lý mới chỉ có trong Phật giáo như một con vẹt robot 4.0, như thể B bắt nguồn từ A thì B phải giống A 100%! Nếu đã giống nhau y đúc thì tạo ra một tôn giáo mới để làm gì nữa?

“Khi tôi nói rằng Phật giáo là một phần của Ấn giáo, một số người phê phán tôi. Nhưng nếu tôi nói rằng Ấn giáo và Phật giáo là hoàn toàn khác nhau, nó sẽ không đúng với sự thật.” — Đạt Lai Lạt Ma

Biểu đồ so sánh

Biểu đồ so sánh Phật giáo và Ấn Độ giáo
đạo PhậtẤn Độ giáo

So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

Niềm tin của ChúaÝ tưởng về một người sáng tạo toàn năng, toàn năng, toàn diện bị từ chối bởi những người theo đạo Phật. Chính Đức Phật đã bác bỏ lập luận thần học rằng vũ trụ được tạo ra bởi một Thiên Chúa cá nhân, tự giác.Nhiều vị thần, nhưng nhận ra rằng tất cả họ đều đến từ Atman.
Thực tiễnThiền định, Bát chánh đạo; chánh kiến, nguyện vọng đúng đắn, phát ngôn đúng đắn, hành động đúng đắn, sinh kế đúng đắn, nỗ lực đúng đắn, chánh niệm, tập trung đúng đắnThiền, yoga, chiêm niệm, yagna (thờ cúng xã), cúng dường trong đền thờ.
Nguồn gốcTiểu lục địa Ấn ĐộTiểu lục địa Ấn Độ
Cuộc sống sau khi chếtTái sinh là một trong những tín ngưỡng trung tâm của Phật giáo. Chúng ta đang ở trong một chu kỳ vô tận của sinh, tử và tái sinh, chỉ có thể bị phá vỡ bằng cách đạt được niết bàn. Đạt được niết bàn là cách duy nhất để thoát khỏi đau khổ vĩnh viễn.Một vòng luân hồi liên tục cho đến khi giác ngộ đạt được.
Sử dụng tượng và hình ảnhChung. Tượng được sử dụng làm đối tượng thiền định, và được tôn kính khi chúng phản ánh phẩm chất của Đức Phật.Chung
Người sáng lậpĐức Phật (sinh ra là Hoàng tử Siddhartha)Không ghi có vào một người sáng lập cụ thể.
Nghĩa đenPhật tử là những người làm theo lời dạy của Đức Phật.Các tín đồ của Vedas được gọi là Arya, người cao quý. Arya không phải là một triều đại, sắc tộc hay chủng tộc. Bất cứ ai làm theo lời dạy của Vedas đều được coi là Arya.
Bản chất con ngườiVô minh, như tất cả chúng sinh. Trong các văn bản Phật giáo, người ta thấy rằng khi Gautama, sau khi thức tỉnh, được hỏi liệu anh ta có phải là một người bình thường không, anh ta trả lời: "Không".Phụ thuộc vào giáo phái.
Giáo sĩTăng đoàn Phật giáo, gồm các Tỷ-kheo (tu sĩ nam) và bhikkhunis (nữ tu). Tăng đoàn được hỗ trợ bởi các Phật tử tại gia.Không có giáo sĩ chính thức. Gurus, Yogis, Rishis, Brahmins, Pundits, linh mục, nữ tu sĩ, tu sĩ và nữ tu.
Quan điểm của Đức PhậtGiáo viên cao nhất và người sáng lập Phật giáo, nhà hiền triết toàn diện.Một số giáo phái Hindu tuyên bố Phật là hình đại diện của Vishnu. Những người khác tin rằng ông là một người đàn ông thánh thiện.
Thánh thưTam Tạng - một giáo luật rộng lớn bao gồm 3 phần: Các bài giảng, Kỷ luật và Bình luận, và một số kinh sách đầu tiên, như các văn bản Gandhara.Vedas, Up Biếnad, Purana, Gita. Smrti và Sruti là kinh điển bằng miệng.
Phương tiện cứu rỗiĐạt đến giác ngộ hay Niết bàn, đi theo Bát chánh đạo.Đạt đến giác ngộ bằng con đường tri thức, con đường sùng đạo hay con đường hành động tốt.
Người theo dõiPhật tửNgười Ấn giáo.
Ngôn ngữ gốcPali (truyền thống Theravada) và tiếng Phạn (truyền thống Đại thừa và Kim cương thừa)Tiếng Phạn
Tình trạng của phụ nữKhông có sự phân biệt giữa nam và nữ. Phụ nữ ngang hàng với đàn ông và đàn ông ngang hàng với phụ nữ trong Tăng đoàn. Đức Phật đã ban cho Nam và Nữ quyền bình đẳng và một phần chính trong Tăng đoàn.Phụ nữ có thể trở thành nữ tư tế hoặc nữ tu. Phụ nữ được trao quyền bình đẳng như đàn ông.
Nguyên tắcCuộc sống này là đau khổ, và cách duy nhất để thoát khỏi đau khổ này là xua tan sự thèm muốn và vô minh của một người bằng cách nhận ra Tứ diệu đế và thực hành Bát chánh đạo.Tuân theo pháp, tức là luật vĩnh cửu
Kết hônKết hôn không phải là một nghĩa vụ tôn giáo. Tăng ni không kết hôn và sống độc thân. Lời khuyên trong các diễn ngôn về cách duy trì hôn nhân hạnh phúc và hòa thuận.Đàn ông có thể cưới một người phụ nữ. Tuy nhiên, các vị vua trong thần thoại thường kết hôn với nhiều phụ nữ.
Phân bố địa lý và chiếm ưu thế(Đa số hoặc ảnh hưởng mạnh) Chủ yếu ở Thái Lan, Campuchia, Sri lanka, Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Tây Tạng, Nhật Bản, Myanmar (Miến Điện), Lào, Việt Nam, Trung Quốc, Mông Cổ, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông và Đài Loan. Các nhóm thiểu số nhỏ khác tồn tại ở các quốc gia khác.Chủ yếu ở Ấn Độ, Nepal và Mauritius. Có dân số đáng kể ở Fiji, Bhutan, UAE, v.v.
Quan điểm của các tôn giáo Dharmic khácVì từ Pháp có nghĩa là giáo lý, luật pháp, cách thức, giáo lý hay kỷ luật, các Pháp khác bị từ chối.Họ tin rằng Phật tử, Jain và Sikh nên đoàn tụ với Ấn Độ giáo (vốn là tôn giáo Dharmic gốc).
Mục tiêu của triết họcĐể loại bỏ đau khổ về tinh thần.Sự cứu rỗi, tự do khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Quan điểm về các tôn giáo khácLà một triết lý thực tế, Phật giáo là trung lập chống lại các tôn giáo khác.Một số câu thánh thư nói rằng con đường họ mô tả là con đường duy nhất đến với Chúa và sự cứu rỗi. Kinh sách khác là triết học nhiều hơn tôn giáo. Niềm tin khác nhau. Một số người tin rằng tất cả các con đường tâm linh dẫn đến cùng một Thiên Chúa.
Ngày lễ / ngày lễ chính thứcNgày Vesak trong đó sự ra đời, sự thức tỉnh và parinirvana của Đức Phật được cử hành.Diwali, Holi, Janmashtami, Ganesh Chaturthi, v.v.
Xưng tộiTội lỗi không phải là một khái niệm Phật giáo.Ăn năn tội lỗi vô ý được quy định, nhưng tội cố ý phải được hoàn trả thông qua các hậu quả nghiệp.
Thời điểm xuất xứ2.500 năm trước, khoảng năm 563 trước Công nguyên (Trước kỷ nguyên chung)khoảng 3000 BCE
Dân số500-600 triệu1 tỉ.
Những người vô thần có thể tham gia vào thực hành của tôn giáo này?Đúng.Đúng.
Tôn giáo mà những người vô thần vẫn có thể là tín đồ củaĐúng.Charvakas và Sankyas là những nhóm vô thần trong Ấn Độ giáo.
Biểu tượngConch, nút thắt vô tận, cá, hoa sen, dù che, bình hoa, Pháp thân (Bánh xe Pháp), và biểu ngữ chiến thắng.Om, Swastika, v.v.
Chính quyền của Dalai LamaDalai Lamas là hoa tulip của trường phái Gelug của Phật giáo Tây Tạng. Họ là những nhân vật văn hóa và độc lập với nền tảng giáo lý của Phật giáo.Không có.
Luật tôn giáoPhật pháp.Pháp thân
Nơi và thời gian xuất xứNguồn gốc của Phật giáo chỉ đến một người, Siddhartha Gautama, vị Phật lịch sử, người sinh ra ở Lumbini (ở Nepal ngày nay). Ông đã giác ngộ tại Bodhgaya, Ấn Độ và thực hiện giáo lý đầu tiên của mình tại một công viên hươu ở Sarnath, Ấn Độ.Tiểu lục địa Ấn Độ, bắt đầu với nền văn minh Vệ đà vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên
Tình trạng của VedaĐức Phật đã từ chối 5 Veda, theo các cuộc đối thoại được thấy trong nikayas.Vedas thường được coi là thiêng liêng trong Ấn Độ giáo. Các văn bản hậu Vệ Đà như Gita cũng được tôn kính.

Sự khác biệt giữa tóm tắt và giới thiệu | Tóm tắt và Giới thiệu

So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

Sự khác nhau giữa Tóm tắt và Giới thiệu là gì? Tóm tắt là một dạng ngắn của luận án cuối cùng. Giới thiệu là chương đầu tiên của cuốn sách.

Sự khác biệt giữa cảm xúc của nam giới và cảm xúc của phái nữ | Cảm xúc của nam giới so với cảm xúc của phụ nữ

So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

Sự khác biệt giữa Cảm xúc Nam và Nữ giới là gì? Cảm xúc của nam giới khiến họ hành động trong khi những cảm xúc gợi lên phần lớn phụ nữ để nói chuyện.

Sự khác biệt giữa Phật giáo và Cơ đốc giáo Sự khác biệt giữa Phật giáo

So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

Dựa trên lời dạy của thái tử Siddhartha Gautama, cũng như Đức Phật trong khi Kitô giáo dựa trên lời dạy của Chúa Jêsus. Những người theo đạo Phật nhận ra Chúa Phật ...

chuabuuchau.com.vn,chuabuuchau, chua buu chau, chùa bửu châu, chua buu chau cu chi

So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

  • Danh mục
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
    • Hòa Thượng Khai Sơn
    • Đôi nét về Chùa Bửu Châu
    • Sinh hoạt nội bộ
  • TIN TỨC
  • TỪ THIỆN
  • TU HỌC
    • Thiền
    • Tịnh Độ
    • Mật Tông
    • Duy Thức học
    • Phật Pháp vấn đáp
    • Sức khỏe - Sống - Chết - Tái sinh
  • KINH SÁCH
    • Kinh giảng
    • Luật giảng
    • Luận giảng
    • Kiến thức Phật pháp
  • LIÊN TÔNG TINH ĐỘ NON BỒNG
  • PHÁP ÂM
    • Video
      • Thích Nhật Từ
      • Thích Trí Huệ
      • Thích Pháp Hòa
      • Pháp Sư Tịnh Không
      • Hòa Thượng Tuyên Hóa
      • Thích Trí Quảng
      • Thích Phước Tiến
      • ĐĐ. Thích Minh Thành
      • Thích Thiện Thuận
      • Thích Thiện Xuân
      • Thích Nhất Hạnh
      • Thích Thanh Từ
      • Thích Chân Quang
      • Thích Chân Tính
      • Thích Giác Hạnh
      • TT. Thích Minh Thành
      • Thích Bửu Chánh
      • Thích Thiện Tuệ
      • Thích Vạn Mãn
      • Thích Nữ Hương Nhũ
      • Thích Nữ Như Lan
      • Thích Thiện Chơn
      • Thích Thông Phương
      • Thích Tuệ Hải
      • Thích Viên Minh
      • Thích Thiện Hữu
      • Thích Minh Niệm
      • Thích Giác Hóa
      • Thích Tâm Đức
      • Thích Phước Tịnh
      • Thích Chiếu Khánh
      • Thích Nữ Tâm Tâm
      • Thích Nữ Hạnh Chiếu
      • Thích Nguyên Hạnh
      • Thích Quang Thạnh
      • Thích Trí Siêu
      • Thích Thiện Pháp
      • Thích Chân Hiếu
      • Thích Pháp Đăng
      • Thích Trí Chơn
      • Thích Nguyên An
      • Thích Giác Đăng
      • Thích Minh Hiếu
      • Thích Giác Khang
      • Thích Trúc Thái Minh
      • Thích Giác Tây
      • Thích Đồng Thành
      • Thích Trung Đạo
      • Thích Thái Hòa
      • Thích Giới Đức
      • Thích Giác Toàn
      • Thích Thông Triết
      • Thích Khế Định
      • Thích Nữ Như Thủy
      • Thích Minh Đạo
      • Thích Giải Hiền
      • Thích Nguyên Hiền
      • Thích Minh Chơn
      • Thích Trí Đức
      • Thích Tánh Tuệ
      • Thích Giác Giới
      • Thích Phước Đức
      • Thích Viên Trí
      • Thích Thiện Chấn
      • Ấn Quang Đại Sư
      • Thích Minh Thông
      • Thích Giác Nhiên
      • Thích Trúc Thông Phổ
      • Thích Quảng Thiện
      • Thích Thiện Huệ
      • Thích Từ Thông
      • Thích Pháp Hải
      • Thích Ngộ Thông
      • Thích Chánh Định
      • Thích Phước Nghiêm
      • Thích Duy Lực
      • Thích Nữ Huệ Liên
      • Thích Chân Giác
      • Thích Pháp Quang
      • Thích Thiện Hoa
      • Thích Minh Nhãn
      • Thích Tịnh Quang
      • Thích Tâm Hải
      • Giảng sư khác
    • Kinh tụng
    • Nhạc Phật giáo
    • Phim Phật giáo
    • Hòa tấu - Thiền Phật giáo
  • NGHIÊN CỨU
    • Các mảng khác
      • Chuyên đề
      • Gương sáng Đời Tu
      • Giáo dục Hoằng Pháp
      • Phật giáo và Khoa học
      • Phật giáo và Tuổi trẻ - Đời sống
      • Phật giáo và Môi sinh
      • Phật giáo và Nữ giới
      • Phật giáo và Hôn nhân
      • Phật giáo và Triết học
      • Phật giáo và Cuộc sống
    • Nghi thức tổng hợp
    • Sử Phật giáo
    • Văn hóa
    • Truyện tích Phật giáo
    • Lời tiền nhân
    • Văn học
    • Góc suy ngẫm
    • Lời Phật dạy
    • Nghệ thuật sống
    • Luận văn - Hội thảo
  • HÌNH ẢNH
    • Ảnh Phật và Bồ Tát
    • Tập ảnh Chùa Bửu Châu

×

  • Trang chủ
  • THƯ VIỆN NGHIÊN CỨU
  • Luận văn - Hội thảo
  • Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo
  • Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo


    DẪN NHẬP

    1. Giới thiệu khái quát và lý do chọn đề tài

    Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân sinh…. và nó như suối nguồn tuôn chảy bất tận vào hàng triệu triệu trái tim con người trên khắp thế giới. Phương đông cũng là nơi cho ra đời nhiều tôn giáo nhất như Phật Giáo, Ấn độ giáo, Đạo giáo, Khổng giáo, Hồi giáo….

    Nền đạo học ấy đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Như Sử gia người Pháp Y.Michelet (1798-1874) đã hết lời ca ngợi: “Ở phương tây cái gì cũng chật hẹp. Hy lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô khan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về châu Á cao cả và phương đông thâm trầm trong giây lát. Chính nơi đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại của tôi, mênh mang như Ấn Độ Dương ngập tràn ánh nắng mặt trời rực rỡ, tốt lành… tạo nên không khí thái hòa và tình thương vô bờ bến ngay giữa những cảnh tượng xung đột”.

    Nói đến phương đông không thể không nhắc đến Ấn Độ. Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền triết học phương đông. Và cũng chính nơi đây đã khai sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ trụ của các tôn giáo và các nền triết học”. Nói đến Ấn Độ người ta liền nghĩ ngay đến Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đây là hai tôn giáo lớn của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói chung. Mặc dù ra đời cách đây hơn mấy nghìn năm, trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, sự nghiệt ngã của dòng thời gian…nhưng nó vẫn luôn mang tính thực tiễn cao và có thể đương đầu với mọi vấn đề của xã hội hiện đại; Như nhà vật lý học nổi tiếng người Đức Albert Einstein (1879-1955) đã nói về Phật giáo: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo hay tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát sinh từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên. Trong cái nhất thể đầy ý nghĩa đó chỉ có Đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện đó”.

    Có một điều chúng ta không thể phủ nhận là Ấn Độ giáo và Phật giáo đều ra đời tại Ấn độ nhưng về tư tưởng cũng như về giáo pháp có nhiều điểm khác biệt. Với mong muốn nghiên cứu về những điểm khác biệt ấy nên người viết mạnh dạn chọn đề tài “Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Có thể nói đây là đề tài mới mẽ mà Giáo sư Minh Chi gợi ý và hướng dẫn. Với luận văn này, Người viết chỉ xem đây như là một công việc tự nghiên cứu, tìm hiểu cho chính bản thân mình và có thể chia sẻ một phần nào đó cho những ai muốn tiếp cận với hai tôn giáo ấy. Tuy nhiên, sự nỗ lực cũng có giới hạn, cho nên luận văn này không sao tránh khỏi những khuyết điểm , ngưỡng mong các bậc thiện tri thức từ bi chỉ giáo.

    2. Giới hạn đề tài và phương pháp thực hiện

    “Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn độ giáo và Phật giáo” là một đề tài lớn, có thể viết thành một cuốn sách mấy trăm trang. Vì luận văn tốt nghiệp có độ dài giới hạn nên người viết chỉ giới thiệu đôi nét về sự khác biệt giữa hai tôn giáo ấy mà thôi.

    Để thực hiện luận văn, người viết dựa vào kiến thức đã học tập ở trường, cũng như một số tư liệu hiện có để so sánh và đối chiếu. Với đề tài trên, người viết sẽ trình bày khái quát về các quan niệm, tư tưởng của Phật giáo và Ấn độ giáo và sau đó chỉ ra nhưng điểm sai khác.

    3. Bố cục của luận văn

    Luận văn này được trình bày theo bố cục sau:

    NỘI DUNG

    Chương 1: Giới Thiệu Khái Lược Về Ấn Độ Giáo và Phật Giáo

    1.1. Bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại
    1.2. Ấn độ giáo
    1.3. Phật giáo


    Chương 2: Những Điểm Khác Biệt Giữa Tư Tưởng Ấn Độ Giáo VàPhật Giáo

    2.1. Quan niệm về giá trị con người
    2.2. Quan niệm về Linh Hồn
    2.3. Tư tưởng Nghiệp
    2.4. Tư tưởng Giải thoát


    KẾT LUẬN

    NỘI DUNG
    CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI LƯỢC VỀ ẤN ĐỘ GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

    1.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

    Ấn độ cổ đại là một bán đảo có diện tích lớn nằm ở miền Nam châu Á. Đông nam và tây nam giáp với Ấn độ dương; Phía bắc là dãy núi Hymalaya và có hai con sông lớn: sông Ấn và sông Hằng. Từ hai con sông này đã hình thành nên đồng bằng phù sa thuận lợi cho việc trồng trọt, đồng thời cũng là nơi sản sinh ra nền văn hóa cổ xưa và rực rỡ nhất châu Á. Phía nam Ấn độ là cao nguyên Decan, là vùng đất nghèo nàn, cằn cõi, khô hạn, quanh năm nắng nóng.

    Do vậy, khí hậu giữa các miền của Ấn độ không đồng nhất với nhau, có nơi quanh năm tuyết phủ, có nơi lại khô hạn, nắng nóng.

    Thời cổ đại, Ấn độ có nhiều dân tộc sinh sống nên có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Đông nhất và có vị trí quan trọng là tộc người Dravidiens ở phía nam và người Aryan sống ở phía bắc. Trong quá trình phát triển, có những quốc gia và các dân tộc khác bên ngoài xâm nhập vào Ấn độ rồi định cư như người Ba tư, Hi lạp….Những dân tộc này sống hòa lẫn với nhau xây dựng nên một nền văn minh vĩ đại cho nhân loại, thể hiện qua các mặt sau:

    Về kinh tế

    Nông nghiệp lúa nước là ngành kinh tế chủ yếu của người Ấn độ cổ đại. Họ biết đắp đê dẫn nước vào ruộng, biết dùng trâu cày và các công cụ bằng đồng….Ngoài ra ngành chăn nuôi cũng phát triển mạnh, các súc vật được nuôi thành từng đàn, từng bầy như ngựa, dê, lợn, gia cầm…..Vì nhu cầu cuộc sống nên nghề làm đồ gốm, đồ đồng cũng phát triển; từ đây quan hệ buôn bán, trao đổi xuất hiện ở hình thức sơ khai. Theo đà phát triển của xã hội, nghề thủ công nghiệp đã xuất hiện và gặt hái những thành tựu đáng kể “những thợ thủ công nghiệp đã tụ tập thành những tổ chức đặc biệt kiểu như phường hội. Những nghề thủ công nghiệp phát đạt nhất thời đó là nghề dệt bông, đay, tơ lụa, nghề làm đồ gốm và đồ trang sức”. [10, 25]

    Về chính trị

    Vào khoảng 1500 đến 1000 năm trước CN, tộc người Aryan đã di cư vào Ấn độ. Lúc đầu họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Khi tấn công và chiếm đoạt được nhiều vùng đồng bằng tươi tốt của người Dravidien, họ đã học tập được kỹ thuật canh tác của người dân bản xứ và thay đổi lối sống từ chăn nuôi du mục sang định cư làm ruộng. Về sau người Aryan tổ chức ra các công xã nông thôn và phân chia ruộng đất cho các thành viên trong công xã. Đứng đầu công xã là xã trưởng và hội đồng bô lão của công xã. Họ vừa là người quản lý công xã, vừa là người đại diện cho công xã giao thiệp với các cấp trên (tù trưởng, sau khi thành lập quốc gia là vua).

    Khoảng 1000 đến 600 năm trước CN, thế lực người Aryan bành trướng dẫn đến kinh tế phát triển nhanh chóng, từ đây sự phân hóa giai cấp gay gắt tạo điều kiện hình thành các quốc gia. Như ở miền bắc Ấn độ, thế kỷ thứ VI trước CN có đến mười sáu quốc gia, hùng mạnh nhất là quốc gia Magadha ở hạ lưu sông Hằng.

    Về sau, vương triều Magadha bị lật đổ, thành lập nên triều đại Maurya (312 trCN), Asoka đã thống nhất và kiểm soát toàn bộ Ấn độ. Sau khi Asoka mất vương triều này suy sụp và dẫn đến diệt vong vào năm 28 trCN. Ấn độ lại bị ngoại bang xâm lược, mãi đến thế kỷ IV thì mới mới được thống nhất dưới triều Gupta và triều đại Harsa.

    Về văn hóa

    Về văn hóa, Ấn độ cổ đại đã thành tựu được một số lãnh vực sau:

    - Ngôn ngữ và chữ viết: Khi người Aryan xâm nhập vào Ấn độ họ đã dùng tiếng nói của mình để sáng tác ra bộ Kinh Veda (ngôn ngữ Veda). Đến thế kỷ thứ IV trước công nguyên Panini đã sáng tác ra ngôn ngữ Sanskrit (ngôn ngữ này chỉ sử dụng trong tầng lớp quý tộc). Dân chúng mỗi vùng có một thứ tiếng khác nhau. Do vậy ở Ấn độ có rất nhiều ngôn ngữ bình dân như Pali (ngôn ngữ của Phật Giáo), tiếng Tamin của người Dravidien ở miền Nam Ấn.

    - Thiên văn học: Xuất hiện từ thời Veda, họ đã quy định được một tháng gồm ba mươi ngày, một năm gồm có mười hai tháng…. và phỏng đoán được trái đất hình cầu và quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ thứ V trước CN, Thiên văn học đã giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.

    - Toán học: Người Ấn độ đã phát hiện ra chữ số thập phân và hình tượng các chữ số. Đặc biệt là họ đã tính được số Pi khá chính xác, biết được định lý Pitago, biết giải phương trình bậc hai, bậc ba….

    - Y học: Người Ấn đã biết chữa bệnh bằng cách dùng các loại cây và các phương pháp trị bệnh đơn giản. Về sau y học ngày càng phát triển, họ đã biết điều trị bệnh lâm sàng một cách thuần thục và chính xác….

    - Kiến trúc: Nổi bật nhất là lối kiến trúc xây dựng chùa chiền, đền tháp.

    - Văn học: Dân Ấn đã sáng tác ra các áng văn chương bất hủ như bộ Veda và các bộ sử thi: Mahabharata, Ramayana…..đây là niềm tự hào của nền văn hóa Ấn độ.

    1.2. ẤN ĐỘ GIÁO

    1.2.1. Quá trình hình thành

    Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng Ấn độ giáo được hình thành và hoàn chỉnh qua các giai đoạn sau:

    1.2.1.1. Vệ Đà giáo hay Phệ Đà Giáo

    Đây là tôn giáo được hình thành sớm nhất ở Ấn độ, cũng là giai đoạn đầu tiên của Ấn Độ giáo. Nó ra đời dựa trên triết lý thánh kinh Vệ Đà.

    Người ta thường gọi tôn giáo này là đa thần giáo, bởi họ thờ cúng rất nhiều các vị thần như: Indra (thần sấm), surya (thần mặt trời), agni (thần lửa), apas (thần nước), rudra (thần bão tố), vayu (thần gió)…Có thể nói, hầu hết các hiện tượng thiên nhiên đều có một vị thần trông coi, cai quản. Việc thờ cúng các vị thần linh, đối với dân tộc Ấn độ cổ đại, không phải là mê tín mà do lòng tin tưởng chân thành. Họ cho rằng cúng bái thần linh là lẽ sống, là nhu cầu thiết yếu, cần thiết của con người. Do đó, “Bất cứ việc gì, đối với bản thân, gia đình hay với bộ tộc, hơi động một tí là cúng bái trước đã. Thắng trận, thu được chiến lợi phẩm dù ít hay nhiều, làm lễ cưới vợ, sinh được con cái, mua may bán đắt, gia súc không bệnh tật và sinh đẻ nhiều, mưa nắng điều hòa, mùa màng tươi tốt, trong nhà an vui khoẻ mạnh….nhất nhất đều cúng tế trước để tạ ơn hay kêu cầu rồi sau đó có làm gì thì làm. Hoặc giả là làm điều gì không phải mà ăn năn, sám hối, biết mình phạm tội nên cầu xin thần linh tha thứ đừng giáng tai họa trừng phạt đều đến trước bệ thờ kêu cầu, khấn vái, rồi lựa những bài thánh tán ca xưng tụng công đức từ bi của vị thần mình cầu xin để ca hát”. [15, 31-32]

    Qua đây chúng ta thấy được rằng, các vị thần linh có nhiệm vụ chở che và hộ trì mọi người, chuyển họa thành phúc…Do đó, người Ấn cổ đại bao giờ cũng đặt trọn niềm tin của mình vào các vị thần linh.

    1.2.1.2. Bà La Môn giáo

    Đến những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, do xã hội phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng về giai cấp ngày càng sâu sắc; và dựa trên nền tảng Vệ đà, cũng như các hình thức dân gian… đã tập hợp thành một tôn giáo mới gọi là Bà La Môn. Đây cũng là giai đoạn chuyển bị thứ hai của quá trình hình thành Ấn độả giáo sau này.

    Lúc đầu, Bà La Môn giáo phát triển rất mạnh mẽ và có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với xã hội Ấn độ cổ đại. Nếu như Vệ đà giáo thờ cúng rất nhiều thần linh thì Bà La Môn giáo chỉ tập trung tôn thờ ba vị thờ chính yếu như sau:Brahma (Phạm thiên hay Đại Phạm Thiên),Visnu (Tì nữu), Shiva (Thấp bà thiên). Ngoài ra Bà La Môn giáo còn thờ các vị thần khác như thần Agni, thần Indra, thần surya…..và họ cũng sùng bái nhiều loại động vật như voi, khỉ và nhất là bò….

    Bà la môn cũng đã góp công thiết lập và duy trì chế độ giai cấp xã hội. Do vậy, xã hội Ấn độ thời bấy giờ được chia ra làm bốn giai cấp: Giai cấp Brahmin (Bà la Môn), giai cấp Kshatriya (Sát đế lợi), giai cấp Vaisya (Vệ xá), giai cấp Sudra (Thủ đà la). Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria, là những người nô lệ, cùng khổ.

    Để củng cố cũng như bảo vệ hệ thống giai cấp trên, người Aryan còn tạo ra một bộ luật Manu-đây là bộ luật nghiêm khắc và có rất nhiều điểm cực đoan. Nói về các giai cấp, luật Manu viết: “Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình (Brahma) đã tạo ra Brahmin, Kshatriya, Vaisya, Sudra” hay: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brahma, do sinh sớm nhất, do hiểu biết Veda, Bà la môn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy” [20, 88]. Trong bộ luật này cũng khẳng định: “Bà la môn mười tuổi và vua một trăm tuổi nên được coi là cha con nhưng trong ấy cha là Bà la môn”. [20, 88]

    Vào thời kỳ này có đến sáu phái triết học: Sankhya (Số luận), Yoga (Du già), Vaisesika (Thắng luận), Nyaya (Chánh lý), Mimansa (Di man tát) và Vedanta (Phệ đàn đà). Các phái triết học này được xem thuộc hệ thống của Bà la môn giáo.

    Qua đây chúng ta thấy được rằng chế độ giai cấp ở Ấn độ thời bấy giờ thật là nặng nề, khắc khe; nó buộc con người phải sống đúng thân phận của mình và phải tuân thủ theo bộ luật Manu và những gì đạo Bà la môn quy định.

    Bà la môn phát triển rộng rãi ở Ấn độ nhưng khi Phật giáo xuất hiện thì bị suy tàn trong một thời gian dài.

    1.2.1.3. Ấn Độ Giáo

    Sau một thời gian dài suy vi, đến thế kỷ VII Bà la môn dần dần được chấn hưng trở lại. Sau đó họ bổ sung thêm nhiều vấn đề mới như về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế tự…. Về đối tượng sùng bái, họ tập trung và đề cao ba vị thần : Brahma, shiva và visnu; về kinh điển họ tiến hành biên soạn lại kinh điển như bộ Brahmana (Phạm thư)- bộ này nhầm chú giải và thuyết minh những tinh hoa của Veda. Cũng từ đây các bộ lớn khác như Aranyaka (Lâm trung thư), Upanishad (Áo nghĩa thư) cũng được biên soạn. Thời kỳ này người ta gọi là Ấn độ giáo (hay Bà la môn canh tân). So với Bà la môn, thánh điển Ấn độ giáo có phần khác hơn nhưng nền tảng chung thì vẫn là căn cứ vào bộ Veda và chế độ giai cấp nặng nề, khắt khe của Bà la môn giáo gần như được giữ nguyên.

    Nói chung: Ấn độ giáo là một tôn giáo đa thần. Lúc đầu họ thờ cúng rất nhiều vị thần linh, về sau được hệ thống hóa lại chỉ còn có ba vị thần chủ yếu mà thôi. Các bộ thánh điển của tôn giáo này có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống văn hoá xã hội cũng như các tôn giáo được khai sinh sau đó. Điểm đặc biệt của Ấn độ giáo là không có một vị giáo chủ nào sáng lập rõ cả. Sự duy trì và truyền bá của tôn giáo này hoàn toàn phụ thuộc vào các giáo sĩ mà thôi. Có một điều chúng ta không thể phủ nhận, dù Ấn độ giáo không được truyền bá rộng rãi như Phật giáo nhưng ở tại Ấn độ nó có ảnh hưởng rất lớn. Theo số liệu thống kê của các nhà nghiên cứu vào năm 1991 thì ở Ấn độ có tới 83% dân số là tín đồ của Ấn giáo, trong khi đó tín đồ Phật giáo chỉ chiếm 0.76% mà thôi.

    1.2.2. Kinh điển của Ấn Độ Giáo

    Kinh điển của Ấn độ giáo chủ yếu có ba bộ lớn như sau:

    1.2.2.1. Bộ Veda (Vệ đà)

    Veda bắt nguồn từ căn ngữ “Vid”, nghĩa là tri thức, kiến thức, hiểu biết. Như vậy Veda là bộ sách của sự hiểu biết, bộ sách về tri thức. Bộ này vốn không do một ai sáng tạo ra cả mà nó là bộ sách được sưu tập và biên soạn lại bằng tiếng Sanskrit vào khoảng từ năm 1000 đến 800 trước CN, được mọi người tôn xưng là “Thánh kinh Veda”. Theo các học giả hiện đại, Veda được sắp xếp theo bốn tập sau:

    Bốn tập Samhitas (Sam có nghĩa là cùng với nhau, hita là sắp xếp hay sưu tập), cũng gọi là bốn bộ Veda

    Rig Veda (thường được phiên âm là Lê câu vệ đà): Gồm có 1028 bài thánh ca nhằm ca tụng, tán dương các vị thần linh. “Những bài thánh ca này ngoài ý nghĩa tín ngưỡng, nó còn là tác phẩm văn học có giá trị và thông qua đây chúng ta cũng hiểu được về nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Ấn độ cổ đại” [27, 11]…Đây là quyển xưa nhất và quan trọng nhất trong bốn quyển Veda.

    Sama Veda (Sa ma vệ đà): Gồm có 1549 bài tán ca được trích ra từ Rig Veda kết hợp với một ít bài mới. Nó được coi là “tri thức về các giai điệu ca chầu, cầu nguyện thần linh khi hành lễ”.

    Yajur Veda (Da du vệ đà): Bộ này tập hợp những nghi thức khấn vái thần linh và cách bố trí các lễ vật trong khi cúng tế. Có nhiều đoạn trong này được rút ra từ Rig Veda. Tuy nhiên Yajur Veda lại có những đoạn văn xuôi ngắn và một số đoạn tán ca có chung một đề tài.

    Atharva Veda (A thát bà vệ đà): Là bộ ghi chép những câu thần chú, ma thuật…dùng để cầu phúc, cầu an, giải hạn, cầu cho mọi người tai họa được tiêu trừ… nhằm đem lại điều may mắn tốt lành cho bản thân, gia đình và xã hội. Mặt khác nó còn có thể gây thương tổn cho kẻ thù, nguyền rủa kẻ thù….

    1.2.2.2. Upanishad (Áo nghĩa thư) có ba nghĩa chủ yếu

    - Theo Max Muller, Upanishad có nghĩa là lớp học trong rừng, ở đây những người học trò ngồi xung quanh thầy và nghe thầy giảng.

    - Theo Deussen, thì Upanishad có nghĩa là giáo lý bí mật, mà người thầy chỉ truyền trao cho một số ít học trò đã được thử thách và lựa chọn.

    - Theo Sankara, nhà sớ giải nổi tiếng của tập Upanishad, thì Upanishad có nghĩa là đoạn trừ, tiêu hủy tức là triết lý này đoạn trừ sự si mê, ngu dốt và mở đường cho chánh kiến và giác ngộ, giải thoát.

    Upanishad có tổng cộng 180 cuốn, được biên soạn vào cuối thời kỳ Veda. Cho nên nó còn có tên là Vedanta, nghĩa là sự kết thúc của Veda (sự kết thúc ở đây tức là sự hoàn chỉnh, hoàn thiện của tư tưởng Veda)

    Nội dung chủ đạo của Upanishad là nhất nguyên và duy tâm

    Nhất nguyên là vì các tác giả của Upanishad cho rằng: “Atman là Brahman, ẩn sâu trong con người” [5, 25]. Cũng có nghĩa bản thể của vũ trụ vạn hữu là cái bí mật của con người và biết được Atman tức cũng biết được Brahman. Mà muốn “hiểu biết về Atman không thể đạt được bởi lý luận. Atman sẽ trở nên dễ dàng lĩnh hội khi được giảng giải bằng cách khác (nhận thức trực giác, hướng nội hay thực nghiệm tâm linh). Bây giờ ngươi đã đạt được sự hiểu biết đó” [8, 100]. Như vậy muốn nhận ra được Atman, chúng ta phải quay về bên trong bằng con đường thực nghiệm tâm linh thì mới có thể thấy được bản chất của con người tức là Atman. Có khi người ta còn đồng nhất Atman với hơi thở.

    Duy tâm là vì Atman là cái nằm ẩn sâu bên trong, là cái bản chất của con người, của mỗi chúng sanh, “Atman ẩn dấu sâu kín trong trái tim của vạn vật đang sinh tồn. Người thoát khỏi sự ràng buộc của dục vọng và thế giới vật dục là người thấy được vẻ uy nghiêm của Atman qua sự yên tĩnh của tri giác và trí tuệ, người đó sẽ đạt được tự do từ khổ đau” [8, 103].

    Trong Upanishad, chúng ta cũng tìm thấy được những thuyết nghiệp (Karma), luân hồi và các phương pháp thực tập đưa đến giải thoát…….

    1.2.2.3. Bhagavad Gita (Chí Tôn Ca )

    Mahabharata là tác phẩm sử thi của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói chung, được xem là cuốn “Bách khoa toàn thư”. Ngạn ngữ Ấn cũng đã khẳng định: “Cái gì không được thấy trong Mahabharata thì cũng không thể thấy được ở Ấn độ”. Bộ sử thi này gồm có 200.000 câu thơ, dài gấp bảy lần tổng số câu của hai bộ sử thi cổ Hy Lạp Iliade và Odyssee cộng lại. Nó được biên soạn vào khoảng năm 500 trước công nguyên, đây là công trình sáng tác tập thể của nhiều thi nhân và trải qua nhiều thế hệ.

    Dưới triều đại các vua của Gupta, Bhagavad Gita được bổ sung vào bộ sử thi này và trở thành cuốn VI của toàn tập Mahabharata. Theo một số học giả thì. Bhagavad Gita gồm có 700 câu thơ và được chia thành 18 đoạn.

    Bhagavad Gita là bộ thánh điển quan trọng của Ấn độ giáo. Nó không những là tác phẩm văn học có giá trị mà còn cô đúc được hầu như tất cả những nguyên lý chính của đời sống tâm linh ấn độ cổ đại. Nội dung chủ yếu của thánh ca này là trình bày về:

    - Con đường tri thức

    “Nhờ ánh sáng của Jnana (tri thức), nhà ngươi sẽ nhận biết Brahma trong chính Atman của mình và ở trong Ta”. [13, 149]

    - Con đường của hành động:

    “Hành động của ai thoát khỏi dục vọng, được ngọn lửa của tri thức soi sáng, người đó xứng đáng là bậc hiền giả ở đời” [13, 149]

    - Con đường của sự sùng tín:

    “…..Những ai có lòng thành kính, vọng tưởng đến Ta…..những người đó mới thật là tông đồ mộ đạo, hiện hữu gần nhất bên Ta”. [13, 151]

    1.3. PHẬT GIÁO

    1.3.1. Quá trình hình thành

    Trước khi Phật ra đời, xã hội Ấn độ rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt của đời sống xã hội. Thời kỳ này tầng lớp Bà La Môn được kính trọng, tôn sùng tuyệt đối; bởi họ là những người được coi là có tri thức, có khả năng giảng dạy đạo lý và cúng tế thần linh. Còn giai cấp Sát Đế lợi (vua chúa, tướng lĩnh….) thống trị quốc gia, thâu tóm gần như toàn bộ đất đai. Trong khi đó, các giai cấp dưới phải lao động vất vả, chịu mọi sự khổ cực để cung phụng cho các giai cấp trên. Chính những lý do này khiến cho đời sống xã hội ngày càng nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc và dẫn đến sự phản kháng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, đòi quyền tự do, bình đẳng. Cũng chính vào thời điểm này ánh sáng từ bi trí tuệ của Phật giáo đã xuất hiện. “Phật giáo xuất hiện như là sự đáp ứng nhu cầu tinh thần phản kháng xã hội; một mặt nó phản ánh nỗi bất hạnh, đau khổ thực tế của nhân dân Ấn độ; mặt khác nó phản kháng chế độ đẳng cấp nghiệt ngã, chống lại sự áp bức, bất bình đẳng giữa con người. Nó công khai chống lại giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Bà la môn, bác bỏ uy quyền thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người”.

    Vậy Ai là người khai sáng ra Phật giáo?

    Đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni-Người đã khai sáng ra Phật giáo ra đời vào năm 563 trCN tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), trong thành Kapilavastu (Ca tỳ la vệ) ở gần biên giới Nepan ngày nay. Ngài được đặt tên là Siddhattha (có nghĩa là người được toại nguyện), họ Gotama. Cha là quốc vương suddhodana (Tịnh Phạn)trị vì vương quốc Kapilavastu; mẹ là hoàng hậu Màyà (Ma Gia). Sau khi Siddhattha chào đời được bảy ngày thì hoàng hậu đột ngột qua đời, việc nuôi dưỡng thái tử được giao lại cho em gái là Pajàpati Gotamì.

    Thời niên thiếu, thái tử được chăm sóc và dạy dỗ một cách toàn diện cả hai lĩnh vực văn và võ. Không bao lâu Ngài đã tinh thông tất cả, đến nỗi các vị danh sư nổi tiếng phải cúi đầu thán phục. Ngoài sự thông minh, văn võ toàn tài, Thái tử còn được mọi người yêu mến vì sự hiếu thảo, tính khiêm cung và lòng thương người…..

    Khi mười sáu tuổi, vâng lời vua cha, thái tử kết hôn với công chúa Yasodhara (Da du đà la)-một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài, ít lâu sau công chúa đã hạ sinh một hoàng nam tuấn tú đặt tên Ràhula.

    Mặc dù sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh nhưng lúc nào Thái tử cũng trầm ngâm, suy tư nhiều về kiếp sống nhân sinh “chính ta phải chịu cảnh sanh, già, bịnh, chết, phiền não và nhiễm ô”. hay Ngài suy niệm: “Cuộc sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược”.

    Do không chấp nhận chế độ phân biệt chủng tộc, đẳng cấp của xã hội, vì sự khát khao tìm cầu chân lý, nên thái tử Siddhattha từ bỏ tất cả, quyết chí ra đi tìm đạo cứu đời. Trải qua bảy năm tầm sư học đạo, thái tử đã thọ học với các vị danh sư nổi tiếng như Alàràma Kàlamà và Uddaka Ràmaputta và cũng đã kinh qua đời sống tu hành khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như; nhưng tất cả điều không giải quyết thoả đáng ý nguyện của Ngài. Sau đó Thái tử quyết định tĩnh toạ dưới gốc cây Tất bát la và thệ nguyện rằng: Nếu như không chứng được đạo Vô thượng bồ đề, thà thịt nát xương tan Ta cũng không rời khỏi chỗ này. Suốt bốn mươi chín ngày đêm suy tư thiền quán, cuối cùng khi sao mai vừa mọc Thái tử hoát nhiên đại ngộ, sạch hết phiền não, chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề hiệu Thích Ca Mâu Ni khi vừa tròn ba mươi lăm tuổi.

    Sau khi viên thành đạo quả, Đức Phật liền đem giáo pháp của mình chứng ngộ được truyền bá cho tất cả mọi người. Trước tiên, Ngài dự định hóa độ cho hai vị danh sư Alàrà Kàlamà và Uddaka Ràmaputta. Sau khi thiền quán để xem các vị ấy cư ngụ ở đâu, Phật biết được hai vị ấy vừa mới qua đời. Kế đến Ngài nghĩ đến năm người bạn tu khổ hạnh, và biết họ đang vẫn còn tu tập tại Sarnath (Vườn Nai). Ở đây Ngài đã tuyên dương chánh pháp bằng bài giảng Tứ Diệu Đế. Sau khi nghe pháp năm anh em Kiều Trần Như đều xin quy y và trở thành đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật, cũng từ đây Ba ngôi Tam Bảo được hình thành.

    Sau đó, Ngài tiếp độ Yasa-con vị thương gia giàu có cùng 54 người bạn của ông trở thành đệ tử xuất gia. Không bao lâu những bậc vua chúa như vua Bimbisara, Pasenadi….những bậc trí thức, đạo đức như uruvela kassapa, nadì kassapa, Gaya kassapa, tôn giả Sariputta, Mogallana, Mahà Kassapa hay các vị tỷ phú thương gia như Anàthpindika, visàkhà….đều lần lượt trở thành đệ tử xuất sắc của ĐứcPhật.

    Để hoàn thành hiếu đạo cũng như lợi ích cho hoàng gia, đức Phật trở về quê hương Capilavastu thuyết pháp hóa độ cho vua cha và tiếp độ vô số hoàng thân quốc thích như Ananda, Devadatta, Ràhula, Anuridha….Đặc biệt là Đức Phật õ cho phép di mẫu Pajapati xuất gia làm tỳ kheo ni và cho phép thành lập Ni đoàn.

    Khi bước vào tuổi tám mươi, nhận thấy con đường giáo hóa đã viên mãn, đức Phật cùng chúng tỳ kheo du hành về thị trấn Kusinàra, ở đây Ngài đã hóa độ cho vị đệ tử cuối cùng là Subbadra, đồng thời cũng tuyên bố nhập niết bàn. Trước khi từ giã cõi đời, Phật cho phép các tỳ kheo nêu lên những thắc mắc về giáo pháp: “Có nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật, Pháp, Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc”. Và Ngài cũng không quên khuyến khích các đệ tử hãy nổ lực tinh tấn thực hành giáo pháp “Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều là vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần”. Sau khi Phật nhập diệt, tôn giả Mahà Kassapa đã chủ trì lễ trà tỳ. Xá lợi Phật được chia làm tám phần, được vua quan và Phật tử các nước xây tháp phụng thờ.

    Sau khi Phật nhập niết bàn, Phật giáo được các vị đại đệ tử của Ngài truyền bá đi khắp nơi trên xứ Ấn độ. Đặc biệt là vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, dưới triều đại của vua Asoka, vị Hoàng đế này có công rất lớn trong sự nghiệp hoằng dương thánh giáo. Asoka gởi các đoàn truyền giáo đi khắp nơi, trong ấy có đại đức Mahinda-con của ông cùng với bốn vị tu sĩ khác được gởi sang Tích Lan truyền bá Phật giáo. Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên, vua Kanishaka cũng nhiệt tình ủng hộ Phật giáo. Ông đã ra lệnh cho khắc tam tạng kinh điển lên lá đồng và cho người bảo quản một cách cẩn thận.

    Trong quá trình phát triển, để phù hợp với từng thời đại, thích nghi với từng dân tộc, Phật giáo dần dần phân hóa thành hai bộ phái lớn đó là tiểu thừa và đại thừa hay còn gọi là Phật giáo nam truyền và Phật giáo bắc truyền. Mặc dù trên hình thức họ không đồng nhất với nhau về giáo lý cũng như về quan điểm…nhưng mục đích cứu cánh của hai truyền phái này là xiển dương thánh giáo nhằm đem lại lợi ích cho bản thân, tha nhân và xã hội.

    Phật giáo nam truyền được truyền bá qua hầu hết các nước đông nam á như Tích lan, Miến điện, Thái lan, Lào, Campuchia, Việt nam….còn Phật giáo bắc truyền thì được truyền bá qua các nước như Trung Quốc, Nhật bản, Triều Tiên….trong đó có Việt nam

    Ngày nay, do sự nhiệt tình hoằng pháp của các vị tổ sư nên Phật giáo cũng đã được truyền bá sang các nước như Mỹ, Pháp, Anh, Đức…..

    1.3.2. Kinh Điển Cơ Bản Của Phật Giáo

    Nói đến kinh điển Phật giáo thì phải đề cập đến Tam Tạng kinh điển

    1.3.2.1.Kinh tạng

    Sau khi Phật nhập niết bàn, các vị đại đệ tử của Ngài đã đúc kết lời Phật dạy thành năm bộ kinh chủ yếu như sau:

    Kinh Trường Bộ:Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh dài do Phật nói gồm có 34 bài kinh, tương đương với Kinh Trường A Hàm thuộc hệ thống Hán tạng.

    Kinh Trung Bộ :Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh trung bình gồm có 152 kinh, tương đương với Trung A Hàm thuộc Hán tạng.

    Kinh Tăng Chi Bộ: Bộ kinh này được sắp xếp theo pháp số, có mười một chương gồm 171 phẩm, có 2203 bài kinh, tương đương với Tăng Nhất A Hàm thuộc Hán tạng.

    Kinh Tương Ưng Bộ: Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh có cùng chung thể loại theo sự tương quan của từng vấn đề, gồm có 7762 bài kinh, tương đương với Kinh Tăng Nhất A Hàm thuộc Hán tạng.

    Kinh Tiểu Bộ:Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh ngắn, và không có tương đương trong Hán tạng. Nội dung của kinh này chia làm mười lăm loại sau: kinh Tiểu Tụng, kinh Pháp Cú, kinh Tự Thuyết, Như Thị Ngữ, Kinh Tập, Thiên Cung Sự, Ngạ Quỷ Sự, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, Thí Dụ, Kinh Bổn Sanh, Vô Ngại Giải Đạo, Kinh Phật Chủng Tánh, Sở Hành Tàng, Nghĩa Thích.

    1.3.2.2. Luật Tạng: là những giới điều mà Phật đã chế định, về sau được đúc kết thành các bộ như:

    Tứ Phần Luật: Gồm có 60 quyển

    Ngũ Phần Luật: Gồm có 30 quyển

    Thập Tụng Luật: 60 quyển

    Ma ha Tăng Kỳ Luật: Gồm 40 quyển

    Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da: Gồm 50 quyển

    1.3.2.3. Luận Tạng: không phải do Phật trực tiếp nói ra mà là những giải thích về Kinh, Luật do các vị đệ tử sáng tác, gồm có các bộ sau:

    Pháp Tập Luận: Bộ này nhằm phân loại, giải thích tất cả pháp

    Phân Biệt Luận: Bộ này cũng nhằm phân loại, giai thích tất cả pháp trên, có người cho rằng đây là bộ tục biên của Pháp Tập Luận.

    Giới luận: Trình bày về mối quan hệ giữa Uẩn, Xứ và Giới.

    Nhân Thi Thiết Luận: Bộ này nhầm thuyết minh về sáu phần: Uẩn, Xứ, Giới, Căn, Đế, Nhân.

    Song Luận: Gồm có mười phẩm nhầm nói rõ các mối hỗ tương của các pháp và các mối quan hệ sinh khởi và biến diệt.

    Phát Trí Luận: Bộ này nhằm nói rõ mối liên hệ của 122 môn và 24 duyên.

    Luận Sự: Gồm có 313 phẩm, 217 luận nhằm đả phá những chấp trước sai lầm của các bộ phái.

    Trên đây là những kinh điển căn bản của Phật Giáo, được nói ra từ kim khẩu của Đức Phật hay các vị đệ tử xuất sắc của Ngài. Ngoài ra, sau khi đại thừa Phật Giáo phát triển đã hình thành nên một số bộ Kinh, luận lớn như sau: Bộ Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma, Kinh Lăng Già, Kinh Đại Bát Niết Bàn….về luận thì có Bộ Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận, Thành Duy Thức Luận, Du Già Sư Địa Luận….

    Nói chung: Phật Giáo là một tôn giáo lớn của nhân loại, do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Dù ra đời cách đây hơn hai mươi thế kỷ, nhưng những lời dạy bất hủ của Phật vẫn còn thiết thực, đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa của châu Á nói riêng và cho toàn nhân loại nói chung.

    Chương 2: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

    2.1. QUAN NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI

    2.1.1. Quan niệm về giá trị con người của Ấn độ giáo

    Là con người thì ai cũng muốn có được một cuộc sống hạnh phúc trên hai phương diện vật chất và tinh thần. Trong xã hội Ấn độ cổ đại, nhất là vào thời kỳ Bà La Môn Giáo (giai đoạn thứ hai của quá trình hình thành Ấn độ Giáo), không phải người nào cũng có quyền được mong cầu như thế, chỉ có những tầng lớp thượng lưu, những người của đẳng cấp trên, cụ thể là Bà la môn và Sát đế lợi. Thời kỳ này đạo Bà La Môn phát triển rất mạnh, chiếm địa vị độc tôn trên vũ đài tư tưởng, chi phối gần như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Vì để củng cố thế lực cũng như địa vị ấy nên Bà La Môn đã phân chia xã hội ra làm bốn giai cấp lớn như sau:

    Giai cấp Brahmin (Bà la Môn): Đây là giai cấp cao nhất gồm toàn bộ giới tăng lữ, là những người có khả năng đảm trách tín ngưỡng, lo việc cúng tế, lễ nghi và có quyền thay mặt xã hội giao tiếp với các đấng thần linh.

    Giai cấp Kshatriya (Sát đế lợi): Là giai cấp của những người nắm quyền xã hội, thống trị lãnh thổ.

    Giai cấp Vaisya (Vệ xá): Gồm các thành phần thương gia, địa chủ…

    Giai cấp Sudra (Thủ đà la): Là giai cấp của những người tiện dân, cùng khổ, tôi tớ….

    Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria, là những người nô lệ, cùng khổ. Họ không được phép sống trong cộng đồng của bốn giai cấp trên, họ chỉ được sống ở những nơi bìa rừng hay ở xa làng xóm. Họ cũng không được phép nói chuyện hoặc quan hệ hôn nhân với các người thuộc giai cấp trên. Hằng ngày những người thuộc giai cấp này làm những việc khó nhọc như thiêu xác người, đổ phân, quét đường….

    Nói về sự phân chia giai cấp trong Rig Veda cũng đã khẳng định : giai cấp Bà la môn được sinh ra từ miệng của Brahma, hai tay của Ngài tạo thành đẳng cấp sát đế lợi. Hai bắp đùi của ngài là đẳng cấp Phệ xá. Từ hai bàn chân của Ngài là giai cấp thủ đà la.

    Qua đây cho chúng ta thấy được rằng, Ấn độ giáo quan niệm về giá trị con người hết sức bất công và không có sự bình đẳng. Đây là sự phân biệt chủng tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất thân. Những người thuộc giai cấp dưới phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng tuyệt đối vào sự an bài này, cụ thể là của những giáo sĩ Bà là môn. Bà là môn sở dĩ được coi là giai cấp tối cao, bởi vì họ là người độc quyền về tri thức. Họ không nhữngỉ giải thích, chú giải các bộ kinh về Veda, dạy dỗ mọi người mà còn có quyền thay mặt mọi người tiếp xúc với các đấng thần linh. Thời bấy giờ không phải ai cũng được học, đọc, hay nghe kinh thánh. Nếu người sudra mà nghe thánh kinh thì tai sẽ bị điếc, bị đổ chì vào. Nếu họ tụng thánh kinh thì sẽ bị cắt lưỡi. Còn người nào học thuộc lòng thánh kinh thì thân thể sẽ bị chặt làm hai. Đạo Bà la môn lúc ấy chỉ là đạo riêng của những người Bà la môn mà thôi, họ không cho bất cứ tầng lớp nào len lỏi vào.

    Không những thế, trong quan hệ giao tiếp, hôn nhân cũng được quy định rất chặt chẽ. Những người thuộc giai cấp thấp, nhất là giai cấp Puria không được quyền giao tiếp, sinh hoạt với những người thuộc giai cấp trên. Họ còn cho rằng, nếu người nào thuộc giai cấp Bà la môn không may bị người Paria giẫm lên cái bóng của mình thì người ấy phải làm lễ tẩy trần bằng cách nhịn ăn, và tắm nước thánh cả ngày hôm đó hay những người thuộc giai cấp thấp muốn đi qua một khu phố hay một khu chợ thì phải báo hiệu cho mọi người biết để tránh xa họ…. Về hôn nhân họ cấm không cho các giai cấp khác nhau kết hôn với nhau. Thậm chí các vương tôn công tử thuộc giai cấp Sát đế lợi không được phép kết hôn với con gái của Bà la môn. Còn nếu người Bà la môn cưới một người vợ thuộc giai cấp sudra thì con cái của họ sinh ra bị giáng xuống đẳng cấp hèn hạ nhất.

    Sự phân chia giai cấp này hết sức nghiệt ngã và quá bất công. Nếu ai không may sinh ra trong giai cấp hèn hạ, họ phải chấp nhận số phận đó cho đến khi nhắm mắt lìa đời mà không cócơ hội vươn lên địa vị cao hơn. Sự an bài các giai cấp trên đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các giai cấp dưới nên gây ra một cuộc phản kháng hết sức dữ dội nhằm đòi lại quyền tự do bình đẳng từ tay của những người thuộc giai cấp trên đã chèn ép, áp đặt cho họ.

    Như vậy, theo Ấn giáo, cụ thể là Bà la môn giáo thì thân phận con người không được tôn trọng như nhau, những người thuộc giai cấp trên thì được tôn trọng tuyệt đối, còn những người thuộc giai cấp dưới được coi là những kẻ nô lệ. Đời sống vật chất của những người thuộc giai cấp thấp còn chưa đầy đủ, thì làm gì có cơ hội thăng hoa trong đời sống tinh thần. Đây là quan điểm của Ấn giáo về giá trị con người.

    2.1.2. Quan điểm của Phật giáo về giá trị con người

    Vì nhận ra được cuộc đời là chuổi dài của khổ đau, luôn bị sanh, lão, bệnh, tử chi phối nên thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, quyết chí ra đi tìm đạo cứu đời. Sau khi chứng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Đức Phật đã lên đường giáo hóa chúng sinh, mang đến cho xã hội Ấn độ một luồng gió mới, một tư tưởng cách mạng mới. Như chúng ta biết, thời bấy giờ đạo Bà la môn chiếm địa vị độc tôn và họ đã thiết lập ra các giai cấp nhằm tước đoạt mọi quyền sống khiến cho con người rơi vào cảnh lầm than, khổ sở….. Vì lòng từ bi vô hạn cũng như với tuệ giác siêu việt Đức Phật từng bước thiết lập lại xã hội và đưa ra nhiều quan điểm đặc sắc để “chống lại” những tư tưởng tiêu cực và khắt khe của xã hội lúc bấy giờ. Về thân phận con người cũng như nói về các giai cấp, Đức Phật khẳng định: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Một người được coi là quý tộc hay hạ tiện là ở nơi hành vi của họ mà không phải ở đẳng cấp sinh ra”. Như vậy, Phật đã xác định sự bình đẳng giữa người với người, không có ai là quý tộc và cũng không có ai là hạ tiện. Quý tộc hay hạ tiện không phải do nơi giai cấp quy định. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo và nó được thể hiện rất rõ trong suốt quá trình hoằng dương thánh giáo của Ngài. Đức Phật mở rộng cánh cửa giải thoát nhằm tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang giàu, cao thượng hay hèn hạ…. Do vậy, trong tăng đoàn của Ngài có đủ mọi tầng lớp của xã hội, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thuộc tầng lớp Bà la môn, A Nan thuộc tầng lớp Sát đế lợi, Ưu Ba Li thuộc tầng lớp Thủ đà la…..Đức Phật nói rõ rằng: “Này các tỳ kheo, các con sông lớn đổ về đại dương thì mất tên trước kia của chúng và chỉ được gọi là đại dương. Cũng vậy, bốn giai cấp Bà la môn, Sát đế lợi, Vệ xá và Thủ đà la xuất gia, từ bỏ gia đình vào Pháp luật này được Như Lai tuyên bố, đều mất danh tánh và dòng dõi trước kia và chỉ còn được xem là Sa môn Thích tử”.

    Hơn thế nữa, Đức Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam hay nữ. Ngài cho rằng ai cũng có thể tu tập và đạt được quả vị giác ngộ giải thoát. Nghĩa là một người cho dù xuất thân từ giai cấp Bà la môn cao quý hay ở những giai cấp thấp, nếu thực hành theo giáo pháp của Ngài thì đều được thưởng thức hương vị thánh đạo, “Này các tỳ kheo, đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, Pháp và Luật của Ta cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”.

    Điểm đặc biệt nhất là Đức Phật tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn. Vì Ngài thấy rõ “người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn của Phật. Bởi người nữ xưa kia không được trọng đãi, tôn trọng. Đạo Bà la môn xem phụ nữ như là vật sở hữu của nam giới, sinh ra để phục tùng cho nam giới mà thôi và “cuối thời Veda và thời kỳ sử thi, phụ nữ phải chết theo chồng”[30,176].

    Còn đạo Jain thì cho rằng “Phụ nữ là ngọn đèn chiếu sáng con đường dẫn đến cánh cửa địa ngục”. Trước khi Phật ra đời, người phụ nữ không được hưởng quyền tự do, bình đẳng nên họ không có cơ hội thăng hoa về đời sống tâm linh của mình. Sau khi Ni đoàn được thành lập, hầu hết các vương phi, công chúa cho đến hàng thứ dân, gái giang hồ….. bất luận ở đẳng cấp nào cũng hưởng được “mùi vị” tự do, bình đẳng ấy. Cũng có rất nhiều cô gái, đáng lẽ mãi mãi bị lãng quên trong bóng tối khổ đau đã tỏ ra xuất sắc và đã thành tựu được giác ngộ giải thoát sau khi nương tựa vào giáo pháp của Như Lai.

    Nói chung:Phật giáo nhìn nhận giá trị thật của con người, không phải do sanh ra hay nguồn gốc xuất thân mà quyết định sự cao thượng. Sự cao thượng hay hèn hạ đều phụ thuộc vào hành động, nhân cách của con người. Và Đức Phật cũng khẳng định : Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, có khả năng thành Phật. Đây là điểm khác biệt chủ yếu về giá trị con người giữa Phật giáo và Ấn giáo

    2.2. QUAN ĐIỂM VỀ LINH HỒN

    Ngoại trừ Phật giáo, hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ đều chấp nhận có một linh hồn bất biến tồn tại trong mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng linh hồn bất biến ấy chính là Atman hay Purusa, Jiva, chính là cái Ta, cái Ngã hay là cái thực thể tuyệt đối trường cửu trong con người. Trong kinh Upanishad đề cập nhiều ví dụ nói về linh hồn :

    Chàndoya Upanishad nói:

    “Này con, nếu có ai chích vào rễ của một cây lớn thì cây sẽ chảy nhựa nhưng cây vẫn sống, thậm chí đốn ngang cây, thì cây vẫn sống, chặt hết đọt cây thì cây vẫn sống trong nó và cây tiếp tục dần dần hút nước và thức ăn từ lòng đất để tiếp tục đâm lá ra cành.

    Nhưng nếu linh hồn sống rời bỏ một cành là cành ấy khô héo, rời bỏ hai cành là hai cành khô héo, và nếu rời bỏ cả cây thì cây ấy chết khô.

    Giống hệt như vậy đó con trài à ! thân xác này chết, rời bỏ linh hồn sống; nhưng linh hồn thì không chết. Cái bản chất tinh anh nhất trong tất cả mọi vật tồn tại chính là linh hồn. Điều đó thật sự là chân lý”[8, 738]

    Như vậy, bản chất linh hồn là vĩnh cửu, vô tận; dù thân xác có bị tiêu hủy nhưng linh hồn vẫn tồn tại từ kiếp này đến kiếp khác “Sau cái chết của thân xác, linh hồn đi về một trạng thái siêu việt khác mà phẩm chất của trạng thái đó được xác định tùy vào hành nghiệp (karma) quá khứ, trong đó bản chất nguyên thủy của tự ngã có thể được khám phá. Nhưng từ tình trạng siêu việt này, Atman có thể quay về thế giới vật chất nếu chưa thành tựu được thực tại tối hậu” [14, 48]

    Trong The Bhagavad Gita có đề cập đến sự bất tử , vĩnh cửu của linh hồn:

    “Này Ajuna, linh hồn đã hiện thân thì vĩnh cữu, vô hủy diệt, bất khả tri và vô tận chứ không tạm bợ như thân xác. Vậy thì hãy chiến đấu. Kẻ nào có thể cho rằng linh hồn có thể giết được và kẻ nào có thể cho rằng linh hồn có thể bị giết, cả hai kẻ ấy đều ngu xuẩn. Linh hồn không thể giết được ai và cũng không hề bị giết. Linh hồn không sinh thì không tử. Linh hồn đã hiện hữu sẽ không ngừng hiện hữu. Linh hồn vô sinh, trường tồn vĩnh cửu, dù khi thân xác đã chết, linh hồn vẫn còn tồn tại……binh đao không thể đâm chém được linh hồn, lửa không thể làm khô héo được linh hồn. Linh hồn đã hiện thân không thể bị đâm chém, không bị thiêu hủy, không tan như nước, không khô héo. Linh hồn thường còn, linh hồn truyền sức sống vào vật, linh hồn bất biến, bền bỉ, là bất diệt”. [11,17]

    Như vậy, Ấn độ giáo chủ trương có một linh hồn (Atman) bất biến, tồn tại sau khi chết “Atman không sinh ra và cũng không mất đi……khi con người chết nó không chết” [16, 36]. Chính linh hồn này tái sinh vào các cảnh giới khác nhau và chịu sự chi phối của luân hồi.

    Phật giáo không chấp nhận quan điểm của Ấn độ giáo về Atman (linh hồn). Theo Phật “ý tưởng về linh hồn, về Ngã là một sự tin tưởng sai lạc, không có thực trong thực tại và nếu tin tưởng như thế sẽ phát sinh những tư tưởng bất thiện về “tôi”, và “của tôi”, dục vọng ích kỷ, kiêu căng ngã mạn, gây ra xung đột giữa cá nhân với cá nhân và giữa dân tộc này với dân tộc khác…” [21, 79]. Do đó, Phật đã tuyên thuyết rằng: tất cả vũ trụ vạn hữu trên thế gian này dù là vật chất hay phi vật chất đều vô ngã do duyên sinh, theo nguyên tắc sau:

    “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt
    Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt
    Do cái này sinh nên cái kia sinh
    Do cái này diệt nên cái kia diệt”.


    Cho dù linh hồn-được hiểu đơn giản là phần phi vật chất trong con người cũng phải do duyên sinh. Đức Phật phân tích một người là tập hợp của năm yếu tố: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó sắc (thuộc vật chất), bốn cái còn lại(thuộc phi vật chất). Nói cách khác, ngũ uẩn là một hợp thể duyên sinh vô ngã, không có cái nào tồn tại vĩnh cữu. Muốn tồn tại được phải nhờ nhân duyên, chẳng hạn như khi thức tồn tại phải nhờ “sắc làm điều kiện, làm đối tượng, sắc làm nơi nương tựa….Thức phát triển, hưng thịnh nhờ sắc. Thức tồn tại nhờ….thọ….tưởng….hành…. Nếu có ai nói tôi sẽ chỉ ra sự ra đi, sự đến, sự sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói lên một điều không thực” [2].

    Trong hệ thống kinh tạng Nikàya, khi nói đến Ngũ Uẩn, Phật thường hỏi các thầy Tỳ kheo: “Sắc này là thường hay vô thường?

    Bạch Thế Tôn! Vô thường

    Vô thường thì đưa đến khổ hay vui?

    Bạch Thế Tôn! Khổ

    Cái mà vô thường, khổ thì có hợp lý khi cho rằng cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi?

    Bạch Thế Tôn ! Không hợp lý

    Tương tự đối với thọ, tưởng, hành, thức…… [2]

    Hay có một cách phân tích khác nữa, chia sắc uẩn ra làm bốn yếu tố: địa, thủy, hỏa, phong; tập hợp các yếu tố phi vật chất lại thành một nhóm, gọi là thức. Như bài thơ của thiền sư Đạo Huệ thời Lý:

    “Địa, thủy, hỏa, phong, thức
    Nguyên lai nhất thiết không
    Như vân hoàn tụ tán
    Phật nhật chiếu vô cùng….”


    “Đất, nước, lửa, gió, thức
    Nguyên lai vốn rỗng không
    Cũng như mây lúc tụ, lúc tán
    Mặt trời Phật chiếu khắp nơi không hạn chế…”


    Qua đây cho chúng thấy được linh hồn mà Ấn giáo cho là trường cữu, khi nhìn dưới lăng kính Duyên sinh và qua phân tích về Ngũ Uẩn, Ngũ Đại của Phật thì không còn thấy gì là Ngã, là Tôi…chỉ là một thực thể vô ngã do nhân duyên nhóm lại mà thành, không có bất cứ cái gì tồn tại độc lập và vĩnh cửu.

    Mặt khác, Đức Phật bác bỏ về linh hồn nhằm không muốn cho các đệ tử của Ngài mất thời gian tư biện về những vấn đề siêu hình. Theo Ngài những vấn đề này không liên quan gì đến mục đích phạm hạnh, không có ích trong việc diệt trừ khổ đau, thành tựu chánh trí và chứng ngộ niết bàn. Trong kinh Alagaddùpama Sutta thuộc Majjhimà Nikàya Phật dạy: “......Này các Tỳ kheo, ta không thấy một linh hồn nào mà nếu chấp nhận sẽ không còn phát khởi buồn sầu, bi thương, thống khổ, phiền muộn, đớn đau” [21, 88]

    2.3. TƯ TƯỞNG NGHIỆP

    Nghiệp tiếng Phạn là Karma, tiếng Pali là Kamma, có nghĩa là hành động hay tạo tác.

    Nghiệp là giáo lý quan trọng đối với hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ. “Thuyết Karma bắt nguồn từ đâu? Điều này không rõ. Nhưng vào thời Phật thuyết Nghiệp đã được chấp nhận rộng rãi, hầu như tất cả mọi tôn giáo, như là đáp án logic nhất, có sức thuyết phục nhất đối với mọi “bất công”, “sai biệt” trong đời sống con người” [5, 29]

    Theo Ấn độ giáo, Nghiệp là “hành động cá nhân, đóng vai trò chủ chốt trong mọi việc, duy trì sự hài hòa vũ trụ, nhưng nó cũng ảnh hưởng quan trọng đến sự liên hệ của một người trong thế giới vật chất và quần thể”[17, 38].

    Mặt khác, Nghiệp còn đóng vai trò quan trọng quyết định số phận của con người và nó là động cơ chính tạo ra vòng luân hồi tái sinh. Trong Chàndogya Upanishad có nói: “Những người khi ở trần gian này biết cư xử tốt, thì rồi cũng nhanh chóng sẽ được sinh ra ở những đẳng cấp cao như giới Brahman, như Kshatriga, hay là như Vaisya. Nhưng những kẻ ở trần gian này hành động, làm việc tồi tệ, độc ác… thì kiếp sau họ sẽ được sinh ra như sự độc ác mà họ đã cư xử, sinh ra làm con chó, con heo, hoặc làm giới Chandala (hạng người thấp kém nhất của xã hội, dạng thối tha, bị xã hội ruồng rẫy)” [8, 714]

    Đối với Phật giáo, Đức Phật cũng đã sử dụng thuyết Nghiệp ấy. Bởi vì trong giáo lý của Phật nói đến Nghiệp rất nhiều. Nghiệp còn “có một ý nghĩa trọng yếu đối với nhân sinh quan Phật giáo, nếu không có nó thì không thể nào thuyết minh được những hình tướng nhân sinh, thậm chí không thể nói rõ chỗ quy hướng của lý tưởng nhân sinh” [24, 174].

    Mặc dù Phật tiếp thu tư tưởng Nghiệp ấy nhưng chính Đức Phật đã giải thích tận tường và trình bày đầy đủ về giáo pháp cao siêu ấy, hay “việc làm cho thâm diệu và phát triển quy luật Nghiệp báo là công trình của riêng Ngài, chứng tỏ Ngài là một tư tưởng gia đầy sáng tạo tân kỳ và một nhà tâm lý tinh tế”.

    Điểm sáng tạo và khác biệt thứ nhất là: Phật đã trình bày Nghiệp hết sức rõ ràng và nhấn mạnh tầm quan trọng của Tác ý, hay tâm, trong khi đó Ấn độ giáo chỉ nói chung chung và không rõ ràng.

    Đức Phật suy xét: “Nếu một hành động đều phải góp phần tạo nên sự hiện hữu trong một kiếp tương lai sau bao giờ cũng đầy đau khổ, thì sẽ không thể nào thoát khỏi hiện hữu và khổ sầu. Vì không ai tránh khỏi hành động. Do đó yếu tố quyết định cuộc đời tương lai của cá nhân cùng đặc tính của nó không thể tìm được trong hành vi ấy mà phải nằm trong động lực thúc đẩy hành vi ấy” [22, 320-321]

    Qua đây cho chúng ta thấy rằng thuyết Nghiệp của Phật, chú trọng đến động lực thúc đẩy, điều khiển hành vi bên trong, đó chính là tác ý. Trong kinh Phật cũng thường khẳng định: “Này hỡi các Tỳ Kheo, Như Lai xác định rằng, chính tác ý là nghiệp” [23, 341]. Theo Phật thì có ba nghiệp căn bản là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, trong ấy ý nghiệp là quan trọng nhất. Có thể nói: Nó là đầu mối của mọi tội lỗi và nó cũng có công nhất trong tiến trình giác ngộ, giải thoát của con người (công vi thủ, tội vi khôi). Hay trong kinh Pháp Cú 1, 2 Phật dạy:

    “Ý dẫn đầu các pháp
    Ý làm chủ tạo tác
    Nếu với ý ô nhiễm
    Nói lên hay hành động
    Khổ não bước theo sau
    Như xe chân vật kéo”.

    “Ý dẫn đầu các pháp
    Ý làm chủ, ý tạo
    Nếu với ý thanh tịnh
    Nói lên hay hành động
    An lạc bước theo sau
    Như bóng không rời hình” [4, 11- 12]


    Như vậy, Nghiệp theo quan điểm của Phật giáo là hành động có dụng tâm, có tác ý. Bất cứ một hành động nào có dụng tâm, tác ý đều gọi là Nghiệp cả.

    Mặt khác, Phật giáo còn nói rõ và chia ra Nghiệp ra thành nhiều loại như sau:

    Phân loại theo tên gọi:

    - Thiện nghiệp: Tư duy và hành động về các điều lành, có lợi cho ta và người; như thực hành ngũ giới, thập thiện…

    - Ác nghiệp: Tư duy và hành động về các điều ác, có hại cho mình và người, như làm những điều trái ngược với ngũ giới, thập thiện…

    Phân loại theo công tác:

    - Sanh nghiệp: Nghiệp chi phối đến sự thọ sanh của đời sau, thường là sát na sau cùng trước khi chết.

    - Trì nghiệp: Là nghiệp đi theo hổ trợ cho sanh nghiệp đến lúc mạng chung.

    - Chướng nghiệp: Là nghiệp làm yếu đi, chậm trễ hay dừng lại sự kết thành của sanh nghiệp, nó trái với trì nghiệp.

    - Đoạn nghiệp: Là nghiệp tiêu diệt năng lực của sanh nghiệp.

    Phân loại theo thời gian:

    - Hiện nghiệp: Là nghiệp trổ quả trong hiện tại.

    - Hậu nghiệp: Là nghiệp trổ quả trong tương lai.

    - Vô hạn định nghiệp: Là nghiệp trổ quả chưa biết thời gian nào trong tương lai.

    Phân loại theo tiến trình nhân quả:

    Nghiệp là tác động nhân quả của đời sống con người, là một tiến trình phức tạp, không máy móc; như gieo nhân nào gặt quả nấy. Chúng có một tiến trình Nhân-duyên-quả. Do đó, nhân và quả có những sai khác rất khó hiểu tận cùng đường đi của nghiệp. Nghiệp được chín muồi như sau:

    - Dị thời nhi thục: Từ nhân đưa tới quả phải có thời gian

    - Dị loại nhi thục: Từ nhân đến quả nó thay đổi chủng loại.

    - Biến dị nhi thục: Từ nhân đưa đến quả thay đổi hình tướng, số lượng.

    Phân loại theo năng lực:

    - Tập quán nghiệp: Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống hằng ngày.

    - Tích lũy nghiệp: Là các nghiệp được tích lũy từ vô thỉ.

    - Cực trọng nghiệp: Là nghiệp gây ấn tượng xấu ác, cực mạnh vào trong tâm lý của con người, như phạm tội ngũ nghịch…

    - Cận tử nghiệp: Là nghiệp tạo ra trong lúc lâm chung. Nó rất quan trọng, vì nó chi phối đến việc tái sinh của con người.

    Điểm khác biệt thứ hai: Ấn Độ Giáo cho rằng Nghiệp như là một định mệnh còn Phật giáo chủ trương Nghiệp là bất định nghiệp, tức Nghiệp có thể thay đổi được.

    Nghiệp là động cơ chính yếu dẫn con người đi vào các cõi luân hồi, sanh tử triền miên. Đức Phật không dừng lại ở việc phân tích sức mạnh và tác dụng của Nghiệp mà Ngài còn chỉ ra cách thức chuyển Nghiệp hay Nghiệp là Bất định, tức là con người có thể chuyển đổi Nghiệp của mình bằng hình thức tu tập, sống và thực hành theo những lời Phật đã dạy. Và Đức Phật nhấn mạnh tùy theo sự tu tập mà ta có thể hoá giải được Nghiệp, không nhất thiết phải gặt hái hết tất cả những Nghiệp xấu đã gieo. Như trong thời Phật còn tại thế, Angulimala-một kẻ sát nhân nhưng khi tu theo giáo pháp thì được chứng quả A la hán, Ambapàli-một dâm nữ tài sắc và giàu có ở thành Vaisali biết hồi tâm tu hành cũng đắc quả A la hán….

    Đức Phật còn trình bày rõ: “Cũng có thể quả của một nhân yếu mà tái sinh tròn đủ, còn quả của một nhân mạnh lại được lắng dịu”.

    Trong kinh Hạt Muối, Phật dạy:

    “Ví như này, hỡi các Tỳ kheo có người bỏ một nhúm muối vào một chén nước nhỏ, này các Tỳ kheo, các người nghĩ thế nào, nước trong chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn và không uống được hay không?

    Thưa có vậy, Bạch Thế Tôn!

    - Vì cớ sao?

    - Bạch Thế Tôn, vì nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó trở thành mặn, không uống được.

    - Này các Tỳ kheo, ví như có một người bỏ một nhúm muối như vậy vào sông Hằng, hỡi các Tỳ kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống được hay không?

    - Thưa không, Bạch Thế Tôn.

    - Vì cớ sao?

    - Bạch Thế Tôn, vì lượng nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn và vẫn có thể uống được.

    - Cũng vậy, này các Tỳ kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người ấy chịu khổ não. Lại nữa, này các Tỳ kheo, có người cũng làm một việc nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống hiện tại, cũng đền bù hết rồi, ngay một ít quả báo nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà huống là quả báo lớn…

    Như vậy, này các Tỳ kheo! Có người không tu tập thân, không giữ giới luật, không tu tập tâm, không tu tập tuệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày sống khổ, người như thế, dù phạm một tội ác nhỏ cũng làm nó khổ sở vô cùng.

    Như vậy, này các Tỳ kheo ! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới luật, có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện, sinh hoạt thoải mái, người ấy dù có phạm ác nhỏ, thì ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng đủ đền bù hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải chịu trong đời sống sau, huống hồ là quả báo lớn…..” [7, 66- 67]

    Như vậy, Nghiệp không phải là định nghiệp. Nếu ai hiểu tường tận về quy luật vận hành của nghiệp, và với tâm được tu tập, thì người ấy hoàn toàn có thể hạn chế tiến tới triệt tiêu được Nghiệp quá khứ.

    Trong Ấn Độ Giáo hình như không có đề cập đến vấn đề này, cụ thể là khi con người sinh ra phải theo Nghiệp mà an phận trên sự phân chia giai cấp, sanh ra ở giai cấp nào thì hãy sống trong giai cấp ấy, chẳng hạn như người sanh trong giai cấp hạ tiện thì mãi mãi không thể nào vươn lên giai cấp cao hơn. Đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo và Ấn độ giáo

    Điểm khác biệt thứ balà: Đức Phật chú trọng đến thực tiễn hơn là mặt lý luận “khi Phật xử lý về thuyết này thì thường chỉ chú ý về phương diện thực tiễn chứ không hề lưu tâm về mặt luận lý” tức là Phật chú trọng về phương diện thực hành để chuyển đổi những nghiệp ác, bất thiện. Đạo Phật được tồn tại và phát triển trong trào lưu của Ấn độ cũng chính ở phương diện này. Về thuyết Nghiệp Phật khuyên con người nên làm lành, lánh dữ. Và cũng từ đây Phật đã xây dựng nên một nền đạo đức Phật giáo đầy tính nhân bản, nhân văn và hết sức trí tuệ. Mọi hạnh phúc hay khổ đau đều tùy thuộc vào chúng ta cả. Không có thần linh nào quyết định số phận của con người.

    “Tự mình, điều ác làm
    Tự mình làm nhiễm ô,
    Tự mình không ác làm,
    Tự mình làm thanh tịnh.
    Tịnh, không tịnh tự mình
    Không ai thanh tịnh ai” [4, 97]


    Hay trong kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt-Trung Bộ III, Phật có dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”.

    Đức Phật trình bày về vấn đề này nhằm chỉ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của từng cá nhân, cũng nhầm khích lệ con người bỏ ác làm thiện. Bởi từ thiện nghiệp con người dễ đi vào giải thoát hơn.

    Trên đây là một số điểm đặc sắc và khác biệt giữa Nghiệp của Phật giáo và Ấn độ giáo.

    2.4. TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT

    Giải thoát là khát vọng muôn đời của con người. Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều lấy giải thoát làm mục đích cứu cánh cho mình. Giải thoát là một phạm trù rộng lớn “có thể ví nó như viên ngọc được ngắm nhìn ở nhiều góc độ khác nhau. Người ta có thể xem xét nó qua các mặt khác nhau như trạng thái, mục đích, phương tiện và kết quả và người ta cũng có thể xem xét ở các mặt bản thể luận hay mặt nhận thức luận, mặt triết học, mặt tâm lý, cũng như mặt đạo đức, tôn giáo” [9, 45].

    “Giải thoát” bắt nguồn từ tiếng Phạn là Mosha, Mukti, có nghĩa: “Giải” tức là cởi ra, mở ra, tháo ra….”; “Thoát” là vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế giới giả tưởng, sanh tử luân hồi.

    Mỗi tôn giáo đều có quan niệm giải thoát khác nhau. Như Ấn độ giáo cho rằng giải thoát là “đưa tiểu ngã (Atman) hay linh hồn cá biệt hòa nhập vào đại ngã (Brahman hay “tinh thần vũ trụ tối cao”)” [9, 46] tức là sự hoà nhập, sự đồng nhất giữa Atman và Brahman. Còn Phật giáo thì cho rằng giải thoát là trạng thái từ bỏ hết mọi tham ái, dục vọng, chấp trước…., là sự trở về sống thật với con người hằng hữu xưa nay, bất sanh bất diệt.

    Có thể nói, dù Phật giáo và Ấn độ giáo xuất phát điểm từ sự khổ của kiếp sống nhân sinh nhưng mỗi bên đều có quan niệm về giải thoát khác nhau.

    2.4.1. Tư tưởng giải thoát trong Ấn độ giáo

    Chúng ta có thể chia tư tưởng giải thoát của Ấn giáo ra làm các giai đoạn sau:

    2.4.1.1. Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda và Upanishad

    2.4.1.1.1. Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda

    Do đời sống còn lạc hậu, và luôn phải chịu sự tác động, chi phối của tự nhiên nên tư tưởng giải thoát của con người thời bấy giờ chủ yếu là sự cung phụng, thờ cúng các vị thần linh, để mong các vị thần linh che chở, hộ trì. Do đó, trong các bộ kinh Veda ta thấy hầu hết là các bài tán ca về các vị thần linh. Như bài tán ca về thần lửa (Agni):

    “Ngài là bó đuốc của cúng tế
    Không có Ngài thì những vị bất tử không được hài lòng
    Hãy giáng xuống đây cùng chư vị thần linh
    Hãy ngự xuống đây, hỡi thần lửa
    Như một vị đệ nhất chủ lễ” [28, 33]


    Hay có bài tán ca cầu sự trợ giúp của thần linh:

    “Đấng Pusan, chúng tôi cầu khẩn sự giúp đỡ của Người; với quyền tối cao, chúa của tất cả những gì bất động và chuyển động, Người truyền cho sức sống linh hồn.

    Cầu xin Người ban cho chúng tôi sự giàu có ngày càng một tăng thêm, Người là chủ nhân, vừa là người bảo vệ chúng tôi, không bao giờ hiểu sai lòng tốt của chúng tôi”[8, 64]


    Thời kỳ này (thời kỳ Veda) thiên nhiên đã gây ra cho con người vô số hiểm họa, tai nạn….cho nên, người dân Ấn độ đã sáng tạo ra vô số vị thần như thần mưa, thần lửa, thần mặt trời, thần mặt trăng….không những để giải thích các hiện tượng tự nhiên mà còn thông qua đó giải thích các lãnh vực xã hội như về luân lý, đạo đức. Khi nói về đạo đức, bảo vệ công lý, họ đã sáng tạo ra vị thần Varuna-nhằm giám sát cả thế giới, thưởng người thiện, phạt kẻ ác và tha thứ cho những người cầu nguyện mình:

    “Dù nằm hay ngồi
    Dù có hai người bạn thì thầm khi ngồi gần nhau
    Chúa Varuna đều biết cả
    Nhìn thấy cả,
    Và nghe thấy cả
    Ngài là người làm chứng vĩnh cửu” [28, 37]


    Qua đây chúng ta thấy được rằng: khát vọng của con người thời bấy giờ là lý giải các hiện tượng thiên nhiên, cầu mong các vị thần linh che chở để họ được tồn tại và sống hạnh phúc. Có thể nói, tư tưởng giải thoát trong kinh Veda chủ yếu “nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là mối đe dọa đến sự sinh tồn, sống chết của con người bởi những lực lượng thiên nhiên mạnh mẽ huyền bí với một bên là ý chí, ước vọng vươn lên để khẳng định sự tồn tại của bản thân con người, cầu mong một sự sống an lành của người dân Ấn độ cổ. Và như thế con đường thờ phụng, cầu xin trợ giúp các đấng thần linh” [9, 103] là mục tiêu giải thoát của họ. Nói cách khác, muốn giải thoát, hạnh phúc phải cầu nguyện, cúng bái và đặt trọn lòng tin của mình vào các đấng thần linh. Đây được coi là đại biểu tối cổ cho tư tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn độ cổ đại.

    2.4.1.1.2. Tư tưởng giải thoát trong Upanishad

    Upanishad là một trong những bộ kinh quan trọng của Ấn giáo. Ở đây tư tưởng giải thoát Ấn giáo đã phát triển một cách mạnh mẽ và sâu sắc, đánh dấu một bước phát triển lớn từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Nó có ảnh hưởng lớn trong đời sống tinh thần và đạo đức của xã hội Ấn độ cổ đại.

    Nếu như tư tưởng giải thoát trong kinh Veda thiên về con đường thờ phụng, cầu xin sự phù hộ của các tha lực từ siêu nhiên thì trong Upanishad đã khám phá ra một con đường, một cách thức giải thoát mới là dùng trí tuệ để lý giải những vấn đề về nguồn gốc của vũ trụ và khám phá ra bản chất đời sống tinh thần của con người, tìm con đường giải thoát cho con người khỏi những nỗi khổ của cuộc đời.

    Tư tưởng giải thoát trong Upanishad chủ yếu là làm sao cho tiểu ngã Atman hòa nhập vào đại ngã Brahman. Brahman là thực thể của vũ trụ, là tinh thần vũ trụ tối cao. Trong chàndogya Upanishad viết: “Brahman không lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rỡ, không tối tăm, không mùi, không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không hơi thở, không trong, không ngoài, không tiêu hủy mà cũng không bị tiêu hủy”. Hay trong Taittiriya Upanishad viết: “Cái do đấy mọi vật sinh ra; cái nhờ đó mọi vật sống được và cái ở đó mọi vật trở về sau khi tiêu tan” . Như vậy, Brahman là đối tượng mà con người hướng tới, giống như sự trở về với thượng đế của các tôn giáo khác hay giống như câu “Đạo khả đạo phi thường đạo “ của Đạo Giáo. Tuy nhiên, Brahman giống như đại dương mênh mông, còn linh hồn Atman của hết thảy mọi người như những đợt sóng của đại dương. Những đợt sóng Atman có vô số nhưng thực chất chúng là một thực thể trong đại dương Brahman.

    Theo Upanishad “Atman là Brahman ẩn sâu trong con người”, tức là biết được Atman cũng biết được Brahman. Do đó giải thoát cũng có nghĩa là nhận ra cho được Atman. “Biết về Atman không thể đạt được bởi lý luận. Atman sẽ trở nên dễ dàng lĩnh hội khi được giảng giải bằng cách khác. Bây giờ ngươi đã đạt được sự hiểu biết đó”. Như vậy, muốn giải thoát theo kinh Upanishad thì con người phải quay về bên trong, phải kinh qua quá trình tu luyện đạo đức, thực nghiệm tâm linh, diệt trừ mọi dục vọng, ham muốn… để hòa nhập linh hồn Atman vào bản thể tuyệt đối Brahman.

    2.4.1.2. Tư tưởng giải thoát trong thời kỳ Bà la môn

    Tư tưởng giải thoát trong thời kỳ Bà la môn, tiêu biểu nhất là tư tưởng giải thoát của sáu phái triết học: Sankhya, Yoga, Vaisesika, Nyaya, Mimansa và Vedanta. Đây được xem là sáu phái triết học thuộc hệ thống của Bà la môn, công nhận uy thế mặc khải của Veda và dựa trên tư tưởng giải thoát của Upanishad. Tư tưởng giải thoát thời kỳ này phát triển phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn, nhất là bàn kỹ hơn về phương pháp đưa đến giải thoát.

    - Phái Samkhya cho rằng: Mục đích tối hậu của con người là diệt đau khổ. Nhưng muốn diệt trừ đau khổ phải hiểu được hai mươi lăm thực thể

    * Năm duy:Sắc, thanh, hương, vị xúc
    * Năm tri căn: Tai, da, mắt, mũi lưỡi,
    * Năm tác căn: Lưỡi, tay, chân, nam nữ căn, căn quan bài tiết
    * Một ý
    * Năm đại:
    Địa, thủy, hỏa, phong, không


    Thì mới được giải thoát, giải thoát ở đây tức là biết được cái tri thức duy nhất chân chánh (không có gì là “ta”, không có gì là của “ta”)

    - Phái Yoga thì cho rằng giải thoát là làm cho tinh thần trở nên thanh tịnh, thuần khiết, hòa nhập linh hồn vào đại ngã Brahman. Để thực hiện được điều này, con người cần phải kiên trì tu tập tám giai đoạn sau: yama, Niyama, asana, Pranyama, Pratyahara, Dharana, Dhyana, sammadhi.

    - Giải thoát theo phái Mimansa là làm con người thoát khỏi vòng vây hãm của nhục thể bằng cách tuân thủ triệt để các quy định, nghi thức, những giới luật trong Veda…

    - Phái Nyaya chủ trương: Giải thoát là một trạng thái đạt được sau khi vứt bỏ hết mọi dục vọng và làm cho linh hồn con người trở nên thanh thoát, tự tại. Để thành tựu được mục tiêu giải thoát, phái này cho rằng con người cần phải tuân thủ các giới luật, tu tập thiền định và diệt trừ dục vọng bằng phương pháp tư duy đúng đắn để đạt đến chân lý.

    - Phái Veisesika: Chủ trương giải thoát cũng giống như phái Nyaya. Muốn được giải thoát thì con người phải thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ (thực thể, tính chất hay đức, vận động hay nghiệp, phổ biến hay đồng, đặc thù hay dị, nội thuộc, hòa hợp), thực tập thiền định và diệt trừ dục thì mới hòa nhập vào đại ngã.

    - Phái Vedanta: Giải thoát “chính là vứt bỏ mọi sự ràng buộc của thể xác, nhục dục đối với linh hồn, đưa linh hồn bất tử trở về đồng nhất với linh hồn vũ trụ tối cao”. Để thành tựu được mục tiêu ấy, con người cần phải trải qua quá trình thực nghiệm tâm linh, phát triển trí tuệ.

    Nói chung: Các trường phái triết học trên đều coi con đường giải thoát là con đường nối liền tiểu ngã tương đối với đại ngã tuyệt đối thông qua các quá trình tu tập thiền định, và thực nghiệm tâm linh. Họ đều tập trung vào tinh thần, đạo đức, tâm lý con người, phủ nhận cuộc sống, tiền tài, danh vọng…. để hướng con người đến nơi thánh thiện, hạnh phúc.

    2.4.1.3 Tư tưởng giải thoát trong Bhagavad Gita

    Bhagavad Gita là một tác phẩm được coi là thánh thư của Ấn độ giáo. “Nó là bộ Tân Ước của Ấn độ, được trọng gần ngang với các kinh Veda” [12, 383]. Người Ấn xem tác phẩm như là món quà của thượng đế ban tặng cho nhân loại, để con người có thể tìm trong đó những lời giải đáp về đời sống tâm linh, về thái độ sống, về nhu cầu giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc.

    Tư tưởng và phương pháp giải thoát trong Bhagavad Gita cũng giống như trong kinh Upanishad. Nhưng có một điểm khác mới mẻ và độc đáo là ngoài các con đường để đưa đến sự giải thoát như con đường tu luyện trí tuệ, thực nghiệm tâm lý….tác phẩm này còn đề cập đến con đường sùng tín tức là tin tưởng tuyệt đối vào Brahman cũng được giải thoát “Ai thực tình vì Ta, vứt bỏ hết mọi hành động, ao ước nghĩ đến Ta, yêu kính Ta, suy tưởng về Ta, miệt mài theo giới luật, người đó được Ta cứu khỏi đại dương sanh tử” hay “……những ai có lòng thành kính, vọng tưởng đến Ta…..những người đó mới thật là tông đồ mộ đạo, hiện hữu gần nhất bên Ta”. [13, 151]

    2.4.2. Tư tưởng giải thoát trong Phật giáo

    Giải thoát là mục đích cứu cánh cho những ai tu theo Phật giáo. Tất cả tam tạng kinh điển của Đức Phật đều giúp cho mọi người đạt đến giác ngộ và giải thoát. Trong Phật giáo có rất nhiều phương pháp tu tập để đạt đến giải thoát nhưng tựu trung không ngoài bốn chân lý vi diệu, đó là Tứ thánh đế.

    Có thể nói tư tưởng giải thoát của phật giáo bắt nguồn từ nỗi khổ của nhân sinh. Như chúng ta biết, Thái tử Tất Đạt Đa vì nỗi khổ của con người, vì sự khổ của sanh, lão, bệnh, tử….mà từ bỏ mọi lạc thú ở đời, ra đi tìm chân lý cứu độ chúng sanh. Sau khi viên thành đạo quả, với tuệ giác siêu việt Đức Phật đã tuyên bố cuộc đời là khổ đau, hay tuyên thuyết chân lý về khổ (khổ thánh đế).

    Khổ là một sự thật, một thực trạng trong kiếp sống nhân sinh. Đức Phật trình bày về chân lý khổ không phải để cho mọi người chán nản, bi quan mà tìm về với cuộc sống ẩn thân nơi thâm sơn cùng cốc. Mục đích của Phật là giúp cho chúng ta thấy rõ sự thật khổ đau để từ đó thoát ly, xa lìa khổ đau. Khổ thường biểu hiện qua hai phương diện: Khổ đau về thể xác cũng như khổ đau về tinh thần: “Sanh là khổ, già, bệnh, chết là khổ, sầu bi là khổ, ưu não là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn là khổ” [2]. Đây là những khổ đau mà con người phải gánh chịu.

    Không dừng lại ở nỗi khổ của con người, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân của khổ. Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái hay khát ái. Do tham ái mà bám víu và chấp thủ vào các đối tượng của tham ái “chính ái này đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái, vô hữu ái” [2]

    Ái là một năng lực tinh thần hết sức mạnh mẽ, luôn tiềm ẩn trong tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Nó chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Con người thường thích chạy theo tiếng gọi của tham ái như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon ngọt, xúc chạm êm ái…tham ái càng mạnh thì chấp ngã, chấp thủ càng sâu dày. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực dẫn đến tái sinh đời này đời khác. Những ham muốn năm trần trên gọi là dục ái. Hữu ái tức là bản năng sinh tồn. Do muốn tồn tại nên sinh lòng sợ hãi sự chuyển sinh hay hoại diệt. Hữu ái có ba đối tượng: Dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Có người mong muốn mình có mặt trong dục giới, tái sinh trong dục giới. Có người lại nhàm chán các dục lạc từ sắc, thinh, hương, vị, xúc, họ nhàm chán cõi dục và khởi lên mong ước về cõi sắc. Có người lại nhàm chán cả đến các sắc tướng mong tồn tại ở trong thế giới không có sắc tướng, họ được sinh về cõi vô sắc.

    Có nhiều người nhàm chán cả cuộc sống sanh diệt, mong muốn không còn sống lâu hơn nữa, không còn thác sinh nữa. Đây là biểu hiện của vô sắc ái. Bởi vì, không ham muốn sống thì bấy giờ họ có thể nuôi dưỡng lòng tham ở chỗ không sanh diệt và vẫn còn cái tập khí ham muốn. Chính đây là một thứ lửa nung nấu cho khổ đau tồn tại.

    Qua đây chúng ta thấy rằng nếu còn khát ái, là còn sinh tử, khổ đau. Nói cách khác, gốc của mọi khổ đau chính là tham ái. Tuy nhiên, tham ái không có nghĩa là nguyên nhân đầu tiên của khổ đau. Bởi vì chính ái do thọ sinh, thọ do xúc sinh… thức do hành sinh, hành do vô minh sinh. Ái chính là cái nhân chính yếu và gần nhất của khổ đau.

    Nói nguyên nhân của khổ đau là khát ái, có nghĩa là nhân của khổ đau là do 12 nhân duyên tập khởi hay năm thủ uẩn tập khởi. Bởi vì, theo Duyên khởi, ái có mặt là 12 nhân duyên có mặt, ái có mặt (hay hành uẩn có mặt, vì ái thuộc hành uẩn) là năm thủ uẩn có mặt. Có thể nói rằng tập đế chính là 12 nhân duyên hay chính là năm thủ uẩn.

    Nói đến khát ái tức là đến sân và si. Sân chỉ là bề trái của khát ái và si tức là bản chất của khát ái (si tức là không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm ham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú). Vì vậy, có thể nói rằng tập đế chính là tham, sân, si……

    Và Đức Phật đã giới thiệu thêm cho chúng ta về chân lý thứ ba, đó là Khổ Diệt Thánh Đế.

    Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, những nguyên nhân đưa đến khổ đau và sự chấm dứt đau khổ cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế cũng đồng nghĩa với niết bàn và giải thoát.

    Trong Đế Phân Biệt Tâm Kinh, Đức Phật có định nghĩa về Diệt đế như sau: “Chính sự đoạn diệt, ly tham, không có tàn dư khát ái, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát không chấp trước”.

    Khi hành giả biết được khổ, nguyên nhân của khổ nên khởi tâm ly dục, xa lìa mọi tham ái, chấp thủ thì sẽ được an lạc, hạnh phúc (Niết bàn). Hạnh phúc có nhiều mức độ khác nhau, tùy theo sự đoạn trừ tham ái, chấp thủ mà có được sự an lạc, giải thoát, niết bàn khác nhau. Niết bàn của Phật giáo là cảnh giới giải thoát, thoát ly mọi khái niệm ngôn ngữ, thoát ly mọi tướng trạng diễn đạt, không phải là vấn đề của khảo sát. Niết bàn thoát ly mọi ý niệm nên vượt ngoài thời gian và không gian. Tất nhiên, Niết bàn không phải là một nơi chốn, không phải là sớm muộn, lâu dài… không phải là vận chuyển, không phải là kết quả hay hậu quả của bất cứ cái gì, không phải là tương đối hay tuyệt đối không phải là thường hay vô thường, chỉ có thể nói Niết bàn là thực tại như thật, nhận biết được bằng thể nhập do tham ái diệt hay khổ diệt.

    Chân lý thứ tư-khổ diệt đạo thánh đế

    Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, niết bàn. Toàn bộ giáo lý của Phật đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm 37 phẩm trợ đạo. Phật dạy: “Này các tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo phần”.

    Trong 37 phẩm trợ đạo, tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo đế “khổ diệt đạo thánh đế chính là Bát thánh đạo; tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”. Có thể phân chia Bát chánh đạo trên cơ sở Tam Vô Lậu Học thì Tuệ gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy; Định có chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; Giới gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

    Trong quá trình phát triển, các bộ phái đã dựa trên nền tảng Tứ thánh đế mà triển khai ra nhiều phương pháp cũng như mục tiêu của giải thoát.

    Như vậy, giải thoát trong Phật giáo là quá trình tu tập, thực nghiệm để xóa bỏ mọi tham ái, chấp trước…. hướng con người đến một trạng thái thanh tịnh, vắng lặng, an lạc vĩnh cửu (Niết bàn)

    Trên đây là tư tưởng giải thoát của Ấn độ giáo và Phật giáo. Nhìn chung thì nó cũng có điểm giống về cách thức tu tập, tức là quay trở về bên trong bằng con đường “thực nghiệm tâm linh”cũng như tu luyện về đạo đức…. nhưng cũng có một số điểm khác biệt chủ yếu như sau:

    Chủ trương giải thoát của Ấn độ giáo là một quá trình cần được chuẩn bị dần dần, qua bốn giai đoạn:

    Brahmacàrin (Phạm chí kỳ): Là giai đoạn học tập của thời niên thiếu, sống như những học trò để học thánh kinh Veda.

    Grhastha (Gia cư kỳ): Là giai đoạn trưởng thành, lấy vợ, sanh con, tạo lập sự nghiệp.

    Vànaprasth (Lâm cư kỳ): Là giai đoạn rút vào rừng sâu để tu luyện thiền định, xa lìa gia đình, vợ con.

    Parivràjaka (Du hành kỳ):Đây là giai đoạn xả ly tất cả tình cảm gia đình và xã hội để chuyên tâm tu tập, rèn luyện đạo đức, tức là cầu mong đạt đến sự giải thoát.

    Hay họ còn chủ trương “chỉ khi nào con người hòa đồng được tiểu ngã của mình với đại ngã của vũ trụ thì lúc ấy mới có giải thoát” [25, 200]

    Phật giáo không chủ trương như thế. Giải thoát có thể tu tập ở bất cứ độ tuổi nào, thời điểm nào trong cuộc sống cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần thông qua các giai đoạn trên. “Nghĩa là bất cứ trong giờ phút nào ta cắt đứt được mọi mối ràng buộc của tham lam của dục vọng, khiến cho tâm hồn thanh thản, tự do, tự tại thì ngay giờ phút ấy ta đã đến cảnh giới giải thoát chân thật” [25, 200]

    Như trong Kinh Tứ Niệm Xứ-Trung Bộ I, Đức Phật có dạy người nào trú tâm vào pháp tu mình đã chọn thì nhanh nhất là bảy ngày chứng giải thoát, giác ngộ, chậm nhất là bảy năm.

    Tư tưởng giải thoát của Phật giáo còn vượt xa hơn nữa, khi đã thành tựu được mục tiêu giác ngộ giải thoát rồi, hành giả cần phải vứt bỏ luôn các phương pháp tức là phá luôn pháp chấp. Trong kinh Phật thường nói: pháp “như tiêu nguyệt chỉ” hay “như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” cũng có nghĩa là khi con người đạt đến mục tiêu giải thoát thì phải bỏ nốt luôn tất cả các phương pháp ấy (Bát thánh đạo, Tam vô lậu học….) để đạt được sự giải thoát tuyệt đối.

    Nếu đứng trên lập trường hoạt động, thì tư tưởng giải thoát của Ấn độ giáo mang nặng tính chất tiêu cực. Như ở trên ta đã đề cập giải thoát là sự từ bỏ tất cả gia đình, xã hội, rút vào rừng sâu để chuyên tâm tu tập, thể nghiệm tâm linh mà không chú trọng đến số đông, không vì lợi ích chung cho con người. Đức Phật, khi chưa thành tựu được tuệ giác, Ngài cũng có một thời gian xa lánh thế tục để tu tập nhưng khi giác ngộ, giải thoát thì Ngài quay trở lại nhân gian cứu độ chúng sanh “tại Ấn độ, có nhiều tôn giáo, nhưng chỉ có Phật giáo là lấy toàn thể chúng sanh làm đối tượng để truyền giáo và cũng chỉ có Phật giáo mới có những giáo lý làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mọi hạng người” [25, 199].

    Mặt khác, Ấn độ giáo cho rằng giải thoát là quá trình đưa tiểu ngã Atman hay linh hồn cá biệt hòa nhập vào đại ngã Brahman hay “tinh thần vũ trụ tối cao”. Ngược lại, Phật giáo phủ nhận vai trò sáng tạo muôn loài của Brahman (Phạm thiên) và nói rằng: “Phạm thiên chỉ là một giống sinh vật cao cấp hơn người, tuy sống hạnh phúc và thọ mạng lâu hơn người, nhưng vẫn ở trong vòng sống chết luân hồi. Bản thân Phạm thiên, chính vì thiếu trí tuệ, cho nên tự cho mình là thượng đế, là đấng tạo thế. Còn những người tu đạo Bà là môn, tuy tự đặt cho mình cái đích cao nhất là hòa mình vào Phạm thiên, nhưng từ trước tới nay, chưa từng có một tu sĩ Bà la môn nào dám mạo nhận mình đã hòa hợp được với Phạm thiên cả”[6, 20].

    Chính vì thế, Phật giáo cho rằng giải thoát chính là Niết bàn, là trạng thái như thật, vắng mặt khổ và khát ái.

    Trên đây là một số quan điểm cũng như về tư tưởng khác nhau giữa Phật giáo và Ấn độ giáo. Dù có sai khác nhưng Phật giáo và Ấn giáo vẫn là suối nguồn tâm linh, đã và đang tuôn chảy trong hàng triệu triệu trái tim của con người trên thế giới.

    KẾT LUẬN

    Ấn độ là một trong những cái nôi của nền đạo học phương đông nói riêng và cho cho nhân loại nói chung. Chính nơi ấy đã sản sinh ra nhiều trường phái, tôn giáo lớn trên thế giới. Có thể nói Ấn độ là “một tiểu vũ trụ của các tôn giáo và các nền triết học” [29, 182]. Trong ấy tiêu biểu và nổi bật nhất là Ấn độ giáo và Phật giáo. Dù hai tôn giáo này ra đời trong bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại nhưng có nhiều quan điểm, tư tưởng,……khác nhau; cụ thể là quan niệm về giá trị con người, linh hồn, tư tưởng nghiệp báo, tư tưởng giải thoát mà người viết đã trình bày ở phần nội dung.

    Khi nói đến Ấn độ giáo, thì chúng ta liền nghĩ ngay đến các bộ kinh lớn như Veda, Upanishad, Bhagavad Gita….đây là những bộ kinh, chứa đựng nhiều tư tưởng đặc sắc, về nhân sinh quan cũng như vũ trụ quan của người Ấn độ.

    Điểm đặc biệt nhất của Ấn độ giáo là không có một vị giáo chủ nào sáng lập rõ cả. Sự duy trì và truyền bá này hoàn toàn phụ thuộc vào các giáo sĩ mà thôi. Có một điều chúng ta không thể phủ nhận, dù Ấn độ giáo không được truyền bá rộng rãi như Phật giáo nhưng ở tại Ấn độ nó có ảnh hưởng rất lớn và số lượng tín đồ rất đông, chiếm tỉ lệ 83% dân số (số lượng này được các nhà nghiên cứu thống kê vào năm 1991)

    Đề cập đến Phật giáo, người ta thường gọi Phật giáo là đạo của Từ bi, trí tuệ hay là đạo của sự giác ngộ, giải thoát. “Mặc dù ngày nay tại Ấn độ Phật giáo không có nhiều tín đồ, các Phật tử vẫn xem Ấn độ là đất thánh khai sinh ra Phật giáo, vì lịch sử Phật giáo bắt đầu tại đó và hầu hết kinh điển Đạo Phật đều được kết tập tại Ấn độ”. [18, 95]

    Trong hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, Phật giáo đã phát triển và lan rộng đến rất nhiều nước trên thế giới và có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với đời sống của hàng triệu triệu trái tim con người. Hàng mấy ngàn năm qua, giáo lý Phật giáo luôn là kim chỉ nam định hướng cho nhận thức, hoạt động của con người và góp phần giáo dục, hoàn thiện nhân cách cho từng cá nhân. Như khi nói về tầm quan trọng của giáo lý Bát Thánh Đạo, Giáo sư Rhys David-Chủ tịch hội Pàli Text Society nói: “Dầu là phật tử hay không phải là Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào có cái gì tốt, cao đẹp và toàn diện hơn Bát Thánh Đạo của Đức Phật. Tôi chỉ còn có một việc làm là thu xếp nếp sống tôi cho phù hợp với con đường ấy”.

    Hiện nay nhân loại đang phải đấu mặt với nhiều hiểm họa, tệ nạn, khủng hoảng, như chiến tranh, tệ nạn ma túy, HIV, khủng hoảng về môi trường, cũng như về đạo đức……; đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của loài người. Nếu con người biết quay về với Phật giáo, sống theo những lời Phật dạy thì những vấn đề trên sẽ được giải quyết một cách có hiệu quả nhất. Thực hiện theo giáo lý Phật đà thì chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thật sư ỉ- một xã hội “Cực lạc” tại nhân gian.

    Nói chung, trong hơn hai mươi thế kỷ qua, những tư tưởng triết lý của Phật giáo và Ấn độ giáo “vẫn dồi dào sức sống, hùng vĩ như dãy Hy mã lạp sơn, cuồn cuộn như nước sông Hằng và rực rỡ như bông hoa Patala nơi rừng đại ngàn Ấn độ”. Nó không những hóa thân vào các phong tục, tập quán truyền thống văn hóa của Ấn độ nói riêng mà còn ảnh hưởng sâu đậm đến nhận thức, hành động của nhân loại nói chung.


    Thích Lệ Duyên

    _________________

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    [1] Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ I, II, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1993.

    [2] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng Bộ III, IV Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1993.

    [3] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ III, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1996.

    [4] Thích Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú, Thiền Viện Vạn Hạnh, 1996.

    [5] Minh Chi, Giáo trình Triết học Ấn độ.

    [6] Minh Chi, Các Vấn Đề Phật Học, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1995.

    [7] Minh Chi, Thuyết Bốn Đế, Trường Cao Cấp Tp HCM, 1996.

    [8] Doãn Chính chủ biên, Veda Upanishad-những bộ kinh triết lý tôn giáo cổ Ấn độ, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2001.

    [9] Doãn Chính, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn độ, NXB Thanh Niên, 1999.

    [10] Doãn Chính, Lịch sử triết học Ấn độ cổ đại, NXB Thanh Niên, 1999.

    [11] Doãn Chính chủ biên, Kinh văn của các trường phái triết học Ấn độ, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2003

    [12] Will Durant-Nguyễn Hiến Lê dịch, Lịch sử văn minh Ấn độ, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2004.

    [13] Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Ấn độ, NXB Tp HCM, 2000.

    [14] Michael Jordan-Phan Quang Định dịch, Minh triết phương đông, NXB Mỹ Thuật, 2004

    [15] Thích Mãn Giác, Lịch sử triết học Ấn độ, Ban tu thư Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1967.

    [16] Nguyễn Đức Hàn, Tư tưởng triết học và đời sống văn hóa văn học Ấn độ, NXB Văn Học, 1998

    [17] Cscott Littleton-Trần Văn Huân dịch, Trí tuệ phương đông, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2002

    [18] Theodore M. Ludwig-Dương Ngọc Dũng, Hà Hữu Nga, Nguyễn Chí Hoan dịch, Những con đường tâm linh phương đông, phần I Các tôn giáo khởi nguyên từ Ấn độ, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2000.

    [19] Vũ Dương Ninh, Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục, 2000.

    [20] Nguyễn Gia Phu, Lịch sử tư tưởng phương đông và Việt nam, Tủ sách Đại Học Tổng Hợp, 1996.

    [21] W. Rahula-Thích Nữ Trí Hải dịch, Con đường thoát khổ, Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1966.

    [22] H.W.Schumann-Trần Phương Lan dịch, Đức Phật lịch sử, NXB Tp HCM, 2000.

    [23] Nàrada Thera-Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật pháp, NXB Tôn Giáo, 2003.

    [24] Kimura Taiken-Thích Quảng Độ dịch, Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận.

    [25] Kimura Taiken-Thích Quảng Độ dịch, Đại thừa Phật Giáo tư tưởng luận.

    [26] Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, NXB Tp HCM, 1999.

    [27] Nguyễn Khắc Thuần, Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam tập II, NXB Giáo Dục, 2002.

    [28] Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương đông tập 3, NXB Tp HCM.

    [29] Lương Duy Thứ chủ biên, Đại cương văn hóa phương đông, NXB Đại Học Quốc Gia Tp HCM, 2000

    [30] Hoàng Tâm Xuyên chủ biên, Mười tôn giáo lớn trên thế giới, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1999.

    Giảng sư

    • Vào tháng 12-1999, nhiều nhà nghiên cứu về Ấn Độ giáo từ các miền khác nhau trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Đô, Bỉ và Hoa Kỳ... gặp nhau tại New Delhi để thảo luận về vấn đề Phật giáo có liên quan đến Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không? Các học giả đưa ra giả thiết rằng Phật giáo là một xu hướng chống lại nghi thức tôn giáo Vệ đà hoặc một tôn giáo độc lập có truyền thống riêng biệt.




      Vấn đề càng phức tạp hơn cho những người Ấn có tín ngưỡng mạnh mẽ, hoặc một sô những người khác thiên về lý thuyết và lịch sử, hoặc một số những người khác cho là đã có sự giải thích sai trong sự nghiên cứu tiền sử. Thực tế, cách tiếp cận khác nhau của những nhà nghiên cứu đó cho thấy tính nghiêm túc, phức tạp và ý nghĩa của vấn đề này.

      Hơn bốn thập niên qua, sựkhác nhau trong nhữngcách tiếp cận này đã gây ra nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu tôn giáo. Và kết quả là nhiều tác phẩm văn học trong các ngôn ngữ khác nhau như Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp và Đức... đã được xuất bản liên quan với chủ đề này. Trong lời giới thiệu cuốn sách 2500 năm của đạo Phật (2500 Years of Buddhism, New Delhi, 1956), một trong những học giả Ấn Độ nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan đã mô tả Phật giáo như "một nhánh của tín ngưỡng cổ xưa hơn đạo Hindu, có lẽ là một dị giáo". Từ khi Bà La Môn giáo thống trị lĩnh vực học thuật của Ấn Độ khoảng một thiên niên kỷ, chắc chắn là những học giả Ấn Độ, tương tự như S. Radhakrishnan đã cố gắng tóm kết lịch sử Phật giáo Ấn Độ và mở rộng từ quan điểm riêng này.

      So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

      Ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo gồm: Brahma là đấng tạo hóa (the Creator) Thần Vishnu là thần bảo hộ và gìn giữ, Shiva là vị thần của hủy diệt nhưng cũng là sinh đôi và phát triển.


      Xung đột giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo, sự biến đổi di sản Phật giáo tại Ấn Độ và sự biến mất Phật giáo (tôn giáo đã từng là niềm tin sống động từ đất Ấn suốt trong nhiều thế kỷ thời đầu trung cổ) là những nguyên nhân để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ cổ xưa và sự truyền bá quan điểm Bà La Môn giáo suốt thời kỳ trung cổ cho đến ngày nay. Tuy vậy, Phật giáo cần phải được nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo. Những quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo cần phải được quan sát từ quan điểm lịch sử cụ thê bằng phương pháp khoa học.

      Bài viết này tập trung vào mối bất đồng của chúng tôi về những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo.


      So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

      Một điệu múa của người Ấn


      1. Nguồn gốc Phật giáo


      Dường như ơ Ấn Độ có một khuynh hướng mô tả Phật giáo như là một giáo phái của Ấn Độ giáo, xem Phật Thích Ca là một vị Hindu, và tô màu Ấn Độ giáo giống như công giáo để chống Vệ đà và tà thuyết như Đức Phật Thích Ca. Lý thuyết lợi hại này đã được truyền bá kỹ lưỡng và cẩn thận tại Ấn Độ khiến những học giả và sử gia phải mất nhiều thời gian để loại trừ những ảo tưởng này và vạch rõ phương cách cho việc nghiên cứu Phật giáo nghiêm túc từ quan điểm lịch sử bằng phương pháp khoa học. Khuynh hướng này tại Ấn Đô đã cho thấy sự hiểu biết rộng rãi của đa số quần chúng quan tâm tới Phật giáo và chủ yếu cho thấy thái độ chung của người Ấn khi nhìn Phật giáo bằng những cách giải thích của họ.
      Nói chung, hiện nay phần lớn trong cuộc sống người Ấn có một lòng tin mạnh mẽ đối với Ấn Độ giáo hơn là với Phật giáo, mặc dù Phật giáo có ảnh hưởng sâu xa hơn Ấn Độ giáo cả về học thuyết lẫn thực nghiệm.


      Thông thường dễ thấy rằng Ấn Độ giáo (thật ra là một tôn giáo mới xuất hiện ở Ấn Độ), đã chuyển đổi hầu hết dân Ấn Độ thành tín đồ của mình, giữ độc quyền không những về tâm linh, mà còn cả về các lĩnh vực đời sống, tư tưởng chính trị, kinh tế và khoa học. Tuy nhiên, xu hướng này – theo cách tư duy chính thống – đã tách người Ấn Độ ra khỏi cộng đồng thế giới, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ thứ XXI.
      Thái độ đối với Phật giáo của những người Hindu nói chung cho rằng Phật giáo là một phần của Ấn Độ giáo, Phật giáo hòa trộn vào trong Ấn Độ giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhà đại cách tân Hindu và đồng thời là một vị thần Hindu vĩ đai.
      Sự việc này khiến chúng ta phải khảo sát cẩn thận và đưa ra cách suy nghĩ khác rằng, Phật giáo là một tôn giáo độc lập và riêng biệt, không thể nghiên cứu vượt ra ngoài nhận thức lịch sử và khoa học. Người ta có thể nhận thấy rằng, hiện tại người Ấn Độ có cảm giác tự hào về tôn giáo đáng kính yêu, về nền văn hóa Vệ đà và những học thuyết thần thánh của họ mỗi khi chúng ta tình cờ gặp họ hoặc thảo luận với họ.
      Quan điểm của nhiều học giả đều cho rằng có một số học giả tâm huyết với Vệ đà và Bà La Môn giáo (những sử gia Ấn Độ hiện đại, những người lãnh đạo và những nhà tư tưởng quốc gia) đều mô tả Phật giáo như một phần của tín ngưỡng cổ xưa hơn Hindu và có lẽ là một phân giáo, lúc đó được xem như tà giáo.
      Một số học giả Hindu – chuyên chú về Phật học hoặc nghiên cứu vài vấn đề nào đó của Phật giáo hoặc vài tác phẩm về Phật giáo – kết luận rằng Phật giáo đã chịu ảnh hưởng sâu xa từ tư tưởng Vệ đà ngay từ nguồn gốc của nó và là một dị giáo của Bà La Môn giáo. Theo khảo cổ, ít ra, chúng ta không thể coi Phật giáo đơn thuần như một “tà giáo” đối chọi lại tính chính thống Ba La Môn đang phổ biến, mà ngược lại, Phật giáo cần nên được xem xét như một phương pháp thực nghiệm độc lập mang tính lịch sử – một phương pháp sống – và tạm gọi là một tôn giáo cổ xưa hơn Hindu.
      Như được trình bày ở trên, lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo đã cho chúng ta biết rằng quan điểm của Vệ đà và Bà La Môn đã gây ảnh hưởng và giữ độc quyền không những về lĩnh vực hệ tư tưởng Ấn Độ, mà còn cả lĩnh vực nghiên cứu xã hội va lịch sử về Phật giáo đối với Bà La Môn giáo. Lịch sử nguồn gốc của Phật giáo, nói gọn trong một câu, đó là chuyện ngoài đường phố của những trẻ Hindu mới lớn không quan tâm đến kiến thức lịch sử và khảo cổ tôn giáo Ấn Độ cổ xưa. Để phơi bày và làm minh bạch những đặc tính thật của Phật giáo, chúng ta có thể đặt vấn đề đúng đắn để xem Phật giáo có quan hệ như thế nào với tín ngưỡng Bà La Môn giáo chính thống cổ đại vào thời kỳ ban đâu.

      2. Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo

      Chúng tôi sẽ đề cập đến quan điểm của một trong những học giả Ấn nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan, quan điểm của ông có thể được xem như một quan điểm đang phổ biến tại Ấn Độ về mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo. Các điểm nổi bật trong quan điểm của Radhakrishnan có thể được tóm tắt như sau: Đức Phật đã không cảm thấy rằng Ngài đang công bố một tôn giáo mới; Ngài sinh ra, lớn lên và từ trần như một Hindu; Ngài đã tuyên bố với sự nhấn mạnh mới về những lý tưởng cổ xưa của nền văn minh Indo – Aryan. Xu hướng ý thức hệ của nhà học giả Ấn Độ này về Phật giáo chủ yếu đề cập tới những diễn dịch mang tính truyền thống (Traditional Interpretation), duy vật (Materialistic Interpretation) và trào lưu chính thống (Fundamentalist Interpretation) của Phật giáo liên quan với Bà La Môn giáo chính thống.

      So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

      Thầy Bà La Môn giáo đang làm tế lễ trong cung vua Tịnh Phạn thời Đức Phật. Ảnh: phim Đức Phật


      Sự giải thích về truyền thống có nghĩa rằng Phật giáo vượt ra ngoài xu hướng chống đối nghi thức tôn giáo của các Brahmanas như những học giả Bà la môn đã nói. Thực tế là lịch sử Ấn Độ cổ đại ghi nhận rằng có hai hệ tư tưởng đối lập đó là: thế giới – khẳng định đại diện bởi các đạo sư Brahmanas theo truyền thống Vệ đà (Bà La Môn giáo) và thế giới – siêu việt (thế giới – phủ định) đại diện bởi các bậc ẩn sĩ khổ hạnh Sa môn thuộc truyền thống phi Vệ đà (Phật giáo).
      Về lịch sử, rõ ràng cả Phật giáo lẫn Bà La Môn giáo là đại diện cho hai truyền thống riêng biệt: truyền thống Vệ đà và truyền thống Sa môn. Thế nên, thật không thích hợp để thiết lập lý thuyết nguồn gốc Phật giáo từ Vệ đà được.
      Sự giai thích theo duy vật của một vài học giả, dưới ảnh hưởng biện chứng theo duy vật lịch sử do Karl Marx đề xướng, nhằm tương quan với tư duy khổ hạnh và kiến tri – từ thời Đức Phật (624-544 trước Tây lịch) cho tới sự trỗi lên cua chủ nghĩa tư bản và kinh tế thương mại tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, cách nhìn này hoàn toàn là suy đoán và viển vông, vì không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong cảm quan của người theo học thuyết Marx mà cũng không có chứng cớ tổ chức giai cấp trung lưu kiểm soát trọn vẹn kinh tế – tiền tệ xã hội ở thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch. Hơn nữa, thực không thể nào cho rằng những lý tưởng tinh thân của Bồ tát (Bodhisattva: sẽ trở thành Phật) được xác định bởi ý thức xã hội theo hệ quả của tiến trình vật chất; thực ra lối giải thích theo duy vật máy móc này chỉ là một bằng chứng bộc lộ sự thô thiển trong nghiên cưu của họ.
      Còn giải thích theo trào lưu chính thống có nghĩa rằng đối với số ít người theo đạo Hindu thì Đức Phật là người phá vỡ tín ngưỡng sùng bái thần tượng Bà la môn, vì những yếu tố cơ bản nhất của Bà La Môn giáo thời kỳ tiền Phật giáo: tế lễ – hy sinh và học thuyết bốn giai cấp, những điều bị Đức Phật chỉ trích. Mặc dù Đức Phật thuyết pháp, kêu gọi lòng từ bi đối với muôn loài, phải giới hạnh thanh tịnh, phải tuệ tri rõ ràng về sự tồn tại hoặc không tồn tại của một tự ngã thường hằng... nhưng cuối cùng toàn bộ lâu đài Phật giáo cũng bị suy tàn và sụp đổ. Lời phê bình và lên án Phật giáo không chỉ đơn thuần liên quan tới triết học và lịch sử của Phât giáo mà chính là khuynh hướng trào lưu chính thống đối với các tôn giáo khác. Như chúng ta đã thấy ở trên, Phật giáo được xem là có liên quan với Bà La Môn giáo như chủ trương của vài học giả Ấn Độ đại diện quan điểm truyền thống hiện đang nắm giữ độc quyền trong giới trí thức Ấn Độ. Đề tài này thường được đem ra thảo luận giữa các tôn giáo khác nhau, hoặc trong khuynh hướng ý thức hệ xã hội Ấn Độ và trong giới nghiên cứu của hàn lâm viên tôn giáo. Vài học giả Ấn Độ hiện đại, với niềm tin mạnh mẽ vào Vệ đà và Bà La Môn đã thử làm một sự đồng hóa học thuyết của Phật giáo với Bà La Môn giáo. Điều nhấn mạnh ở đây, họ muốn chỉ ra rằng Phật giáo, do bị ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng Vệ đà, đã vượt ra khỏi xu hướng chống đối nghi thức của Brahmanas; nói cách khác, nó là một tà giáo hoặc một người theo dị giáo của Bà La Môn giáo.

      3. Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo

      Cả trong quan điểm của người Ấn bình thường lẫn người Ấn học thức uyên bác, Phật giáo và Ấn Độ giáo được xem như là một, vì có vài sự giống nhau về lý thuyết và thực hành của cả hai, thực ra Phật giáo và Ấn Độ giáo là hai hệ thống hay hai truyền thống tôn giáo tuyệt đối khác nhau.
      P.V. Kane, một nhà Ấn Độ học nổi tiếng, đã sai lầm khi cho rằng: “Đức Phật là một nhà cải cách lớn đạo Hindu. Ngài đã không cảm thấy, hoặc tuyên bố là Ngài đang thành lập một tôn giáo mới mà cũng không tuyên bố từ bỏ đạo Hindu”. Tuy nhiên, khi chúng tôi nói về mối liên quan giữa Phật giáo với Ấn Độ giáo, thật là hữu ích nếu chúng ta khảo sát cẩn thận thuật ngữ “Hindu” từ góc độ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ.
      Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo cần phải xem xét từ quan điểm lịch sử và góc độ khoa học. Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại, cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã dạy con đường của bậc thánh Hindu cổ xưa và cho thấy rằng Đức Phật không cảm thấy Ngài đang công bố một tôn giáo mới. Từ “Hindu” không xuất hiện trong lời tuyên bố của Đức Phật; và Ngài cũng không đề cập tới những thánh nhân Vệ đà hoặc những nhà tiên tri Indo-Aryan hoặc Brahmanas là những đạo sư hướng dẫn Ngài tu tập.
      Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “Hindu” là từ ngoại lai có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập, và tượng trưng cho những hình thức tôn giáo Bà La Môn và Ấn Độ thời trung cổ. Từ Hinduism bắt đầu sử dụng trong các truyền thống tôn giáo Ấn Độ, thông thường với quan niệm để phân biệt với đạo Cơ Đốc và Hồi giáo tại Ấn Độ. Chúng ta không thể sử dụng từ Hinduism vào thời kỳ tiền Puran Bà La Môn giáo của Vệ đà và Upanisad, mặc dù đạo Hindu thời trung cổ đã lập nền tảng rồi mở rộng tới phạm vi nào đó trong tôn giáo Vệ đà, giống như đạo Do Thái trước sự giáng sinh của Jesus Christ không thể được gọi chính xác đạo Thiên Chúa mặc dù đạo Thiên Chúa được thành lập trước đạo Do Thái.
      Về mặt khảo cổ học, không thấy sự xuất hiện từ “Hindu” trong bất kỳ nguồn tài liệu khảo cổ hoặc văn học Ấn Độ cổ đại, và chưa từng được khám phá từ thời Alberuni (khoảng 1030 Tây lịch). Có lẽ, đầu tiên ông ta đề cập tới người Ấn Độ phi Hồi giáo là “Hindus” có nghĩa là “Những người không theo đạo”. Thuật ngữ “Hindu”, một dạng của “Sindhu”, trước hết do người Ba Tư sử dụng, xuất hiện cùng với từ “Gadara”, một hình thức của “Gandhara” xuất hiên trong bia ký của vua Darius xứ Iran; và ở đây được dùng theo ý nghĩa địa lý là biểu thị cho dân tộc hoặc một đất nước sống dọc theo sông Sindhu. Trong Ba Tư cổ đại, “Sa” được phát âm như “Ha”; “Sindhu” được gọi “Hindu” từ đó tiếng Hy Lạp biến nó thành “Sintos” hoặc “Indos”, xuất phát từ tiếng Ba Tư và Ả-rập là Hindu và Hindustan; còn tiếng Anh gọi là Indian và India.
      Như chúng ta thấy ở trên, Phật giáo và Ấn Độ giáo khác nhau hoàn toàn từ quan điểm lịch sử lẫn quan điểm ngôn ngữ và khảo cổ, mặc dù có phần giống nhau giữa Phật giáo sau này và một số giáo lý của Ấn Độ giáo. Có một bằng chứng mạnh mẽ về ảnh hưởng của Phật giáo trong ngôn ngữ cũng như trong nhưng học thuyết của Ấn Độ giáo; bởi vậy, phải thừa nhận rằng chúng ta không thể hình dung Phật giáo là một sự đồng hóa của Ấn Độ giáo (thực sự về sau họ có vay mượn một số thuật ngữ và giáo lý quan trọng từ Phật giáo).
      Chúng ta có thể kết luận, thật không công bằng khi cho rằng Đức Phật như một “Hindu”, hoặc một nhà cải cách lớn của Hindu giáo, vì không có Ấn Độ giáo vào thời của Ngài.
      Từ thảo luận ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc của Phật giáo và những mối quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo đã được chi tiết hóa bởi những học giả Ấn Độ hiện đại có quan điểm Vệ đà và Bà La Môn, hoàn toàn chỉ là suy đoán. Hơn nữa, chính do hiểu rõ về mặt lịch sử, Phật giáo – một trào lưu chính thống nhất của phong trào chống lại Vệ đà và Bà la môn (truyền thống Sa môn) – đã xuất hiện như một tôn giáo riêng biệt và độc lâp tại Ấn Độ vào thế kỷ VI trước Tây lịch không thể được xem là bị ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Vệ đà. Ngược lại, cả Bà La Môn giáo lẫn Ấn Độ giáo, học thuyết về bốn giai cấp và sự hy sinh tế lễ đã bị Đức Phật chỉ trích, mặc dù hiện nay chúng vẫn còn hiện hữu trong những cộng đồng của đạo Hindu.
      Chúng ta không thể nghiên cứu tôn giáo từ lập trường ý thức hệ riêng biệt này hoặc kia đơn thuần chỉ vì lòng tin của chúng ta hoặc đơn thuần bởi vì tình cảm đặc biệt của chúng ta đối với tôn giáo đó. Nếu vậy, cách nhìn của chúng ta sẽ bị phiến diện dù chúng ta đang làm một công việc quan trọng về nghiên cứu so sánh các tôn giáo.
      Thật sai lầm khi ủng hộ quan điểm Hindu hiện đại cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã đưa ra con đường của thánh nhân “Hindu” cổ xưa và để cho thấy rằng Đức Phật không xác định Ngài đang công bố một tôn giáo mới.
      Hơn nữa, không có sự tương ứng hoặc thỏa thuận quan điểm cơ bản giữa Bà La Môn giáo và Phật giáo thời kỳ ban đầu; hai truyền thống tôn giáo này có những nền tảng khác nhau trong kỷ nguyên Vệ đà tiền sử và trong thời Đức Phật tại thế.
      Như chúng ta vừa đề cập ở trên về mặt ngôn ngữ và khảo cổ, từ “Hindu” có liên quan với tiếng Ba Tư và Ả-rập thời Ấn Độ trung cổ. Bởi vậy, chúng ta không có lý do chính đáng để dùng từ “Hindu” và “Hinduism” trong bối cảnh lịch sử vào thời của Đức Phật Thích Ca; còn mệnh đề đạo “Hindu” liên quan đến Ấn Độ thời tiền Hồi giáo thì cũng vô nghĩa và sai lạc. Đức Phật không phải là một nhà Hindu, cũng không là một nhà cải cách lớn của Ấn Độ giáo, vì không có đạo “Hindu” vào thời Ngài, mà chỉ duy nhất có Bà La Môn giáo nguyên thủy và Vệ đà. Rõ ràng lời dạy của Đức Phật đã cải cách nhiều phương pháp tu tập không hoàn hảo của Vệ đà, nhưng Ngài đã không tuyên bố là một nhà cải cách. Và không có kinh điển Hindu cũng như của Bà La Môn nào nói đến Ngài như một nhà cải cách.




      Sách tham khảo
      1. Kalupahana, D.J., 1992, A History of Buddhist Philosophy, the University of Hawaii Press.
      2. Joshi, L.M., 1987. A comparative study of Buddhism and Hinduism, Journal of Indian Civilization, volume 6. No.2- (Summer), 15-39, Sri Lanka.
      3. Kane, P.V., 1994. Dialogues of the Buddha, Journal of Religious Researches, volume 2, No.1 (Spring), 23-35, India.
      4. Rhys Davids, T.W., 1936. Ascetics of prehistoric Indian and Indus Civilization, Journal of Indology, volume 14, No.1 (Winter), 15-48, London.
      (Trích từ The Indian International Journal of Buddhist Studies, No.4, 2004, Varanasi; Aditya Shyam Trust, 2003, tr.3-7).


      Theo: https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=72D651

      CHENG JIANHUA

      GIỚI HƯƠNG chuyển ngữ


      Từ khóa: Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo1 Ấn Độ giáo2 Bà la môn giáo1

      Sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác

      Nguyen An

      06:23 CH @ Thứ Ba - 29 Tháng Mười, 2019

      Xem thêm:

      • 7 sự hiểu lầm phổ biến về đạo Phật ở Việt Nam
      • Ngày xuân đi lễ chùa
      • Đi lễ chùa, nhiều người chưa hiểu gì về đạo Phật
      • Đi lễ hội để cầu may và cầu lợi?

      Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ: Phật giáo không thừa nhận có một Thượng Đế sáng tạo, ngự trị và chi phối đời sống của con người. Khổ đau hay hạnh phúc là do mỗi con người tự tác thành cộng với sự chi phối của dòng nghiệp lực cũng do chính mỗi con người tạo ra.

      .

      1. Phật giáo và các tôn giáo khác giống nhau ở điểm nào?

      Phật giáo và các tôn giáo khác đều khuyến khích con người làm các việc lành, tránh xa những điều xấu ác, xây dựng đời sống đạo đức, biết yêu thương và phát triển các giá trị nhân phẩm cho chính tự thân và tha nhân, cho gia đình và xã hội.

      .

      2. Phật giáo khác các tôn giáo khác ở điểm nào?

      Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ: Phật giáo không thừa nhận có một Thượng Đế sáng tạo, ngự trị và chi phối đời sống của con người. Khổ đau hay hạnh phúc là do mỗi con người tự tác thành cộng với sự chi phối của dòng nghiệp lực cũng do chính mỗi con người tạo ra. Đức Phật dạy: “Con người trở nên cao qúi hay đê hèn không phải do nguồn gốc sinh thành từ gia đình hay đẳng cấp xã hội mà trái lại do chính hành động của tự thân làm cho con người trở nên cao qúi hay đê hèn.” Thêm vào đó, điểm khác biệt căn bản trong hệ thống triết lý của Phật giáo và các tôn giáo khác là: Phật giáo cho rằng tất cả pháp (những gì có mặt trên cuộc đời, bao gồm cả tâm và vật) trên thế gian này đều là duyên sinh, có điều kiện; và do đó, tất cả pháp là vô ngã, không hề có một thực thể nào bất biến, vĩnh hằng, cũng không có ai làm chủ đời sống của con người, ngoài trừ con người cá thể. Điều quan trọng nổi bật trong giáo lý của đạo Phật là tất cả chúng sinh đều có Phật tính, và đều có khả năng thành Phật. Sự giác ngộ, giải thoát tối thượng là chân lý bình đẳng đối với tất cả chúng hữu tình mà không phải là một ân sủng đặc biệt dành cho riêng ai. Đây là quan điểm bình đẳng vĩ đại, khó có thể tìm thấy ở những tôn giáo Thần quyền khác.

      .

      3. Xin cho biết tóm tắt lịch sử của Đức Phật?

      Đạo Phật do Đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) sáng lập tại Ấn Độ cách nay hơn 2600 năm. Các nhà sử học hiện đại cho rằng Đức Phật đản sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak vào khoảng năm 625 B.C.E., tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni). Ngài vốn là một hoàng tử, tên Siddhartha (Tất Đạt Đa), con trai duy nhất của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Sirimahamaya (Ma Da). Khi lớn lên, Ngài đã đính hôn với công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) và sinh hạ một nam tử tên là Rahula (La Hầu La). Sau khi nhận thấy rõ chân tướng khổ đau của kiếp người sinh lão bệnh tử, Ngài đã quyết tâm vượt cung thành để tìm chân lý. Trải qua năm năm tìm thầy học đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, sau cùng Ngài đã thành đạo dưới cội Bồ đề (bodhi tree) sau bốn mươi chín ngày thiền định. Kể từ đó, Ngài được gọi là Phật (Buddha)—con người đã giác ngộ, đã giải thoát vòng sinh tử luân hồi (samsāra). Sau khi giác ngộ, Ngài đã khởi sự truyền bá Chánh Pháp (Dharma)—giáo lý đưa đến sự giác ngộ, giải thoát— và xây dựng giáo đoàn Tăng già (Sangha) trong suốt bốn mươi chín năm. Ngài đã nhập Niết Bàn (Nirvāna) vào năm tám mươi tuổi dưới tàng cây Sala, tại Kusinara, vào khoảng năm 543 B.C.E.

      .

      So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

      Ảnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

      .

      4. Yếu tính của đạo Phật là gì?

      Theo truyền thống, đạo Phật được định nghĩa như sau: đạo là con đường; Phật là sự giác ngộ, giải thoát tối hậu. Do vậy, yếu tính của đạo Phật, như chính tên gọi bày tỏ, là con đường đưa đến sự giác ngộ, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

      .

      5. Vậy phải chăng đạo Phật chủ trương lìa bỏ thế gian?

      So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo
      Bạn hãy thận trọng với câu hỏi này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người đã đạt được giác ngộ, giải thoát tối thượng, tức là Ngài đã thực thụ giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi ở độ tuổi trung niên. Thế nhưng Ngài vẫn ở lại thế gian thêm hơn bốn mươi năm nữa để truyền bá Chánh Pháp nhằm đem lại lợi ích cho thế gian. Ở đây có hai điểm bạn cần hiểu rõ:

      .

      a/ Khái niệm giác ngộ (bodhi)trong đạo Phật được hiểu là sự tỉnh thức toàn diện về dòng vận hành của Duyên khởi (pratītyasamutpāda) trong đời sống con người, bao gồm cả tâm lý và vật lý. Do năng lực tỉnh thức toàn diện này mà bạn có thể vượt qua các phiền não, nhiễm ô và kiến lập đời sống an lạc, hạnh phúc cho chính mình. Vả lại, năng lực tỉnh thức được chia thành nhiều cấp độ khác nhau từ thấp đến cao. Nên nhớ rằng, một đời tu tập chưa hẳn đã tạo được cho mình một năng lực tỉnh thức toàn diện (giác ngộ chân lý tuyệt đối), vì nó còn tùy thuộc vào dòng nghiệp lực trong nhiều đời của mỗi cá thể.

      .

      b/ Khái niệm giải thoát (moksha-vượt lên trên hay vượt ra khỏi)trong đạo Phật cũng vậy, nó bao hàm nhiều cấp độ khác nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn. Khi nào bạn vượt ra khỏi những ràng buộc của các phiền não như tham lam, sân hận, si mê, chấp thủ…trong đời sống của chính mình thì khi đó bạn được giải thoát. Cho đến khi nào tâm thức của bạn hoàn toàn không còn bị chi phối bởi các phiền não đó thì bạn sẽ thực sự hưởng thụ hương vị giải thoát. Thế nhưng, để đạt được sự giải thoát tối hậu đòi hỏi bạn phải bứng tận gốc rễ của các phiền não trong tâm thức của chính bạn một cách toàn triệt, vì chính các phiền não nhiễm ô là cái nhân của sinh tử luân hồi. Do vậy, nói khác đi, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi chính là giải thoát khỏi các phiền não nhiễm ô trong đời sống của chính bạn, và đấy là khái niệm “xuất thế” của đạo Phật. Nên nhớ rằng, để đạt được giải thoát, bạn không cần phải đi đâu hết mà trái lại bạn cần phải tu tập ngay bây giờ và ở đây, ngay nơi con người này và tại thế giới này.

      .

      6. Vậy, Phật giáo là tôn giáo hay triết học?

      Câu hỏi rất bao quát. Vì lẽ, trên thế giới có nhiều tôn giáo và nhiều quan niệm về Thượng Đế, và mỗi tôn giáo đều có chủ trương và học thuyết khác nhau.Tuy nhiên, có thể khái quát hóa các nhóm tôn giáo thế giới theo hai đặc tính căn bản đó là:

      .

      a/ Theistic religions– tôn giáo tin rằng có sự hiện hữu của một (độc thần giáo) hoặc nhiều (đa thần giáo) vị thần linh như Đấng Sáng Thế, Thượng Đế, hay Phạm Thiên .v.v. sáng tạo và làm chủ đời sống của con người và vạn vật;

      .

      b/ Non-theistic religions – tôn giáo không tin rằng các vị Thần linh sáng tạo, làm chủ và ngự trị cuộc sống của con người và vạn vật. Trong giới hạn của phân định này, thì Phật giáo là một tôn giáo không có mặt của một Thượng Đế hữu ngã và độc tôn, nhưng có đầy đủ các chức năng của một tôn giáo–theo cách hiểu của ngành tôn giáo học hiện đại–, bao gồm: các lĩnh vực khái niệm như ngôn ngữ, kinh điển, biểu tượng; các hình thức như nghi lễ, hành trì, tu tập; và các mối liên hệ chặt chẽ với xã hội. Mặc dù vậy, không ít người, xưa và nay, vẫn xem Phật giáo như một “triết lý sống”, hay một “triết lý của sự giác ngộ”; và tất nhiên điều đó là hoàn toàn hợp lý cho mỗi cá nhân.

      .

      7. Vậy, triết lý căn bản của Phật giáo là gì?

      Triết lý căn bản của Phật giáo được Đức Phật giảng dạy trong pháp thoại đầu tiên của Ngài, tại vườn Nai (Lộc Uyển) đó là bài Pháp về Bốn Chân lý (Catvāri āryasatyāni-Tứ Thánh Đế): khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau, và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Pháp thoại tiếp theo bài giảng đầu tiên này, Đức Phật dạy về Vô Ngã, tức là không có một ngã tính thường hằng bất biến trong sự hiện hữu của hợp thể năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức); hay nói khác đi, cả thế giới của tâm lý và vật lý đều không có ngã tính thường tại, vĩnh hằng. Tuy nhiên, bạn cũng nên nhớ rằng trên con đường đi đến giác ngộ, Đức Phật đã thiền quán sâu xa về chân lý Duyên Khởi; và chính trong dòng thiền quán này, Ngài đã giác ngộ toàn triệt và trở thành một vị Phật. Do đó, có thể nói triết lý căn bản của Phật giáo được gói trọn trong các giáo lý: Bốn Chân Lý, Duyên Khởi, và Vô Ngã.

      .

      8. Nếu Phật giáo không phải là một tôn giáo thần quyền, vậy có thể xem Phật giáo là một tôn giáo khoa học hay một triết lý khoa học?

      Gọi như thế nào là tùy sở thích của bạn. Nhưng nên nhớ rằng, Phật giáo từ khởi thủy không có mục đích lý giải hay chứng minh các vấn đề thuộc khoa học như các ngành khoa học hiện đại.

      .

      Phật giáo không đặt vấn đề nghiên cứu khoa học lên hàng đầu, cũng không xu thế theo các lý giải của khoa học, dù rằng những điều do Đức Phật giảng dạy bao giờ cũng rất khoa học. Và sự thật là, khi khoa học càng phát triển, thì những tiến bộ của khoa học đã giúp ích rất nhiều trong việc giải minh các chủ đề tinh tế trong giáo lý của đạo Phật, nhất là trong các lĩnh vực thuộc tâm-vật lý học (psychophysical). Có lẽ, đây là lý do mà ngày nay Phật giáo được phát triển nhanh chóng trong các nước tiên tiến, đặc biệt là trong các trường đại học tại Châu Âu và Bắc Mỹ. Vấn đề cốt tủy của Phật giáo, như được trình bày trong Bốn Chân lý, là nhận diện nguyên nhân của khổ đau để chuyển hóa khổ đau thành an lạc, giải thoát. Trên thực tế, Phật giáo thường được gọi là tôn giáo của trí tuệ, như phương châm “Duy tuệ thị nghiệp” (Lấy trí tuệ làm sự nghiệp). Mặc dù vậy, Phật giáo chủ trương trí tuệ và tâm đại bi phải luôn đi đôi với nhau. Do đó, nói cho đầy đủ, sự nghiệp của một vị Phật hay một vị Bồ Tát bao giờ cũng là trí tuệ và tâm đại bi.

      .

      9. Nếu ngay từ đầu đạo Phật đã thiết lập một con đường cho sự giác ngộ và giải thoát, vậy tại sao lại có khái niệm Tiểu thừa và Đại thừa?

      Có ba giai đoạn trong lịch sử Phật giáo: Nguyên Thủy (Theravāda), Tiểu thừa (Hīnāyana) và Đại thừa (Mahāyāna). Nguyên Thủy được tính từ khi Đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài diệt độ khoảng 100 năm. Và tiếp theo đó là sự phát triển các hệ thống tư tưởng của Tiểu thừa và Đại thừa. Nói chung, khái niệm Tiểu Thừa (chiếc xe nhỏ) và Đại thừa (chiếc xe lớn) được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử tư tưởng và triết học Phật giáo. Sự phát triển của hai truyền thống chính này được mở rộng thành 18 bộ phái theo lịch sử Phật giáo, tuy nhiên cả hai truyền thống này đều dựa trên các giáo lý căn bản như Bốn Chân Lý, Duyên Khởi và Vô Ngã. Mặc dù vậy, cả hai truyền thống này đều có những quan niệm và giải thích khác nhau về phương diện tu tập bản thân và các mối liên hệ xã hội. Lịch sử cho chúng ta biết rằng, khi xã hội ngày càng phát triển, thì ngôn ngữ, tư tưởng và cuộc sống thực tế cũng phát triển; đấy là lý do căn bản của sự phát sinh những kiến giải và quan niệm khác nhau của những người đệ tử Phật. Nhất là, khi Đức Phật đã diệt độ hàng trăm năm và những lời dạy chân chất của Ngài, theo thời gian, đã bị bao phủ lên một lớp áo luận lý theo những cách tân của xã hội. Ngày nay, người học Phật thường dùng khái niệm Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo phát triển để nói đến những khác biệt trong các hình thức Phật giáo.

      .

      10. Vậy Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo phát triển khác nhau như thế nào?

      Có thể tóm tắt một số khác biệt căn bản như sau:

      a/ Về ngôn ngữ, Phật giáo nguyên thủy dùng kinh tạng Pali (Nam Phạn) gồm các kinh Nikāya làm nền tảng tu tập; trong khi đó, Phật giáo phát triển sử dụng các kinh Đại thừa thuộc ngữ hệ Sanskrit (Bắc Phạn), Hán ngữ, và Tây Tạng ngữ (Luận tạng) làm nền tảng.

      b/ Về tư tưởng, Phật giáo nguyên thủy lấy giáo lý Duyên Khởi (Paticcamūpāda) làm trọng tâm; trong khi Phật giáo phát triển hình thành thêm hệ tưởng Trung Quán (Mādhyamika) và Duy Thức (Yogācāra) trên nền tảng của Duyên Khởi; và, sau cùng là sự ra đời của Kim Cang thừa (Vajrayāna), còn gọi là Mật tông. Mặc dù vậy, tất cả hệ tư tưởng trên không hề mâu thuẫn nhau.

      c/ Về pháp môn tu tập, Phật giáo nguyên thủy chuyên chú hành trì thiền định với các đề mục căn bản là Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp); trong khi Phật giáo phát triển mở rộng các hình thức tu tập theo nhiều tông phái bao gồm Thiền, Tịnh độ, và Mật thừa. Mỗi tông phái lại có nhiều pháp môn ứng dụng khác nhau.

      LinkedInPinterestCập nhật lúc:02:46 CH @ 29/10/2019

      con ngườitâm lýđức tintín ngưỡngtôn giáoPhật giáođạo Phậttu tậplàm ngườigiải thoát

      Mục lục

      • 1 Từ nguyên
      • 2 Những chi phái Ấn Độ giáo quan trọng nhất
        • 2.1 Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ
        • 2.2 Ấn giáo vệ-đà
          • 2.2.1 Nguồn gốc và thánh điển
          • 2.2.2 Bà-la-môn giáo
        • 2.3 Ấn giáo Tì-thấp-nô
        • 2.4 Ấn giáo Thấp-bà
        • 2.5 Ấn giáo Tính lực
        • 2.6 Ấn giáo Bất nhị Phệ-đàn-đa nhất nguyên
        • 2.7 Tân Ấn Độ giáo
        • 2.8 Ảnh hưởng đến các tôn giáo khác
      • 3 Cơ sở chung của các nhánh Ấn Độ giáo
        • 3.1 Luân hồi
        • 3.2 Chế độ đẳng cấp
        • 3.3 Tôn thờ Thánh tượng
      • 4 Số lượng tín đồ
      • 5 Xem thêm
      • 6 Chú thích
        • 6.1 Ghi chú
        • 6.2 Web
      • 7 Tham khảo
      • 8 Liên kết ngoài

    Từ nguyênSửa đổi

    Kể từ thế kỉ 16 các nhà truyền giáo và du khách phương Tây thường nhắc đến tôn giáo và phong tục Ấn Độ và thường gọi những người bản xứ này là "ngoại đạo" (en. pagan, de. Heiden) nếu họ không tự nhận mình theo một trong các tôn giáo lớn (Ki-tô giáo, Do Thái giáo hoặc Hồi giáo). Họ được gọi theo tiếng Latin là gentiles, tiếng Bồ Đào Nha là gentio và từ đó ra tiếng Anh là gentoo và tiếng Hà Lan/tiếng Đức là Heyden (Heiden). Đến thế kỉ 18 thì từ "Hindoo" (tiếng Ba Tư Hindu) bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong thế kỉ 19, danh từ "Hinduism" trở nên rất thông dụng. Như vậy thì từ "Hinduism" - được dịch là Ấn Độ giáo ở đây - không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo (Neo-Hinduism) trong thế kỉ 19 và thế kỉ 20 vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.

    Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên hai điều kiện tiên quyết không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư Hindoo (Hindu) chỉ tín đồ của một tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn lại, ví như Hồi giáo, Công giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Kì-na giáo. Cả hai điều kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư "Hindu" chỉ có nghĩa tương đương với từ có gốc Hy Lạp là "Indian", và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ (tiếng Phạn: sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hy Lạp: Indós), đã mang đến đất nước nó chảy qua tên này: Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ (india). Ngay khi người Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của một tôn giáo.

    Ngày nay, người ta biết được hàng loạt tôn giáo của người Ấn Độ và các thông tin nghiên cứu ngày càng phong phú. Thế nên, từ "Hinduism", "Ấn Độ giáo", không thể mang nghĩa là một tôn giáo nhất định của người Ấn mà chỉ là cách gọi mang ý nghĩa bao quát, chỉ một nhóm tôn giáo có sự tương quan với nhau, nhưng khác biệt nhau, xuất phát từ Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh). Các tôn giáo này dù có quan hệ với nhau nhưng cũng khác nhau như sự khác biệt giữa Do Thái, Phật, Thiên chúa và Hồi giáo. Chúng có những khái niệm thượng đế khác nhau, có những pho thánh điển khác nhau cũng như những phương pháp tu tập, hình thức thực hiện nghi lễ khác nhau. Chúng có những hệ thần học khác nhau, lập cơ sở trên những nhà thần học, những bậc đạo sư khác nhau, và tôn xưng các thần thể khác nhau như vị Thần tối cao.

    Một cách gọi thường gặp nhưng không chính thức và cũng không chính xác của tín đồ Ấn giáo là Sanātana-dharma (सनातनधर्म), nghĩa là "Pháp trường tồn". Các tên khác như vaidikadharma (Ấn giáo Phệ-đà) hoặc brāhmaṇa, brāhmaṇya (Bà-la-môn giáo) chỉ nêu được những nhánh của Ấn Độ giáo mà thôi.

    Tôn Giáo Học So Sánh

    Tác giả: Thích Thánh Nghiêm

    Mục lục

    • Lời người dịch
    • Lời tựa
    • Chương 1: Tôn Giáo Nguyên Thủy
    • Chương 2: Tôn Giáo Của Những Dân Tộc Chưa Khai Hóa
    • Chương 3: Tôn Giáo Của Các Dân Tộc Cổ Đại
    • Chương 4: Tôn Giáo Của Ấn Độ
    • Chương 5: Tôn Giáo Trung Quốc (Phần 1)
    • Chương 5: Tôn Giáo Trung Quốc (Phần 2)
    • Chương 6: Tôn Giáo Thiểu Số
    • Chương 7: Do Thái giáo
    • Chương 8: Cơ Đốc Giáo
    • Chương 9: Hồi Giáo
    • Chương 10: Đạo Phật
    • Mục Lục

    Xem thêm

    Chương 4: Tôn Giáo Của Ấn Độ

    TIẾT 1: HOÀN CẢNH VÀ DÂN TỘC ẤN ĐỘ

    1. Giới thiệu

    Ấn Độ là một dân tộc không xem trọng lịch sử, nhưng lại là một nước văn minh cổ thứ gì cũng có: có những giống người khác nhau đến từ các nước trên thế giới, có truyền thống văn hóa hơn 5000 năm, và có các tư tưởng triết học Đông Tây từ cổ chí kim cùng các loại tín ngưỡng tôn giáo. Vì vậy, khi nghiên cứu văn hóa Ấn Độ, vừa cảm thấy rời rạc, hỗn tạp, vừa cảm thấy phong phú, bao la.

    Theo đúng như tiêu đề thì chương này đề cập đến tất cả tôn giáo của Ấn Độ từ xưa đến nay, nhưng vì độ dài của sách có hạn, đành phải giới thiệu mang tính chọn lọc và có trọng điểm, tập trung vào tôn giáo truyền thống của Ấn Độ là Bà-la-môn giáo của dân tộc Āryan. Sự phát triển mở rộng của văn hóa Ấn Độ chủ yếu là sự ra đời của vài bộ Thánh điển Bà-la-môn giáo: Veda là cội nguồn của tất cả cội nguồn, nên sẽ dùng 1/3 độ dài chương này để giới thiệu; xuất hiện sau đó là Brāhmana (Phạm Thư), Upanisad (Áo Nghĩa Thư) và Sūtda (Kinh Thư); tiếp nữa là hai bộ đại sử thi đã kích hoạt sự cải cách của Ấn Độ giáo. Phật giáo chiếm một bộ phận quan trọng trong văn hóa Ấn Độ, ngoài việc giới thiệu về Phật giáo ở một chương khác, chương này cũng sẽ chỉ ra những điểm liên quan lẫn nhau giữa Phật giáo với Bà-la-môn giáo và Ấn Độ giáo.

    2. Sự phân kỳ của tôn giáo Ấn Độ

    Theo cuốn Lịch Sử Tôn Giáo Thế Giới của học giả người Nhật Antei Hiyane, quá trình lịch sử của tôn giáo Ấn Độ đại khái có thể phân làm 7 thời kỳ như sau:

    Thời kỳ thứ nhất là thời đại thần thoại: Khoảng thời gian từ năm 1500 đến năm 1000 trước Công nguyên là thời đại thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên, đại biểu cho thời đại này là bộ kinh Rig-veda.

    Thời kỳ thứ hai là thời đại Bà-la-môn giáo: Từ năm 1000 đến năm 500 trước Công nguyên, chủng tộc Bà-la-môn chuyên trách công việc tôn giáo, trước tác bộ kinh Yajur-veda và các kinh Phạm Thư, đồng thời tổ chức lại các nghi thức thờ cúng tôn giáo cho có trật tự. Áo Nghĩa Thư cũng ra đời vào thời kỳ này, giải thích mang tính triết học về các vấn đề của vũ trụ.

    Thời kỳ thứ ba là thời đại hưng khởi của triết học Ấn Độ: Từ năm 500 đến năm 250 trước Công nguyên, về mặt phái bảo thủ, họ đã biên soạn bộ Kinh Thư; về mặt thần thoại, có sự sùng bái thần Vishnu và thần Shiva; về mặt triết học, bộ Áo Nghĩa Thư Mới được biên soạn, ngoài ra còn có sự ra đời của các phái Samkhya (Số luận) chủ trương thuyết tâm vật nhị nguyên, phái Yoga (Du-già) nói pháp thiền quán, phái Vaisheshika (Thắng luận) đề xướng thuyết vật lý nguyên tử và phái Nyāya (Chánh lý) có lập trường logic học; về mặt tôn giáo, có sự phát triển mạnh mẽ của các giáo đoàn chống Bà-la-môn giáo mà Phật giáo và Kỳ-na giáo là đại biểu.

    Thời kỳ thứ tư là thời đại hưng thịnh của Phật giáo: Từ năm 250 trước Công nguyên đến năm 500 sau Công nguyên, nhân cách và giáo lý của đức Phật, nhờ sự hộ trì và truyền bá của vua Asoka, vị minh quân vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ, đã lưu truyền khắp bốn phương, làm cho Phật giáo trở thành tôn giáo có tính quốc tế đầu tiên trong lịch sử thế giới.

    Thời kỳ thứ năm là thời đại phục hưng của Bà-la-môn giáo: Từ năm 500 đến năm 1000, Bà-la-môn giáo trở thành tín ngưỡng phổ biến của các chủng loại thường dân Ấn Độ. Cũng chính trong thời kỳ này, Ấn Độ giáo đã ra đời trên nền tảng Bà-la-môn giáo.

    Thời kỳ thứ sáu là thời đại phân chia chi phái của Ấn Độ giáo: Ví dụ như sự chia ra độc lập của các phái Vaishnava, phái Saiva, phái Sākta, phái Smarta, phái Sāura... Lại do sự xâm nhập của Hồi giáo mà có thêm Tích-khắc giáo ra đời từ sự tổng hợp Ấn Độ giáo và Hồi giáo.

    Thời kỳ thứ bảy là thời đại tôn giáo hỗn hợp: Từ năm 1500 đến nay, Cơ Đốc giáo đã du nhập vào Ấn Độ, tạo thành một cục diện tôn giáo hỗn hợp.

    Trong 7 thời kỳ trên, chương này sẽ tập trung vào 3 thời kỳ đầu và thời kỳ thứ 6, các phần liên quan đến Phật giáo sẽ được giới thiệu riêng ở chương X.

    3. Hoàn cảnh của Ấn Độ

    Ấn Độ nằm giữa núi và biển: từ tây bắc đến đông bắc có dãy núi Hindu Kush, dãy núi Hymalaya và dãy núi Karakoram làm bình phong; đông nam là vịnh Bengal; tây nam là biển Arab, phía nam là mũi Comorin và Ấn Độ Dương. Nhìn từ phía nam về phía bắc, Ấn Độ là một quốc gia lục địa tiếp giáp với Trung Quốc, Pakistan, Nepal và Bhutan; nhìn từ phía tây sang phía nam, Ấn Độ lại là một bán đảo, đối diện với đảo Sri Lanka.

    Địa hình Ấn Độ, theo như xưa nay thường giới thiệu, được gọi là một hình tam giác lớn, phía bắc rộng rãi, còn phía nam nhọn hẹp. Paul Deussen (1845 - 1919), nhà Phạn văn học người Đức, đã nghiên cứu sự đổi thay của lịch sử văn hóa Ấn Độ và cho rằng Ấn Độ là một hình vuông: Lấy vùng núi Hindu Kush làm đỉnh, vẽ một đường thẳng đến chỗ cửa sông Indus (sông Ấn), vẽ tiếp một đường thẳng đến chỗ cửa sông Ganges (sông Hằng), rồi từ cửa sông Ấn và cửa sông Hằng mỗi nơi vẽ một đường thẳng đến mũi Comorin, là thành một hình vuông không đều cạnh. Nếu nói về quá trình lịch sử văn hóa của Ấn Độ, thì có thể tiếp tục chia hình vuông này thành 3 hình tam giác: Đầu tiên, từ chỗ cửa sông Ấn vẽ một đường thẳng đến chỗ cửa sông Hằng, rồi từ vùng núi Hindu Kush vẽ dọc một đường xuống đường ngang nối giữa hai con sông. Như thế thì vùng tây bắc gồm lưu vực sông Ấn và đồng bằng Kuruksetra là hình tam giác thứ nhất, đây là nơi bắt nguồn của Bà-la-môn giáo; vùng đông bắc với lưu vực sông Hằng là hình tam giác thứ hai, đây là nơi bắt nguồn của Phật giáo; phương nam với cao nguyên Deccan là hình tam giác thứ ba, đây là nơi phát triển của văn hóa thổ dân. Sự phát triển của văn hóa Ấn Độ xuất hiện lần lượt theo thứ tự của 3 khu vực này.

    Nội dung chương này, trừ tiết 4, sẽ lấy cuốn Lịch Sử Triết Học Tôn Giáo Ấn Độ của hai học giả người Nhật Takakusu Junjirō và Taiken Kimura làm sách tham khảo chính. Nay, căn cứ theo phần mở đầu của cuốn sách đó, giới thiệu sơ lược những nét chính về 3 khu vực trên như sau:

    Khu vực hình tam giác thứ nhất: Đây là vùng đất phì nhiêu hình thành nhờ sự tưới tẩm của con sông Indus (tên Latin của sông Ấn), khí hậu ôn hòa, thích hợp với trồng trọt và chăn nuôi. Sông Ấn bắt nguồn từ vùng Tây Tạng của Trung Quốc, chảy dọc xuống theo biên giới phía tây Ấn Độ, hai bờ hợp lưu với nhiều dòng sông khác và đổ vào biển Arab. Tên nước của Ấn Độ thực ra cũng xuất xứ từ con sông này. Dân di cư từ phương bắc lần đầu đến thấy nước của con sông này dồi dào, cuồn cuộn, nên gọi nó là Sindhu[1]. Từ này trong tiếng Ba Tư cổ đọc là Hindu, sau pha trộn với tiếng Hy Lạp đọc thành Indós (Ấn Độ). Từ Hindu vốn được người Ba Tư cổ dùng để gọi vùng đất bên bờ sông đối diện với đất nước mình, người Hy Lạp cũng bắt chước sử dụng cách gọi này. Nhưng bản thân người Ấn Độ, ngay từ đầu chưa từng tự gọi toàn bộ đất nước mình là Hindu mà gọi là Jambudvipa hoặc Bharata.

    Khu vực hình tam giác thứ hai: Đây là vùng đồng bằng sông Hằng, từ đây đi xuống phía nam, sẽ tiến dần vào miền nhiệt đới. Trừ vùng núi tuyết ở biên giới đông bắc, khu vực này có địa thế rộng rãi, đất tốt mênh mông, rất thích hợp cho canh tác. Nhưng do đến mùa lũ và mùa hạn, người dân thường thích rút vào vùng rừng núi, trầm tư mặc tưởng, nên rất có lợi cho việc phát triển tôn giáo. Nền văn minh của khu vực này ra đời và phát triển là nhờ vào con sông Hằng, giá trị của sông Hằng còn ưu việt hơn cả sông Ấn. Nếu không có sông Yamuna, con sông nhánh lớn nhất ở thượng lưu sông Hằng, thì Bà-la-môn giáo sẽ không lấy đồng bằng Kuruksetra làm trung tâm văn hóa của mình; nếu không có lãnh thổ nước Magadha ở trung lưu sông Hằng, thì văn hóa Phật giáo sẽ không ra đời, Trung Thổ[2] của Phật giáo cũng sẽ không xuất hiện.

    Khu vực hình tam giác thứ ba: Đây là vùng bán đảo phía nam dãy núi Vindhya, đại bộ phận là cao nguyên núi non chót vót, chỉ dải bờ biển hai bên bán đảo là có đất bằng. Các dân tộc ở miền núi vì giao thông bất tiện nên mỗi dân tộc đã phát triển nền văn minh riêng biệt của mình. Lại thêm khu vực này thuộc miền nhiệt đới, những người ở ẩn trong rừng núi có thể sống nhờ vào hoa quả thiên nhiên, thực là môi trường tốt cho những ai thích trầm tư mặc tưởng. Vì thế, khu vực này đã sản sinh ra những nền văn minh đặc sắc và những tư tưởng vĩ đại.

    4. Dân tộc của Ấn Độ

    Ấn Độ có rất nhiều giống người, ở đây chúng ta sẽ chỉ giới thiệu người Āryan. Song, trước khi người Āryan tiến vào Ấn Độ, đã có những giống người khác ví dụ như người Dravidian đến vùng đất này, văn hóa của Nam Ấn Độ về sau, chính do những giống người này sáng lập nên.

    Nơi bắt nguồn sớm nhất của người Āryan rốt cuộc là ở đâu? Vẫn chưa ai biết. Nhưng theo suy đoán của những học giả cận đại thì người Āryan đã từng sống thành các đoàn thể ở vùng Trung Á, sau đó chia ra di chuyển về phía đông và phía tây. Hơn ba, bốn ngàn năm trước Công nguyên, có một nhánh dân di cư về phía tây đến châu Âu, đây chính là tổ tiên của đại bộ phận người châu Âu sau này; lại có một nhánh dân di cư về phía đông đến Ba Tư và Ấn Độ, những người đến Ba Tư trở thành giống người Iran, những người đến Ấn Độ trở thành giống người Āryan. Kết hợp hai nhánh lại gọi chung là giống người Ấn-Âu[3]. Truy nguyên về nguồn gốc và thời đại phân nhánh của giống người này thì có thể chia thành thời đại cùng cư trú ở Ấn Độ và châu Âu, và thời đại cùng cư trú ở Ấn Độ và Iran, gọi tắt là thời đại Ấn-Âu và thời đại Ấn-Iran. Đây là kết quả đã được chứng minh từ những nghiên cứu về ngôn ngữ học so sánh, thần thoại học so sánh, nhân loại học, khảo cổ học...

    TIẾT 2: TÔN GIÁO THỜI ĐẠI VEDA

    1. Bốn bộ Veda

    Veda là bộ Thánh điển nguyên thủy của tôn giáo Ấn Độ; đặc biệt, Rig-veda chính là tập thơ cổ nhất trên thế giới, ra đời sớm hơn rất nhiều so với Kinh Thi của Trung Quốc và Sử Thi Homer của Hy Lạp. Veda có 4 bộ:

    a. Rig-veda: Dùng cho việc cầu xin. Niên đại biên soạn bộ kinh này vào khoảng năm 1500 trước Công nguyên, phần lớn tác giả là những nhà thơ người Āryan Ấn Độ. Khi sinh sống ở vùng Đông Kabul và vùng Punjab (vùng Ngũ Hà), họ đã sáng tác những câu thơ này để ca ngợi tự nhiên. Rig-veda chứa đựng tư tưởng của nhân loại thời đại Ấn - Âu và thời đại Ấn - Iran, nên bộ sách này được xem là tài liệu quý báu không thể thiếu khuyết trong nghiên cứu tôn giáo học và thần thoại học.

    b. Sāma-veda: Dùng cho việc ca vịnh.

    c. Yajur-veda: Dùng cho việc cúng tế.

    d. Atharva-veda: Dùng cho việc cầu nguyện.

    Trên thực tế, nội dung 4 bộ Veda đều lấy việc cúng tế làm trung tâm; chỉ có điều, Thánh ca Veda thời kỳ đầu đều do các nhà thơ sáng tác, còn các nghi thức cúng tế trong Veda là do giới tăng lữ thêm vào sau này. Tuy nhiên, trong 4 bộ Veda, mỗi bộ có nét đặc sắc riêng. Ví dụ, Rig-veda đại biểu cho tín ngưỡng của các nhà tư tưởng thượng lưu (nhà thơ) của dân tộc Āryan cổ đại; Atharva-veda ra đời là do các nhà thơ cố ý kế thừa tín ngưỡng của xã hội hạ lưu như xã hội của tộc Dravidian và thêm vào các tư tưởng triết học từ xưa đến nay của tầng lớp thượng lưu. Atharva-veda chủ yếu tập trung vào chú thuật, xem trọng tín ngưỡng về một sức mạnh siêu nhiên ban phước và trừ họa, do đó mang đầy sắc thái mê tín dân gian; điều này không có trong ba bộ Veda còn lại.

    2. Thần thoại Veda

    Thần thoại Veda nói ở đây là chỉ cho thần thoại được kể trong Rig-veda. Nếu muốn nghiên cứu đầy đủ về thần thoại Veda, thì nên tham khảo thêm hai bộ Veda khác là Yajur-veda và Atharva-veda.

    Cõi thần trong Veda có đầy đủ yếu tố của toàn thể vạn vật: ở cõi trời thì có thần mặt trời, thần mặt trăng, thần sao; ở cõi không trung thì có thần gió, thần mưa, thần sấm, thần sét; ở cõi đất thì có thần núi, thần sông, thần cỏ, thần cây; cho đến các sự việc, hiện tượng trong nhân gian, thậm chí là các động vật thù địch với con người, cũng đều được đưa vào thần thoại Veda. Nhưng vì tộc Āryan không tiến vào Ấn Độ một lúc mà kẻ trước người sau, đến Ấn Độ rồi lại vì sự xa cách về địa lý, nên mỗi nơi lại phát triển tín ngưỡng tôn giáo của riêng mình. Ví dụ, trong Rig-veda có tên của 5 chủng tộc[4], mỗi chủng tộc lại phân thành các bộ lạc, mỗi bộ lạc lại phân thành các làng xóm, mỗi làng xóm có rất nhiều gia đình. Chủ các gia đình vừa là người cai quản gia nghiệp, vừa là người thờ cúng tôn giáo, điều này giống với Hy Lạp và La Mã. Vì vậy, tín ngưỡng sùng bái thần linh của các nơi không thể thống nhất với nhau. Người ở nơi này đặc biệt sùng bái thần này, người ở nơi khác lại đặc biệt sùng bái thần khác. Cho nên, người Āryan thời đại Veda cùng tín ngưỡng rất nhiều vị thần, nhưng giữa các vị thần hoàn toàn không thể tìm thấy sự kết nối mang tính hệ thống nào. Một người có thể tín ngưỡng tất cả các thần. Khi sùng bái một vị nào trong số các thần, họ đều có thể dùng những từ như quang minh, trí tuệ, uy lực, từ bi... để ca ngợi, và đều có thể dùng những từ như trên nhất, lớn nhất, đẹp nhất... để miêu tả vị thần đó. Tuy họ sùng bái nhiều thần nhưng mỗi khi sùng bái một vị thần nào đó thì đều xem vị đó là chúa tể của vũ trụ. Do nguyên nhân nói trên, có người gọi tôn giáo Ấn Độ là đơn nhất thần giáo, tức là tôn giáo chỉ sùng bái một thần trong đa thần. Max Müller thì lại gọi nó là giao hoán thần giáo, tức là tôn giáo mà địa vị chủ thần thường xuyên hoán đổi giữa các thần.

    Thần trong thần thoại Veda được phân thành những cõi thế giới khác nhau. Rig-veda chia làm 3 cõi là cõi trời (Div), cõi không trung (Antariksa) và cõi đất (Prthivi). Có khi lại phân mỗi cõi trời, không trung và đất làm 2 cõi, thành ra 6 cõi. Đến Atharva-veda, phía trên 3 cõi lập thêm cõi ánh sáng là 4 cõi. Lại có chỗ đem mỗi cõi trời, không trung và đất phân làm 3 cõi, tổng cộng thành ra 9 cõi; nhưng chúng đều lấy 3 cõi trời, không trung và đất làm nền tảng. Giờ sẽ theo thứ tự của 3 cõi ấy, lấy những vị quan trọng trong các thần của Rig-veda để giới thiệu như sau:

    2.1 Thần cõi trời

    Trong Rig-veda và Atharva-veda, thường nói đến 33 tầng trời, gọi chung là 3 cõi, mỗi cõi 11 tầng trời. Phật giáo sau này lại gọi tầng trời thứ hai của cõi dục, tức trời Đao-lợi là trời Ba mươi ba, vì trời Đao-lợi ở trên đỉnh núi Tu-di có 33 cung điện nên nó được gọi như vậy. Veda thì lại gọi cả 3 cõi là trời Ba mươi ba. Nhìn qua thì tưởng như là có 33 vị thần, nhưng thực ra con số 33 này ở Ấn Độ chỉ là một số phiếm chỉ, không biểu thị số lượng nhất định. Giờ tôi sẽ giới thiệu các vị thần cõi trời chủ yếu:

    a. Dyaus: Dyaus là vị thần có dấu tích nguyên thủy nhất trong số các thần của Veda, xuất hiện vào khoảng thời đại Ấn-Âu, cùng một tính chất với Zeus của Hy Lạp và Jupiter của La Mã. Tên thần này bắt nguồn từ căn ngữ “dyu”, nghĩa là “phát sáng”. Vì vậy, Dyaus chính là ánh sáng được thần thánh hóa. Đối với mẹ đất, Dyaus được xem là cha trời. Dyaus còn được tưởng tượng là có hình dạng một con bò, người Ấn gọi vị thần này là “bò đực”, việc này có liên quan đến việc họ gọi những đám mây tạo mưa là “bò đực”.

    b. Varuna: Varuna là vị thần mạnh mẽ nhất trong cõi thần của Veda, được tin tưởng là vị thần tư pháp vô cùng uy tín và đã xuất hiện từ rất xa xưa. Tính chất của thần Varuna tương tự với thần Ahura Mazdah của Tiên giáo, nên thần này xuất hiện muộn nhất là vào thời đại Ấn-Iran. Cái tên Varuna bắt nguồn từ căn ngữ “var”, nghĩa là “bao dung”. Varuna chính là bầu trời được thần thánh hóa. Vì vậy, Varuna lấy trời làm chỗ ngồi, lấy thần lửa Agini làm mặt, lấy nữ thần mặt trời Sūrya làm mắt, lấy thần gió Vāyn làm hơi thở, và mặc đồ màu vàng. Varuna là “đại vương” của vũ trụ, là người bảo hộ các quy luật, và là biểu hiện cao nhất cho lý tưởng về đạo đức của người Ấn Độ cổ. Đến thời đại Phật giáo, do rất nhiều nước nhỏ mới nổi chia tách ra, đánh giết lẫn nhau, làm dần hình thành nên tư tưởng bá chủ, mong muốn có một người dùng đạo đức và uy tín để thống nhất Ấn Độ, đó chính là lý tưởng Chuyển luân vương[5]. Đến thời vua Asoka thì lý tưởng này đã thật sự được thực hiện. Tìm hiểu về nguồn gốc của tư tưởng Chuyển luân vương thì thực ra đó chính là niềm hy vọng có một người giống với thần chiến tranh Indra nhưng thừa hưởng những tính chất của thần tư pháp Varuna xuất hiện ở nhân gian.

    c. Mitra: Vị thần này tương đương với thần Mithra của Tiên giáo, tên thần có nghĩa là “người bạn”. Mitra là vị thần biểu thị cho ân huệ của mặt trời (thần ban ngày).

    d. Sūrya: Sūrya là nữ thần đại biểu cụ thể cho mặt trời, tương đương với Helios của Hy Lạp.

    e. Savitr: Savitr là vị thần đại biểu cho hoạt động của mặt trời. Thần này có vẻ như là “đặc sản” của Ấn Độ. Savitr đánh thức mọi người dậy, có thể làm cho thần linh và con người trở nên bất tử, có năng lực trừ khử quỷ dữ, quái vật, ác mộng, và dẫn linh hồn người chết lên trời.

    f. Pūsan: Pūsan là vị thần biểu thị cho sự dưỡng nuôi vạn vật của mặt trời, còn là thần dẫn đường, thần bảo hộ chăn nuôi, có thể đuổi mãnh thú, đạo tặc cho người đi đường và có thể dẫn linh hồn người chết đến nước trời.

    g. Vaishnava: Đến Ấn Độ giáo sau này, thần Vaishnava (Vishnu) và thần Shiva có địa vị ngang bằng nhau, nhưng trong Rig-veda địa vị của thần này không hề cao như vậy. Tính chất đặc biệt của Vaishnava là với 3 bước chân có thể đi qua toàn thế giới, vì vậy Vaishnava là mặt trời được thần thánh hóa, bởi mặt trời mọc ở phía đông, đi đến trung tâm, rồi lặn ở phía tây.

    h. Āditi: Āditi là nữ thần, công đức của nữ thần này là đem lại cho loài người sự tự do, không ràng buộc. Những vị thần do Āditi sinh ra được gọi là Āditya.

    i. Usas: Usas là nữ thần ban mai, là nữ thần đẹp nhất trong các thần của Veda, tính cách có điểm tương tự với nữ thần Athena của Hy Lạp. Usas là con gái của Dyaus, là em gái của nữ thần ban đêm Rātri, và là mẹ của thần mặt trời Sūrya. Tuổi Usas tuy đã rất cao, nhưng vì được tái sinh mỗi ngày nên trẻ mãi như thiếu nữ.

    j. Asvin: Asvin là thần sinh đôi, có thể đem vợ đến cho ông già, đem chồng đến cho bà lão, đem mắt đến cho người mù, đem chân đến cho người què. Asvin cứu tế nhân loại rộng khắp, giả dụ có người bị trôi dạt nơi biển cả tối tăm, tay bám vào tấm ván, miệng niệm vị thần này, sẽ lập tức được thuyền lớn đến cứu. Vì thế, Asvin được xem là thần đường biển và thần y dược.

    2.2 Thần cõi không trung

    Tiếp theo tôi sẽ giới thiệu các vị thần chính ở cõi không trung:

    a. Indra: Indra là thần bảo hộ của nhân dân Ấn Độ, là vị thần to khỏe nhất, uy vũ nhất, được coi trọng nhất trong cõi thần Veda. Indra xuất hiện từ thời đại Ấn-Iran, Tiên giáo xem Indra là ác thần, đến Phật giáo, Indra được xem là vua của trời Đao-lợi, tên đầy đủ là Sakra-devānām-indra, là một vị thần quy y đức Phật. Ấn Độ giáo sau này lại xem Indra là chủ của thành Sudarsana, tòa thiên đô ở vị trí cao nhất, hào hoa xa xỉ, và vĩnh viễn được sùng bái. Indra là sấm sét được thần thánh hóa, mẹ Ngài là bò đực, Ngài sinh ra từ hông của bò đực, sau khi sinh đã là một dũng sĩ, nhảy nhót làm chấn động cả trời đất, trong tay thường cầm chùy kim cang[6] làm vũ khí, vì vậy còn có tên là Kim Cang Thủ[7]. Ấn Độ thời đức Phật sản sinh ra tư tưởng Chuyển luân vương. Những tác giả viết truyện về đức Phật đa số cho rằng đức Phật nếu không xuất gia tu hành thành Phật, tất sẽ là một vị Chuyển luân vương. Tư tưởng Chuyển luân vương hình thành từ sự kết hợp hai tính cách của thần Varuna và thần Indra. Vì vậy, thần thoại Indra sinh ra từ hông của mẹ mình cũng được gán ghép cho đức Phật, nói rằng Ngài giáng sinh từ bên hông phải của hoàng hậu Maya. Kỳ thực, căn cứ vào việc khảo sát các cuốn sách như Dị Bộ Tông Luân Luận, thuyết đức Phật sinh ra từ hông bên phải chỉ là chủ trương của Đại chúng bộ[8], trong Thi Thiết Luận của Hữu bộ[9] không hề đề cập đến chuyện này. Đại chúng bộ luôn thích đem một đức Phật con người bình thường miêu tả thành một đức Phật lý tưởng hóa. Không khó lý giải việc thần sấm sét Indra sinh ra từ hông của mẹ mình vì nó chỉ là một thần thoại. Còn việc Đại chúng bộ của Phật giáo chủ trương: “Tất cả Bồ-tát xuất thai mẹ đều sinh ra từ bên hông phải” thì thật là khó hiểu. Đây không chừng là một thần thoại ra đời từ sự bắt chước một thần thoại khác. Điều đáng buồn cười hơn nữa là Đạo giáo của Trung Quốc, chịu ảnh hưởng của kinh Phật, lại bắt chước thần thoại kia một lần nữa, nói rằng Lão Tử của họ sinh ra từ hông trái của mẹ. Có thể nói, thần Indra có rất nhiều ảnh hưởng đối với Phật giáo. Lại như đức Bổn tôn của Đại thừa Mật tông ở Ấn Độ sau này được gọi là Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa hoặc Kim Cang Thủ), Ngài hiện tướng phẫn nộ, tay cầm chùy kim cang làm vũ khí hàng ma, đây chẳng phải là từ quan niệm về thần Indra mà ra hay sao?

    b. Rudra: Thần Rudra từ Rig-veda, qua Yajur-veda, rồi đến Atharva-veda, dần dần phát triển lên, đến Ấn Độ giáo sau này thì biến thành thần Shiva. Mỗi khi nổi giận, Rudra lấy mũi tên sét của mình giết người và súc vật khắp nơi, làm tổn thương đến cả cỏ cây. Xuất xứ thiên nhiên của vị thần này có liên quan đến mây mù trong núi, cũng có học giả cho là có liên quan đến khí gây bệnh chướng hoặc sức mạnh sấm sét.

    c. Maruts: Maruts là sự thần thánh hóa của gió bão, thông thường đi thành từng đoàn (Gana-sardha), số lượng của đoàn thần này hoặc là 21, hoặc là 180, lấy Rudra làm cha, bò đực làm mẹ.

    d. Vāyn: Vāyn là gió được thần thánh hóa, tốc độ di chuyển của thần này đứng đầu trong các thần, là đồng minh của thần sấm sét Indra.

    e. Parjanya: Parjanya là mây được thần thánh hóa, là thần tạo mưa.

    2.3 Thần cõi đất

    Tiếp theo tôi sẽ giới thiệu các vị thần cõi đất quan trọng nhất:

    a. Agni: Agni là lửa được thần thánh hóa, vì lửa có sức mạnh không thể nghĩ bàn, nên những dân tộc chưa khai hóa xem lửa là thần thánh. Agni là thần tế đàn, có điểm tương tự với lửa thiêng của Hy Lạp và La Mã.

    b. Brhaspati: Brhaspati cũng là thần tế đàn trên mặt đất.

    c. Soma: Soma là thần rượu, thần này được kế thừa từ thời đại Ấn-Iran. Công năng của Soma có điểm giống với thần Agni, tức bản thân là thần, đồng thời cũng là môi giới giữa thần và người. Soma vốn là tên một loại cỏ, sau vì dùng cỏ này chế rượu cúng thần, nên lấy làm tên của thần rượu. Trong Rig-veda, có thần thoại rằng Soma kết hôn với nữ thần mặt trời Sūrya; từ Atharva-veda trở về sau, liên tưởng đến sự đối lập giữa mặt trời và mặt trăng, người ta xem Soma chính là thần mặt trăng. Vì cuống cỏ soma được gọi là amsu, cùng một từ với từ “ánh trăng”; lại vì chất dịch trong cỏ soma được gọi là indu, cũng có nghĩa là “mặt trăng”, nên người ta mới đem thần rượu chuyển thành thần mặt trăng.

    d. Sarasvati: Sarasvati là vị thần cõi đất nổi tiếng nhất ngoài ba vị thần lớn trông coi tế đàn kể trên. Sarasvati là nữ thần sông ngòi. Vị thần này rốt cuộc là thần sông hay là chính bản thân sông, không thể biết rõ. Trong Rig-veda, thần này có thể trừ cấu uế cho con người, đem lại cho con người sự giàu có, lòng dũng cảm và con cháu. Đến thời đại Phạm Thư, vị thần này còn kiêm là thần Vāe. Vợ của thần Brahmā, thiên nữ may mắn và trời Biện tài sau này, cũng đều là kết quả của sự phát triển về mặt nhân cách của vị thần này.

    2.4 Thần động vật, thần thực vật...

    Ngoài thần của 3 cõi kể trên, còn có rất nhiều thần khác. Trong số động vật, người Ấn sùng bái thần ngựa, vị thần kéo xe cho các thần của 3 cõi. Tiếp đó là thần bò, Rig-veda lấy hình tượng của cha trời Dyaus là con bò đực, Atharva-veda gọi bò đực là Indra, còn Yajur-veda gọi bò đực là “loài động vật không thể giết” (Aghnya). Ấn Độ giáo sau này xem bò đực là hóa thân của thần Vishnu và sùng bái loài động vật này. Đầu tiên, người ta chỉ hình dung các đám mây trên trời là bò đực và tưởng tượng đó là hình dạng của thần, sau này lại lấy bò thật làm hiện thân của thần. Ngoài ngựa và bò, còn có các thần động vật khác như dê rừng, chó, lợn rừng, rắn... Việc sùng bái thần rắn có liên quan đến tín ngưỡng về loài rồng sau này. Trong số các thần thực vật, có cỏ soma, có dược thảo osadhi, có đại thụ là vua của rừng rậm, có nữ thần của tất cả các khu rừng... Trong số các thần vạn vật, có cột, chiếu dùng trong lễ cúng; đá dùng giã cỏ soma; cái cày và lưỡi cày; giáp, mũ, cung, tên dùng khi chiến tranh... Càng vi diệu hơn, người ta còn lấy bản thân một số câu từ nào đó sùng bái làm thần. Ví dụ như, trong Atharva-veda, các từ “sung túc”, “thần linh”, “chết”, “niềm tin”, “tín ngưỡng”, “yêu”, “nghèo túng”, “diệt vong”... đều được gọi và được cầu nguyện với tư cách là thần. Việc này có liên quan đến chú thuật.

    2.5 Thần ma

    Thần ma lại là một hệ khác, chủ yếu có 3 loại:

    a. Asura (A-tu-la): Asura vốn đồng một từ với Ahura, vị thần tối cao của Tiên giáo, nhưng trong cõi thần Veda, dần biến thành ác thần. Asura trong Veda lúc đầu là danh hiệu dùng để gọi các thần có sức mạnh như Mitra, Varuna, Agni, Indra... Nó biểu thị cho những vị thần có ma lực đáng kính sợ. Về sau, do sự tiến bộ của quan niệm về tội ác, người ta lấy ma lực làm đặc tính của thần ma, cuối cùng Asura trở thành một loại thần độc lập. Atharva-veda và Yajur-veda miêu tả Asura đi thành từng bầy, luôn đối địch với các thiên thần. Đến thời đại Áo Nghĩa Thư, dần hình thành thuyết lấy Sura làm Thiên (loài trời), lấy Asura làm Phi thiên (loài có phước báo gần bằng nhưng không phải loài trời).

    b. Rakshasa (La-sát): Rakshasa là một loại ác quỷ, khởi nguồn từ Rig-veda, đến Atharva-veda thì càng thịnh hành. Asura thù địch với loài trời, còn Rakshasa thì thù địch với loài người, hóa hiện thành đủ loại hình tướng để hại người. Ví dụ, ác quỷ này hóa thành chó, kền kền, chim cú... và hóa thành anh em, vợ chồng để thân cận và làm hại con người. Rakshasa cũng đi thành từng bầy, chúng thường theo đường ăn uống mà chui vào bụng con người, ăn thịt ở bên trong làm cho con người phát bệnh.

    c. Pisāca (Tỳ-xá-cà): Pisāca là bầy quỷ cõi âm không người tế tự. Trong Rig-veda chỉ nói đến một lần, trong Atharva-veda và Yajur-veda thì nhiều lần nhìn thấy tên bầy quỷ này. Pisāca còn có tên là Kravyād, chúng đối địch với tổ tiên của con người. Loài quỷ đói mà Phật giáo nói tới sau này gần như cũng có nguồn gốc từ quỷ Pisāca mà ra.

    Ba loại ma quỷ ở trên xuất hiện rất nhiều trong kinh Phật. Có thể thấy, độ ảnh hưởng của các thần Veda đối với Phật giáo vô cùng sâu sắc. Phật giáo vì để nhiếp hóa quần chúng tin theo truyền thống, nên cũng phương tiện tiếp nhận các vị thần trong tín ngưỡng truyền thống, đặt họ vào vị trí hộ pháp.

    2.6 Các thần cấp thấp

    Đây là các thần nhỏ, thuộc loại khác với các thần cõi trời, cõi không trung và cõi đất, chủ yếu có những loại dưới đây:

    a. Rbhus: Rbhus là những người thợ giỏi, sau được lên làm thần. Họ vốn không phải là thần, vì sự ân sủng của các thần mà được lên trời, nhờ cố gắng, nỗ lực nên đạt được địa vị thần, không bao giờ chết nữa.

    b. Gandharva (Càn-thát-bà): Gandharva chính là thần Gandharewa của Tiên giáo, xuất hiện từ thời đại Ấn-Iran. Rig-veda đối với số lượng thần này có cả số lẻ và số chẵn, Yajur-veda thì chép có 27 vị, Atharva-veda lại chép có 6333 vị. Có thuyết nói thần này ở trên trời, có thuyết lại nói thần này thường ở chung trong nước với các thiên nữ Apsaras. Có sách nói thần này có hình dạng nửa người nửa thú, Bách Đoạn Phạm Thư[10] lại nói vị thần này rất đẹp. Gandharva mê nữ sắc, ngoài thiên nữ Apsaras là vợ ra, Rig-veda còn nói tất cả trinh nữ chưa chồng đều thuộc về Gandharva. Phật giáo và Ấn Độ giáo về sau lấy Gandharva làm thần âm nhạc ở cõi trời, trong Veda vẫn chưa có cách nói này.

    c. Apsaras: Apsaras là những thiên nữ sống trong nước, tuy thường ở ven sông nhưng cũng có lúc đi đến chỗ các cây lớn như cây đa, cây bồ-đề... Các nàng ở dưới gốc cây thổi sáo, nhảy múa và ca hát. Apsaras còn thích cờ bạc và giúp cho những người đánh bạc gặp may mắn. Thiên nữ Apsaras là vợ của Gandharva, nhưng cũng có quan hệ với cả đàn ông ở nhân gian. Nàng từng sống chung 4 năm với Purūravas, một người thế tục, và sinh hạ nhà thơ Vasistha. Nhưng vì nữ thần này khéo mê hoặc lòng người nên người đời đối với nàng cũng có phần sợ hãi.

    3. Quan hệ giữa thần và người

    Do Thái giáo xem thần là chủ nhân[11], người là tôi tớ, quan hệ giữa thần và người là quan hệ chủ tớ, vì vậy người phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của thần. Quan hệ thần - người trong Veda, đại để là quan hệ thân tộc. Người Āryan thời đại Ấn-Âu đã gọi trời là cha, đến thời đại Veda, thì thường dùng từ pitānah vừa gọi cha, vừa gọi thần. Do Thái giáo tuy trong đoạn 8, chương 64, kinh Isaiah cũng gọi thần là “cha ta”, nhưng những ví dụ như vậy rất ít. Đến Cơ Đốc giáo mới thường gọi Thượng đế là “cha trời”.

    Veda cho loài người đều là con cháu của thần. Ví dụ như, Manu - tổ tiên loài người ở cõi đất, Yama và Yami - tổ tiên loài người ở các cõi khác, là anh chị em đầu tiên của loài người, cũng là những người chết đầu tiên, và đều là con trai, con gái của thần Vivasvat. Tổ tiên của con người hiện nay là Manu, Manu là con của thần Vivasvat và Saranyū, con gái của thần Tvastr - vị thần khéo tay, như vậy con người là con cháu của thần. Có thể thấy, tư tưởng tôn giáo của Veda linh diệu hơn so với Do Thái giáo rất nhiều. Đồng thời, tư tưởng “loài người vốn đều có thần tính” đó chính là tiền đề cho tư tưởng vĩ đại “tất cả chúng sinh đều có Phật tính” của Phật giáo sau này.

    4. Veda trong đời sống thực tế

    Đời sống thực tế nói ở đây là chỉ đời sống giao tiếp giữa người và thần, con người muốn giao tiếp với thần thì phải thông qua một số phương pháp sau đây:

    a. Lễ cúng: Người nguyên thủy để làm thần vui mà ban ân huệ cho thì phải cầu nguyện và dâng cúng phẩm vật. Vào thời đại Rig-veda vẫn chưa có điện thần, các lễ cúng phần lớn được tổ chức trong nhà của mỗi gia đình, chính giữa nơi cúng tế là một lò lửa, bên cạnh lò lửa đặt một bàn thờ phủ kín bằng chiếu cỏ, đó là chỗ thần ngự và cũng là chỗ để cúng dường, nhưng không có tượng thần. Khi làm lễ, họ hướng về phía bàn thờ, ca ngợi và cầu nguyện thần linh, lấy vật hiến tế ném vào trong lửa, tin rằng thần sẽ thọ nhận mùi hương của nó. Các động vật dùng để hiến tế thông thường là bò, ngựa, dê và dê rừng. Thời đại thái cổ hình như họ từng dùng người làm vật hiến tế, sau này mới dần dần cải tiến. Ví dụ, trong Bách Đoạn Phạm Thư nói rằng: “Ban đầu vốn dùng người làm vật hiến tế, linh hồn của người thoát ra nhập vào ngựa, bèn dùng ngựa làm vật hiến tế, linh hồn của người thoát ra nhập vào bò, tiếp đó là dê, rồi dê rừng, và cuối cùng là nhập vào đất, vì lúa mọc lên từ đất nên về sau dùng lúa để thay cho người”. Từ đó có thể thấy, phong tục man rợ thời thái cổ đã dần trở nên văn minh hơn. Tuy nhiên, đến phái Sākta của Ấn Độ giáo sau này thì lại khôi phục việc lấy người làm vật hiến tế.

    b. Chú thuật: Chú thuật của Ấn Độ bắt nguồn từ Yajur-veda. Lễ cúng là việc bên ngoài, chú thuật là việc bên trong. Chú thuật chủ yếu được sử dụng ở xã hội hạ lưu. Có hai tư tưởng làm cơ sở cho chú thuật trong Atharva-veda: một là, tin bản thân một câu chú nhất định nào đó có sức mạnh thần bí; hai là, tin vật biểu trưng có thể đại biểu cho vật thật. Cũng chính là nói, tụng một câu chú nhất định và sử dụng vật biểu trưng, thì sức mạnh của câu chú đó có thể tác động đến tất cả thần linh. Chú thuật Ấn Độ có thể chia thành 4 loại là: tiêu tai, nguyền rủa, mở vận và ma thuật.

    5. Vận mạng con người sau khi chết

    Rất nhiều học giả cho rằng tôn giáo của Ấn Độ là chủ nghĩa yếm thế, kỳ thực người Āryan trong thời đại Veda mang thái độ của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lạc quan, không mấy quan tâm đối với tương lai sau khi chết. Nhưng họ đều tin sâu sắc rằng người tuy chết rồi vẫn còn tồn tại một loại nhân cách cá nhân, giống với thuyết linh hồn mà đời sau thường nói. Trong Atharva-veda ghi rõ, linh hồn sau khi chết này sống ở ba cõi trời, không trung và đất. Nơi ở lý tưởng của nó chính là tại nước trời của Yama - vua của cõi chết. Rig-veda chép rằng: “Tất cả những thánh nhân thực hành khổ hạnh trước thần linh, những dũng sĩ hy sinh trên chiến trường và những người không tiếc tài vật làm việc cúng tế đều được vào nước trời này”.

    Nước trời Yama có ánh sáng vô hạn, có sông suối chảy xiết, được gọi là cõi ánh sáng cao nhất. Những vì tinh tú mà nhân gian nhìn thấy, chính là ánh sáng phát ra từ những thánh nhân được vào cõi nước này. Người thường chết đi, vào sống trong nước trời này, tất cả nguyện vọng đều có thể như ý: không già yếu, không đau bệnh, không khuyết tật, không phân biệt giàu nghèo, cùng hưởng an vui giống như các bậc thánh nhân. Nước trời có âm nhạc, có ca hát, có cha mẹ vợ con đoàn tụ vui vẻ, có đồ ăn uống trăm vị tự nhiên xuất hiện chứa đầy trong các ao hồ, có loài bò như ý giúp con người thỏa mãn tất cả ham muốn. Thần Yama giữ vị trí trung tâm trong các thần ở đây, thường mở tiệc linh đình dưới một gốc cây bồ-đề.

    6. Yama và địa ngục

    Chữ “yama” có hai nghĩa: một là “sinh đôi”, hai là “hướng đạo”. Vì nghĩa thứ hai mà đến thời sau này thần Yama được đổi thành thần chế ngự kẻ ác. Khởi thủy, thần Yama sống ở cõi trời cao nhất nên vị thần này tất phải có liên quan đến thần thoại về mặt trời. Rig-veda nói người chết lên cõi trời, đầu tiên phải trình diện hai thần Yama và Varuna. Đến Atharva-veda, thì lại có tư tưởng sợ hãi đối với thần Yama, cho rằng vị thần này quản lý người chết và có quyền xét xử con người sau khi chết. Đến thời đại Phật giáo, lại đem thần Yama phân ra làm hai: một vua Yama trên cõi trời (trời Dạ-ma) và một vua Yama dưới địa ngục (vua Diêm-la).

    Vào thời đại Rig-veda đã có tư tưởng địa ngục[12] hay chưa? Giữa các học giả còn rất nhiều tranh luận: một số học giả phương Tây cho rằng, từ Áo Nghĩa Thư trở về trước, ở Ấn Độ không có tư tưởng địa ngục; có người lại nói làm thiện thì được quả báo thiện, làm ác tất bị quả báo ác, địa ngục là nơi người ác thọ báo. Theo ý kiến của hai học giả người Nhật Takakusu Junjirō và Taiken Kimura thì: “Những bài tán ca trong Rig-veda đều ẩn ác dương thiện, bỏ bóng tối nói ánh sáng. Mặc dù, thuyết về địa ngục không biểu hiện ra ngoài, nhưng cũng không thể phán định là trong Rig-veda không có tư tưởng này; tuy không phải hoàn toàn, nhưng chúng ta cũng có thể thấy được manh nha của nó.” Ví dụ, “chỗ sâu thẳm”, “tối tăm không cùng”, “vực không đáy”, “nhà dưới đất”, “mặt đáy của đất”, “chỗ tối tăm thấp nhất”... mà trong Rig-veda đã nói có thể là chỉ cho địa ngục. Tư tưởng nói rõ về những khổ nạn ở địa ngục, về việc đặt tội nhân lên cân để định tội nặng nhẹ... đã bắt đầu có từ thời đại Phạm Thư. Còn tư tưởng Yama trở thành vua Diêm-la làm chủ cõi địa ngục thì bắt đầu từ thời đại Sử Thi.

    TIẾT 3: TÔN GIÁO THỜI ĐẠIPHẠM THƯ VÀ ÁO NGHĨA THƯ

    1. Thời đại Phạm Thư

    Thời đại Phạm Thư bao gồm cả Yajur-veda, khoảng từ năm 1000 đến năm 500, 600 trước Công nguyên, là thời đại người Āryan từ vùng Punjab di cư đến vùng Kuruksetra. Đây là thời kỳ trì trệ về tư tưởng và bảo thủ về tôn giáo. Các nhà tôn giáo chuyên lấy việc truyền giáo làm tôn chỉ, ngăn cản những tư tưởng tiến bộ, tự đóng khung trong sinh hoạt và nghi thức truyền thống. Vì vậy, thành tựu chủ yếu của Phạm Thư chính là 3 cương lĩnh lớn của Bà-la-môn giáo: chủ nghĩa thiên khải Veda, chủ nghĩa tế tự vạn năng và chủ nghĩa Bà-la-môn vô thượng. Tính chất của Phạm Thư chẳng qua chỉ là phát huy những tính chất riêng biệt của Yajur-veda. Đối với những việc liên quan đến cúng tế trong 4 bộ Veda, việc nào cũng có kể thêm nhân duyên, sự tích và lai lịch, tức là lấy văn xuôi để giải thích cho những bài tán ca trong Veda mà người cúng tế sử dụng.

    Nếu muốn ví von thì 4 bộ Veda tương đương với kinh điển của Phật giáo, còn Phạm Thư tương đương với bộ luận mà các học giả Phật giáo căn cứ vào kinh điển biên soạn ra. Do đó, Phạm Thư cũng chính là sách thần học thoát thai từ 4 bộ Veda gốc.

    Phạm Thư hiện chỉ còn lưu giữ được 14, 15 bộ; thuộc về Rig-veda có 2 bộ; thuộc về Sāma-veda có 9 bộ; thuộc về Yajur-veda phân thành Shukla Yajur-veda và Krishna Yajur-veda, trong đó Krishna Yajur-veda lại phân thành 4 bộ nhỏ; thuộc về Atharva-veda có 1 bộ.

    Phạm Thư lúc nào cũng nói về thần thoại, kể các câu chuyện, bàn luận những lễ nghi tỉ mỉ, mở rộng đến cả nguồn gốc vũ trụ, vì vậy nội dung của nó rất phức tạp.

    2. Thần thoại Phạm Thư

    Vào thời kỳ Phạm Thư, các vị thần tự nhiên quan trọng thời cổ đại dần mất đi sắc thái tự nhiên của họ và lệ thuộc vào một vị thần (một nguyên lý) trừu tượng mới xuất hiện, đồng thời các vị thần cấp dưới không chút nổi bật thời cổ đại, nay được nâng cao địa vị, và cũng lệ thuộc vào vị thần trừu tượng kia.

    Các thần thời kỳ này đều mang sắc thái nhân cách hóa, tuy nhiên phẩm cách của họ lại rất suy đồi. Theo những chuyện kể, thần tư pháp Varuna để bắt trẻ con ăn thịt đã hối lộ thần Agni và thần Indra; Agni vốn là vị thần thanh khiết, giờ lại phạm tội gian dâm với vợ của Varuna trong khi Varuna là thầy của mình.

    Thần thoại hồng thủy trong Phạm Thư rất giống với thần thoại hồng thủy Noah của Do Thái giáo. Thần thoại nói rằng có một người con trai của thần Vivasvat tên là Manu, khi đang tắm rửa dưới sông bắt được một con cá nhỏ. Cá nói: “Xin hãy cứu tôi, tôi cũng sẽ cứu lại anh.” Manu bèn bỏ cá vào bình, tiếp đó cho cá xuống hồ, rồi cuối cùng thả cá ra biển lớn. Khi chia tay, cá nói: “Mùa hạ năm nay sẽ xảy ra đại hồng thủy, tiêu diệt tất cả sinh vật, tôi sẽ cứu anh, anh hãy làm một chiếc thuyền đợi tôi đến.” Mùa hạ về, quả nhiên nước lớn tràn ngập nơi nơi, cá đến buộc thuyền vào sừng của mình rồi kéo thuyền tới một hòn núi cao ở phương bắc. Đợi nước rút đi, Manu từ từ xuống núi. Vì sinh vật đều đã bị chết chìm hết, để có con cháu nối dõi, Manu bèn làm lễ cúng tế và tu hành khổ hạnh trong 1 năm ròng, đột nhiên từ trong nước sinh ra một người phụ nữ, nói với anh rằng: “Ta chính là thần hạnh phúc, vì sự cúng tế của ngươi, nên ngươi sẽ được con cháu và gia súc, chúng sẽ có hạnh phúc.” Bởi vậy, loài người sau này đều là con cháu của Manu.

    3. Khởi nguyên của thuyết luân hồi và thuyết nghiệp

    Luân hồi[13] có nghĩa là lưu chuyển, đây là tư tưởng chung ở Ấn Độ từ thời đại Áo Nghĩa Thư đến nay. Nói một cách đại thể, thời đại Rig-veda chưa hề thấy có tư tưởng luân hồi, theo khảo sát của các học giả, tư tưởng này bắt đầu xuất hiện vào thời đại Phạm Thư, và thuần thục vào thời đại Áo Nghĩa Thư. Vì trong Phạm Thư tuy có nói đến vấn đề luân hồi, nhưng chỉ là những đoạn nhỏ, nên đối với các loại cảnh giới luân hồi, thời gian thưởng phạt của nghiệp, tình trạng đến đi của linh hồn, hay việc giải thoát không thể tách rời luân hồi... đều không nói rõ. Đến Áo Nghĩa Thư mới bắt đầu bổ sung thêm những vấn đề này. Những cái gọi là Giải thoát (Moksa), Niết-bàn (Nirvāna), Bất tử (Amrta) hay Cõi vô thượng (Nihsreyasas) đều là tư tưởng muốn thoát ly cảnh luân hồi và đạt đến trạng thái vĩnh viễn bất động. Vì vậy, thuyết luân hồi và tư tưởng giải thoát không thể tách rời nhau.

    Về khởi nguyên của thuyết luân hồi, kế thừa ý kiến của Gaugh, Garrba nói nó được người Āryan tiếp nhận từ tín ngưỡng của thổ dân Ấn Độ nguyên thủy. Vì, tư tưởng này hoàn toàn không thấy có ở những người châu Âu cùng huyết thống với người Āryan, các vùng khác cũng chưa từng xuất hiện, chỉ riêng ở Ấn Độ mới có mà thôi. Còn về thuyết nghiệp, các học giả cho rằng nó cũng khởi nguyên từ tín ngưỡng hạ tầng. Tư tưởng về nghiệp bắt đầu xuất hiện từ Atharva-veda. Bộ Veda này cho rằng con người phạm tội một cách cố ý hoặc vô ý đều phải chịu sự trừng phạt tương đương, vì thế nó mới có những câu thần chú để trừ tội. Thứ tội này tựa như một loại vật chất, giống với vô biểu sắc[14] mà phái Nhất thiết hữu bộ của Phật giáo chủ trương, thậm chí bản thân tội lỗi cũng có thể làm cho người ta bị cảm nhiễm mà trở thành tội phạm. Hơn nữa, tất cả nghiệp thiện ác đều ẩn chứa trong nó trách nhiệm mà mỗi cá nhân phải gánh vác. Cảm giác trách nhiệm này trải khắp cả 3 đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Chính ở đây, thuyết nghiệp được thành lập. Tuy nhiên, Atharva-veda đại biểu cho tín ngưỡng hạ tầng của xã hội Ấn Độ, trong đó lẫn lộn không ít tín ngưỡng thổ dân, nên nguồn gốc của thuyết nghiệp không chừng cũng có thể là xuất xứ từ tín ngưỡng của người dân bản địa. Đến Phật giáo, thuyết luân hồi và thuyết nghiệp đã được tịnh hóa và khẳng định bằng trí tuệ của đức Phật.

    4. Áo Nghĩa Thư

    Áo Nghĩa Thư, Phạn ngữ là Upanisad, có nghĩa là “ngồi đối diện nói chuyện chân thành, thẳng thắn với nhau”. Mục đích của Áo Nghĩa Thư là chỉ dạy những giáo lý bí mật chưa từng được biết tới. Do ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng thời đại, tư tưởng tế tự vốn là cao nhất đã không thể thỏa mãn được yêu cầu của các trí thức đương thời, thế là Áo Nghĩa Thư xuất hiện với nhiệm vụ đem sự thuyết minh cho việc tế tự (như Phạm Thư đã làm) đặt xuống vị trí thứ hai, và đưa sự khảo sát triết học lên vị trí thứ nhất.

    Áo Nghĩa Thư được kế thừa từ Phạm Thư, là một bộ phận của Phạm Thư, bản thân nó hoàn toàn không phải là một bộ sách độc lập. Vì chương cuối của các cuốn Phạm Thư theo thông lệ đều được gọi là chương Āranyaka (Sâm Lâm Thư), chương này đúc kết lại các phần nhằng nhịt trước đó trong Phạm Thư, và đi sâu vào những tư tưởng về mặt triết học. Áo Nghĩa Thư thực chất là thuộc về phần cuối của Sâm Lâm Thư, vì thế, những phần cổ xưa nhất của Áo Nghĩa Thư có thể đã ra đời vào khoảng năm 700 đến năm 500 trước Công nguyên.

    Deussen đem so sánh tôn giáo Ấn Độ với tôn giáo Hebrew, nói rằng: Những thư tịch trước Áo Nghĩa Thư giống như Cựu Ước, Áo Nghĩa Thư thì giống như Tân Ước. Tân Ước đã quay lưng lại với tinh thần luật pháp của Cựu Ước và phát triển về mặt luân lý; còn Áo Nghĩa Thư thì từ bỏ các nghi thức cúng tế của Phạm Thư và phát triển về mặt triết học.

    5. Sự phân loại và các bản dịch Áo Nghĩa Thư

    Về nguyên tắc, tổng số cuốn Áo Nghĩa Thư phải ngang bằng với Phạm Thư. Các nhánh học phái Veda, mỗi nhánh có 1 cuốn. Nhưng đến thời kỳ sau này, có cuốn bị thất lạc, có cuốn là do người đời sau mô phỏng viết lại, nên không thể biết đích xác tổng số của nó là bao nhiêu. Barth nói có 250 loại, Weber nói có 235 loại, ngoài ra còn có những loại mới phát hiện vào thời cận đại. Bởi vậy, khi nghiên cứu Áo Nghĩa Thư, phải chia thành hai đầu mối:

    a. Áo Nghĩa Thư Cổ: Hệ này phụ thuộc vào Rig-veda, Sāma-veda và Yajur-veda, hiện còn 11 loại. Vì nó thuộc các chi phái khá cổ xưa, nên gọi là Áo Nghĩa Thư Cổ, còn gọi là hệ chính.

    b. Áo Nghĩa Thư Mới: Hệ này phụ thuộc vào Atharva-veda, có niên đại khá muộn, vì thế gọi là Áo Nghĩa Thư Mới, chỗ đáng nghi nhiều, nên còn gọi là hệ phụ. Trong đó toàn là những học thuyết được những cá nhân hoặc đoàn thể nhỏ nêu lên, không phải là sản vật kế thừa từ Phạm Thư; chỉ vì để suy tôn những học thuyết này là thiêng liêng, nên người ta đã dùng cái tên Áo Nghĩa Thư (kinh điển với ý nghĩa uyên áo), còn thực tế thì với chính Atharva-veda, Áo Nghĩa Thư cũng không có quan hệ trực tiếp. Ngoài 11 loại Áo Nghĩa Thư Cổ, còn lại đều thuộc về hệ này. Do vậy, về việc nghiên cứu Áo Nghĩa Thư chính thống, hệ này cũng không có giá trị gì lớn, điểm đặc sắc của nó là mang đậm sắc thái của các học phái, chủ trương một nền giáo lý có hệ thống.

    Có hai bộ sách đáng gọi là Áo Nghĩa Thư Toàn Tập của Ấn Độ là: Oupnek'nat - tập hợp 52 loại và Muktika - tập hợp 108 loại Áo Nghĩa Thư.

    Hiện có 4 bản dịch hoàn thiện của Áo Nghĩa Thư:

    a. Bản dịch tiếng Đức 60 Áo Nghĩa Thư của Paul Deussen, thuộc học phái Schopenhauer.

    b. Bản dịch tiếng Anh của Max Müller trong Thánh Thư Phương Đông.

    c. Bản dịch 13 Áo Nghĩa Thư Chính của Robert Ernst Hume, người Mỹ.

    d. Bản tiếng Nhật do Takakusu Junjirō giám sát, hiệu đính và phiên dịch toàn bộ Muktika, tức gồm 108 loại, tổng cộng chia thành 9 quyển.

    Sở dĩ Áo Nghĩa Thư có thể nhận được sự coi trọng của các học giả trên thế giới là vì giá trị triết học của nó. Trong Áo Nghĩa Thư, có thể tìm thấy những tư tưởng tương ứng với tư tưởng của Plato, Spinoza, Kant... Thảo nào Schopenhauer đã nói: “Tôi được sách này, khi sống có thể cảm thấy thanh thản, chết rồi cũng có thể cảm thấy thanh thản”.

    6. Tư tưởng tôn giáo của Áo Nghĩa Thư

    Trong tư tưởng của Ấn Độ thì tôn giáo và triết học không thể tách rời nhau. Nội dung của Áo Nghĩa Thư có thể chia làm 3 bộ phận là: bản thể luận, hiện tượng luận và chung cuộc luận. Bản thể luận và hiện tượng luận là những vấn đề thuần triết học. Cái gọi là bản thể, chính là nguyên lý của vũ trụ. Áo Nghĩa Thư lấy tự ngã[15] làm nguyên lý này. Theo chương 4 của Áo Nghĩa Thư Brhadāranyaka thì: “Tự ngã thực ra chính là Đại ngã”. Đại ngã là bản thể của vũ trụ. Trong thực tại, Đại ngã hiển hiện nơi trần thế, tạo thành các hiện tượng. Áo Nghĩa Thư nói tổng cộng có 3 trạng thái khi Đại ngã trở thành hiện tượng:

    a. Thần chi phối thế giới: Trạng thái này là thần được nhân cách hóa với tên gọi là Brahmā (Phạm thiên) hoặc Isvara (Tự tại thiên), tương đương với thần tạo hóa mà Plato đã nói.

    b. Thế giới vật chất: Đây chính là “vũ đài” luân hồi của chúng sinh. Về vị trí trong không gian thì chia thành 3 cõi trời, không trung và đất; về quá trình của thời gian, thì có thuyết kiếp[16] cho rằng: thế giới trong một thời kỳ nào đó dựa vào Đại ngã mà phát triển, qua khoảng thời gian nhất định, lại quay trở về với Đại ngã, thế giới thường cứ như vậy mà tuần hoàn không ngừng.

    c. Sự ra đời của chúng sinh: Theo tư tưởng của Áo Nghĩa Thư, phạm vi của chúng sinh rất rộng, trên từ loài trời, dưới đến thực vật đều là chúng sinh, nhưng trọng tâm khảo sát thường xuyên của nó chính là con người. Chúng sinh có 4 loại: sinh từ thai, sinh từ trứng, sinh từ nơi ẩm ướt và sinh từ mầm.

    Ba trạng thái của Đại ngã ở trên, ngoài quan niệm về thần chi phối thế giới, hầu như phần lớn đã được Phật giáo tiếp thu, và sau đó cải tiến thành quan niệm của Phật giáo.

    7. Luân hồi và giải thoát

    Tư tưởng luân hồi bắt nguồn từ thời đại Phạm Thư và thuần thục vào thời đại Áo Nghĩa Thư. Căn cứ vào thuyết nghiệp, người ta cho rằng cái ngã bản thể của chúng sinh là thường trụ (không sinh diệt, không biến đổi). Vì những hành vi mà cái ngã thường trụ này thực hiện (nghiệp lực) ảnh hưởng xuyên xuốt cả ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, nên quan niệm nhân quả ba đời cũng theo đó mà được thành lập. Chính nhân quả ba đời đã tạo ra sự lưu chuyển luân hồi của cái ngã thường trụ. Trong Áo Nghĩa Thư, phạm vi luân hồi của chúng sinh rất rộng, bao gồm trời, người, quỷ thần và động vật, thậm chí có cả thực vật.

    Mục đích cuối cùng của Áo Nghĩa Thư là giải thoát. Sự giải thoát này có được khi xa lìa tất cả mọi sự trói buộc của hiện tại giả tạm và an trú nơi Đại ngã của bản tính, không ở chỗ hướng về một nước trời mơ hồ, huyễn hoặc, mà ở chỗ phát hiện ra bản tính chân thực, vốn có của chúng sinh. Theo lập trường của Áo Nghĩa Thư, tất cả kinh nghiệm và tri thức có được từ thế giới hiện tượng đều không giúp ích gì cho công phu tu hành giải thoát; sự giải thoát là ở nơi trí tuệ[17] có được sau khi xa rời ngôn ngữ, dứt bặt nghĩ suy. Tất cả những thứ thờ cúng tôn giáo và đạo đức thế gian đều là những việc thiện tương đối, không phải là con đường chính đưa đến giải thoát, có chăng chỉ là bước đầu hoặc là nghiệp phụ trợ giúp hoàn thành việc giải thoát. Do đó, cái gọi là “biết Đại ngã, lễ Đại ngã” trong Áo Nghĩa Thư, không phải là cái biết, cái lễ như người thế gian gọi, mà thực chất là tương đồng với trạng thái “đại triệt đại ngộ” của Thiền tông Phật giáo.

    Cảnh giới giải thoát tuyệt đối không phải có thể đạt được trong ngày một ngày hai. Trước khi đạt tới cảnh giới này, phải trải qua một quá trình tu hành tuần tự thích hợp. Vì vậy, Ấn Độ giáo đem quá trình sống của con người chia làm 4 thời kỳ:

    a. Đời sống nghiên cứu độc thân thời thanh niên: tìm thầy học Veda và các pháp tế tự.

    b. Đời sống quản lý gia đình: kết hôn, sinh con, cúng thần, thờ tổ.

    c. Đời sống tu hành khổ hạnh nơi rừng núi: Qua thời trung niên, chuyên tu hành, tập thiền định.

    d. Đời sống đạo sĩ ẩn cư: những năm cuối đời, vân du hoằng đạo, khai hóa chúng sinh.

    Phương pháp tu hành đạo giải thoát là thiền định và yoga, đem thân và tâm tập trung lại một chỗ, lìa động trụ tịnh, quán sát bên trong. Phương pháp tu hành trọng yếu từ giữa thời kỳ Áo Nghĩa Thư trở về sau là: ở những nơi vắng bóng người như rừng núi, bờ sông, hang động... ngồi thẳng ngay ngắn, điều hòa hơi thở, đem tâm trụ vào một cảnh, niệm chữ Om - mật ngữ biểu trưng cho Đại ngã, khi đạt đến trạng thái xuất thần, thì cho rằng mình đã gần với Đại ngã - bản tính chân thực của tự ngã.

    TIẾT 4:TÔN GIÁO KINH THƯ THỜI ĐẠI VÀ HỌC PHÁI.

    Kinh Thư Phạn ngữ gọi là Sūtra, từ này có nguồn gốc từ chữ “siv” (đan, dệt), ý là dùng các câu đơn giản bao quát đại cương của giáo lý, giống như dùng chỉ để xâu hoa hay xỏ ngọc vậy.

    1. Kinh Thư

    Về niên đại của Kinh Thư, theo Max Müller là vào khoảng từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên. Nội dung của Kinh Thư tuy có pha trộn những tín ngưỡng và tư tưởng không có trong sách cổ nhưng về đại thể vẫn tuân theo chế độ và nghi thức của thời đại Phạm Thư. Thế nên, tuy là sản phẩm của thời đại học phái, nhưng Kinh Thư cũng là một bộ phận làm hình thành nên bộ Veda nghĩa rộng. Áo Nghĩa Thư là sự phát triển về mặt lý tưởng của Veda, còn Kinh Thư là sự ghi chép về mặt thực tế của Bà-la-môn giáo trong Veda. Vì vậy, nếu không nghiên cứu Kinh Thư, thì không thể hoàn toàn hiểu rõ về Bà-la-môn giáo.

    Phần Kinh Thư thuộc về Veda còn được gọi là Kalpa Sūtra, do 3 loại hợp thành là:

    a. Dharma Sūtra: Nội dung gồm có nghĩa vụ của 4 chủng tính, pháp quy của xã hội và quy định của đời sống thường ngày.

    b. Sruti Sūtra: Thuyết minh về những lễ cúng lớn do các quan cúng tế chủ trì.

    c. Grhya Sūtra: Thuyết minh về những nghi thức cúng tế trong gia đình do các gia trưởng chủ trì.

    Kết hợp cả 3 kinh trên lại là xem như chúng ta đã hoàn thành việc thuyết minh về mặt thực tế của Bà-la-môn giáo.

    2. Bốn chủng tính

    Bốn chủng tính là chế độ giai cấp của Bà-la-môn giáo. Nguồn gốc của 4 chủng tính là từ bài tán ca Purushasakta trong Rig-veda, Purushasakta nói rằng Brahmana (Bà-la-môn) sinh ra từ đầu, Kshatriya (Sát-đế-lợi) sinh ra từ vai, Vaishya (Phệ-xá) sinh ra từ đùi và Shudra (Thủ-đà-la) sinh ra từ chân của thần Brahmā. Qua Yajur-veda đến thời đại Phạm Thư, 4 chủng tính này trở thành chế độ xã hội. Nhưng trong Phạm Thư và Kinh Thư, yêu cầu đối với chủng tính Brahmana cũng rất cao. Ví dụ, trong lễ cúng, nếu có một vị Brahmana có tội thì buổi lễ sẽ không thành tựu; tư cách của một Brahmana là phải có giọng nói hay, hình tướng đoan chính, tuổi cao, có kiến thức, đạo đức và thiện hạnh; nếu Brahmana không học Veda, cũng không dạy Veda, thì chẳng khác gì với Shudra. Brahmana có 6 trách nhiệm là: học tập Veda, cúng tế cho mình, cúng tế cho người, truyền dạy Veda, tự hành bố thí, và tiếp nhận bố thí.

    Trách nhiệm của Kshatriya (vương tộc) là bảo vệ tài sản của nhân dân bằng quân đội và thi hành những chính sách tốt đẹp. Chính trị thời đó là lấy dân làm gốc, tiền thuế dùng vào việc bảo hộ nhân dân, cấp bổng lộc cho quan lại, cúng dường các bậc Sramana (Sa-môn), giúp đỡ người tàn phế, nuôi dưỡng gia tộc của những người bị chết vì chiến tranh; sau hết mới lấy phần còn lại dùng cho việc chi tiêu trong cung đình của quốc vương.

    Vaishya chính là bá tánh, trách nhiệm của chủng tính này là trồng trọt, buôn bán, chăn nuôi... Vaishya phải nộp thuế cho Kshatriya và phải cúng dường cho Brahmana.

    Ba chủng tính trên có quyền lợi về tín ngưỡng tôn giáo và được sinh lên trời sau khi chết, nên được gọi là “chủng tính tái sinh”; còn Shudra không có quyền lợi tín ngưỡng tôn giáo nên được gọi là “chủng tính nhất sinh”. Shudra là giai cấp nô lệ, không có một chút quyền lợi công dân nào. Theo quy định trong Dharma Sūtra, trách nhiệm duy nhất của chủng tính này là lao động để phục vụ cho ba chủng tính trên, không được phép có đời sống độc lập, và là những tiện dân không được tôn giáo cứu rỗi.

    3. Phụ nữ và hôn nhân

    Phụ nữ trong thời đại Rig-veda có địa vị ngang bằng với nam giới và có thể sống theo chế độ một vợ một chồng. Đến thời đại Yajur-veda, địa vị của phụ nữ đã bị hạ thấp, họ bị cho là bất tín, là ô uế, nhưng thời đại này vẫn giữ được phong tục tốt đẹp thời thái cổ là vợ chồng cùng chung sống, cùng thực hiện những nghi thức quan trọng nơi cúng tế. Đến thời đại Kinh Thư, phụ nữ chỉ còn ở địa vị phụ thuộc vào nam giới, mất đi quyền độc lập của mình, giống như phong tục “tam tòng” của Trung Quốc cổ đại vậy. Hơn nữa, Dharma Sūtra còn công nhận chủ nghĩa đa thê: “Chủng tính Brahmana có thể cưới 3 vợ, một người thuộc chủng tính Brahmana, một người thuộc chủng tính Kshatriya và một người thuộc chủng tính Vaishya. Chủng tính Kshatriya có thể cưới 2 vợ, một người thuộc chủng tính Kshatriya và một người thuộc chủng tính Vaishya. Chủng tính Vaishya và chủng tính Shudra được lấy 1 vợ thuộc chủng tính của mình”.

    Địa vị của phụ nữ hoàn toàn tương tự như địa vị giai cấp Shudra, Dharma Sūtra quy định tội giết chết phụ nữ ngang bằng với tội giết chết Shudra. Đàn ông kết hôn là vì mong có con trai nối dõi, nên “sau khi cưới vợ 10 năm mà không có thai, hoặc 20 năm mà chỉ sinh con gái, hoặc 15 năm mà sinh con trai đều bị vô sinh, thì phải bỏ người vợ này”[18].

    Tuy nhiên, Dharma Sūtra cũng có những chỗ rộng rãi với phụ nữ, cuốn Gautama Dharma Sūtra nói rằng: “Nếu người con gái đến tuổi thanh xuân, mà cha của cô không kiếm được chồng cho cô, sau 3 tháng, cô có quyền chọn lựa người chồng theo ý mình”. Đây chính là tự do hôn nhân.

    Baudhāyana Dharma Sūtra cũng rất phóng khoáng đối với tiêu chuẩn trinh tiết của phụ nữ: “Phụ nữ có phép khử uế riêng, kinh nguyệt hàng tháng có thể khử tội mà bản thân họ đã phạm phải”. Tức là nói: người vợ có thể thông dâm với người khác, chỉ cần không bị dính thai thì xem như vô tội.

    Yêu cầu đối với quả phụ cũng không khắt khe lắm, Gautama Dharma Sūtra và Baudhāyana Dharma Sūtra đều nói: “Trong vòng 1 năm sau khi người chồng mất, phải bỏ những thứ như rượu, thịt, mật, muối... và ở kín trong nhà vách đất. Sau 1 năm, nếu muốn có con, có thể sinh 2 đứa con trai với anh em hoặc thân tộc của người chồng đã mất”. Gautama Dharma Sūtra còn nói: “Nếu người chồng đi quá 6 năm mà vẫn bặt vô âm tín, người vợ không có tội khi thông dâm với người khác”.

    4. Đời sống là cúng tế

    Căn cứ vào quy định của Kinh Thư thì một đời con người chẳng qua chỉ là lịch trình thực hiện các lễ cúng tế theo thứ tự sắp sẵn. Mỗi ngày có lễ cúng của mỗi ngày, mỗi tháng có lễ cúng trăng non và trăng rằm, mỗi năm có lễ cúng theo thông lệ, trong một năm còn có rất nhiều lễ cúng không chính thức, có cả những lễ cúng nhiều năm tổ chức một lần, trong một đời lại còn nhiều lễ cúng định sẵn. Một trong ba cương lĩnh lớn của Bà-la-môn giáo chính là “chủ nghĩa cúng tế vạn năng”, rời xa việc cúng tế, đời sống của họ xem như chấm dứt! Nếu muốn phân loại các lễ cúng, có thể chia làm hai loại lớn: lễ cúng gia đình và lễ cúng thiên khải.

    Lễ cúng gia đình bao gồm những nghi thức cúng tế từ khi con người ở trong thai cho đến khi từ giã cõi đời, ở đây đơn cử vài loại lễ như sau:

    a. Lễ thụ thai: Cử hành sau khi vợ chồng cưới nhau và muốn có thai.

    b. Lễ thành trai: Cử hành khi mang thai được 3 tháng để hy vọng sinh được con trai.

    c. Lễ phân phát: Cử hành 1 tháng sau lễ thành trai.

    d. Lễ ra thai: Lễ cúng do cha mẹ cùng cử hành khi lâm bồn, khi sinh, sau khi sinh và khi cắt dây rốn.

    e. Lễ đặt tên: Lễ cúng thường được cử hành sau khi sinh 10 ngày.

    f. Lễ ra ngoài: Cử hành 4 tháng sau khi sinh, lúc đứa trẻ đi qua ngưỡng cửa cùng cha mẹ ra ngoài lần đầu tiên.

    g. Lễ cho ăn: Cử hành 6 tháng sau khi sinh, lúc cho đứa trẻ ăn thức ăn lần đầu tiên.

    h. Lễ kết tóc: Cử hành khi đứa trẻ kết thúc thời kỳ sơ sinh bước vào thời kỳ nhi đồng.

    i. Lễ cạo tóc: Cạo bỏ tóc ở 4 bên đầu, cử hành khi kết thúc thời kỳ nhi đồng bước vào thời kỳ trưởng thành.

    j. Lễ nhập pháp: Lễ này mở đầu cho thời kỳ đầu tiên trong 4 thời kỳ của một đời người. Brahmana 8 đến 16 tuổi, Kshatriya 11 đến 22 tuổi, Vaishya 20 đến 24 tuổi là thời kỳ gia nhập đầy đủ vào cộng đồng tin theo giáo pháp Bà-la-môn. Nếu trong thời kỳ này không làm lễ nhập pháp thì sẽ bị mất đi quyền lợi tôn giáo và cũng mất đi đặc quyền của chủng tính tái sinh.

    k. Lễ về nhà: Lễ cúng cử hành trước khi học xong, chuẩn bị từ nhà thầy trở về nhà mình.

    l. Lễ kết hôn: Đại lễ cử hành tại tư gia sau khi đi học trở về.

    Ngoài ra, còn phải cử hành lễ cúng trăng non, lễ cúng trăng rằm, lễ cúng định kỳ vài tháng một lần và lễ cúng tổ tiên.

    Về cách an táng người chết thì chia làm 5 loại: hỏa táng, thủy táng, mai táng, vứt bỏ và phơi nắng.

    Lễ cúng gia đình do gia trưởng làm người chủ lễ, lễ cúng thiên khải thì người chủ lễ là các quan cúng tế chuyên môn; lễ cúng gia đình chỉ dùng một ngọn lửa, lễ cúng thiên khải thì dùng 3 ngọn lửa: lửa gia chủ, lửa cúng dường và lửa cúng tổ tiên. Lễ cúng thiên khải lại chia thành lễ cúng dường và lễ Soma.

    a. Lễ cúng dường: Lễ này bao gồm lễ đặt lửa, lễ cúng lửa, lễ cúng trăng non, lễ cúng trăng rằm, lễ dâng bánh tổ tiên, lễ bông lúa mới, lễ bốn tháng một lần, lễ hiến cúng thú vật...

    b. Lễ Soma: Tất cả các lễ lớn ngoài lễ cúng dường đều gọi là lễ Soma. Ví dụ lễ dâng rượu soma, lễ kế vị, lễ tế ngựa, lễ dâng trà sữa, lễ đàn tế lửa, lễ tế người, lễ dâng cúng tất cả... Trong đó, lễ tế ngựa là đại lễ của Bà-la-môn giáo, nếu như một vị quốc vương nào đó có dã tâm muốn chinh phục bốn phương thì cử hành lễ tế này. Đầu tiên, vua chọn ra một con ngựa dùng làm vật hiến tế, sau khi tắm sạch và làm phép, sẽ phái các vệ sĩ thiếu niên dòng dõi quý tộc, thả ngựa đi bốn hướng đông, tây, nam, bắc, mỗi hướng 1 năm, để mặc cho ngựa tùy ý đến lãnh thổ của các nước lân cận ăn cỏ. Những nước mà ngựa đi qua, nếu nước nào tự biết mình không đủ sức đối đầu với nước đã thả ngựa thì phải đưa tinh binh của mình gia nhập vào đội ngũ hộ vệ ngựa, để biểu thị thừa nhận quyền thống trị của nước tế ngựa đối với nước mình; nếu nước nào không thừa nhận điều đó thì xuất binh chống lại, giữa hai nước sẽ xảy ra chiến tranh. Còn về lễ tế người, có thể thời thái cổ ở Ấn Độ từng dùng người làm vật hiến tế, nhưng đến thời đại Phạm Thư, đã đổi sang dùng các loại lúa để thay thế. Cái gọi là lễ dâng cúng tất cả, nghĩa là đem tất cả tài sản, vợ con, quyến thuộc... dâng cúng cho thần và người khác, phần mình thì vào núi ẩn cư. Trên thực tế, phàm là những người ở ẩn lánh đời, đa số đều từng làm lễ dâng cúng tất cả này.

    5. Sự hưng khởi và phát triển của các học phái

    Vào cuối thời kỳ Áo Nghĩa Thư, do cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài, đã xuất hiện rất nhiều học phái theo chủ nghĩa phi Bà-la-môn. Sự hưng khởi của những tư tưởng học phái này, nhìn từ bên trong, vốn lấy Áo Nghĩa Thư làm nguyên động lực, nhưng cũng nhờ cả sự nổi lên của những tín ngưỡng tiềm tàng trong dân gian; còn nhìn từ bên ngoài, thì hình thành từ sự độc lập của rất nhiều trào lưu tư tưởng xuất hiện theo từng địa phương khác nhau.

    Căn cứ vào nghiên cứu của Deussen và các học giả khác, những học phái ra đời kế tục Áo Nghĩa Thư Mới thời đó có thể chia làm 5 trào lưu lớn là: chủ nghĩa Vedānta thuần túy, chủ nghĩa Yoga, chủ nghĩa Shiva, chủ nghĩa Vishnu và chủ nghĩa ở ẩn. Trong đó, chủ nghĩa Shiva và chủ nghĩa Vishnu là những học phái phát triển ngoài lề Áo Nghĩa Thư Cổ và hùa theo tư tưởng hữu thần. Ngoài 5 trào lưu lớn kể trên, còn có Phật giáo, Kỳ-na giáo, phái Nyāya... Những trào lưu này không có liên hệ gì đến tư tưởng của Áo Nghĩa Thư Mới.

    Trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy, tuy có nói rõ tư tưởng của thời đại lúc đức Phật còn tại thế, nhưng lại không nhắc đến các trào lưu tư tưởng lớn đương thời, thậm chí cả cái tên Áo Nghĩa Thư cũng không thấy nhắc tới; nhưng nếu nghiên cứu niên đại của Áo Nghĩa Thư Cổ, thì đích thực là nó có từ trước thời đức Phật. Mặc dù các học giả Phật giáo Trung Quốc và Nhật Bản nhận định rằng một số học phái xuất hiện sớm hơn Phật giáo, như phái Samkhya, phái Vaisheshika, phái Nyāya... nhưng từ sử liệu của Phật giáo nguyên thủy, cũng khó mà chứng minh được sự tồn tại của những học phái này. Đây là vấn đề rất khó giải thích.

    6. Bốn trào lưu tư tưởng lớn đầu thời đại học phái

    Trên thực tế, trước và sau thời đức Phật, cũng chính là khoảng thời gian 200 đến 300 năm đầu thời đại học phái, tư tưởng ở Ấn Độ vô cùng hỗn loạn, đại khái có thể phân làm 4 trào lưu lớn:

    a. Bà-la-môn giáo chính thống: Bà-la-môn giáo vào thời kỳ này, một mặt chịu sự bức bách của việc phân hóa thành các học phái, một mặt phải xúc tiến thực hiện những điều cần thiết để đương đầu với các giáo phái mới, nên đã biên soạn ra vài bộ sách tôn giáo có tính hệ thống. Kinh Gia Đình, Kinh Thiên Khải, Kinh Pháp... là sản phẩm của thời kỳ này.

    b. Tư tưởng hữu thần của tập tục, tín ngưỡng: Trong trào lưu hữu thần, tác phẩm có tính đại biểu là sử thi Mahābharata (Đại Chiến Thư), đặc biệt cuốn Bhagavad-gītā (Chí Tôn Ca) trong bộ Mahābharata là đỉnh điểm của trào lưu tư tưởng này. Trong thời kỳ đó, nhiều thần từ thời đại Veda đã được biến đổi, ví dụ: thần sấm sét Indra đổi thành vua trời Đao-lợi, một vua trời vũ dũng và hưởng thụ nhiều thê thiếp; thần rượu Soma thì biến thành thần mặt trăng... Ngoài ra, còn tăng thêm những vị thần mà thời đại Veda chưa có, ví dụ như: thần ban phước - vua trời Vaisravana, thiên nữ may mắn Lakshmī... Các thần trung tâm của thời kỳ này có 3 vị: một là Vaishnava (Vishnu), là vua trời Nārāyana (trời Na-la-diên); hai là Saiva (Shiva), là vua trời Mahesvara (trời Đại tự tại); ba là Phạm thiên trung tính và Phạm thiên nam tính hóa (Brahmā). Trong 3 vị thần này, người ta đặc biệt sùng bái 2 thần Vishnu và Shiva. Vào thời đại Phạm Thư trước đây, Vishnu, Shiva và Brahmā vốn được xem là đấng sáng thế ba thân một thể.

    c. Trào lưu triết học: Năm trào lưu lớn xuất phát từ Áo Nghĩa Thư Mới nêu ra bên trên thịnh hành vào thời kỳ này; sự hưng khởi của phái Samkhya, phái Yoga, phái Vaisheshika và phái Nyāya trong 6 phái triết học cũng bắt đầu vào thời kỳ này.

    d. Đoàn thể Sa-môn phản đối Veda: Từ trong kinh điển của Phật giáo chúng ta biết được rằng những giáo phái phản đối chủ nghĩa Bà-la-môn này phát triển mạnh ở vùng đất thuộc nước Magadha tại bờ đông và hạ lưu sông Hằng. Sáu thầy ngoại đạo thường được nhắc đến trong kinh Phật chính là chỉ người đứng đầu của các giáo phái này. Họ chủ trương chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa khổ hạnh. Điều cần nói ở đây là, Bà-la-môn giáo dĩ nhiên là có những chỗ đáng để phản đối, nhưng sự phản đối Bà-la-môn giáo một cách cực đoan của sáu thầy ngoại đạo, cũng chưa hẳn là niềm hạnh phúc của chúng sinh, chỉ đến khi đức Thế Tôn Thích-ca xuất hiện và tuyên dương Phật giáo với chủ nghĩa trung đạo thì mới đem lại cho chúng sinh hạnh phúc thật sự.

    7. Những tư tưởng chung của thời đại học phái

    Điểm đầu tiên cần nói tới là, tất cả các học phái không phái nào không lấy lìa khổ đau, đạt giải thoát làm mục đích. Tư tưởng giải thoát phát triển từ vấn đề sinh mạng của bản ngã.

    Đối với cách nhìn về khí thế gian (tức vũ trụ vật chất), từ Áo Nghĩa Thư Taittiriya (một loại Áo Nghĩa Thư Cổ) đến nay, người ta cho rằng có 5 nguyên tố cấu thành nên khí thế gian là: đất, nước, lửa, gió và không gian. Thuyết “bốn đại” trừ nguyên tố “không gian” ra chính là kiến giải chung của các học phái.

    Xét về chủng loại và hình dạng của thế giới, Áo Nghĩa Thư Taittiriya nói rằng: phía trên và phía dưới của vũ trụ đều bao bọc bởi nước, trong vũ trụ chia làm 3 cõi, ngoài 3 cõi còn có các thần bảo hộ mặt trời, mặt trăng... Thời đại học phái vẫn giữ nguyên tên gọi của 3 cõi này và đưa ra thêm những lời giải thích. Phật giáo cũng không ngoại lệ.

    Trung tâm của thế giới ở đâu? Theo Mahābharata thì: thế giới như một đóa hoa sen, trung tâm có núi Sumeru (Tu-di) cao đến tận cõi trời, thần Brahmā ngồi trên đỉnh núi và tạo ra vạn vật. Các học giả Phật giáo cũng lấy núi Sumeru làm trung tâm của thế giới. Núi nằm trong 8 biển, 4 phương có 4 châu, mặt trời và mặt trăng quay quanh núi, loài người sống trên 4 châu ở phía đông, tây, nam và bắc. Núi Sumeru thực ra là cách giải thích mang tính thần thoại cho những khảo sát về địa lý của người Ấn Độ thời đại học phái. Phía bắc Ấn Độ có núi Himalaya, họ cho rằng nó là trung tâm của thế giới; vì địa lý của Ấn Độ có hình một bán đảo lớn, nước biển bao bọc 3 mặt, nên họ cho rằng thế giới là ở trong nước; lại vì Ấn Độ nằm về phía nam núi Himalaya, nên họ bèn tự cho là mình ở châu phía nam, và tự xưng Ấn Độ là xứ Nam Jambudvīpa (Nam Diêm-phù-đề). Kỳ thực, loại kiến thức địa lý này rất ấu trĩ, nhưng con người thời đó cũng chỉ có thể giải thích nửa thực tế, nửa thần thoại như thế mà thôi.

    Trên quan điểm về thời gian, Bộ Luật Manou và Mahābharata đem một vòng tuần hoàn của xã hội loài người, căn cứ trên quan hệ giữa đạo đức và thọ mạng, chia làm 4 thời kỳ, gọi là: thời kỳ bốn điểm, con người thọ 400 tuổi; thời kỳ ba điểm, con người thọ 300 tuổi; thời kỳ hai điểm, con người thọ 200 tuổi; và thời kỳ một điểm, con người thọ 100 tuổi. Sự kéo dài của thời gian mỗi thời kỳ theo thứ tự 4 điểm trên lần lượt là 4000 năm, 3000 năm, 2000 năm và 1000 năm. Tuần hoàn như vậy 4000 lần là tương đương với 1 ngày của Brahmā. Khi Brahmā đi ngủ, thế giới sẽ tàn hoại, tiếp tục một khoảng thời gian như vậy nữa, Brahmā tỉnh dậy, thế giới lại được thành lập. Các học giả Phật giáo thì đem thời gian phân thành 4 kiếp là: thành, trụ, hoại, không; lấy 4 kiếp làm 1 đại kiếp, tức 1 vòng tuần hoàn. Quan niệm tuy hơi khác, nhưng nhìn chung, cũng gần như thống nhất với ngoại đạo. Vì tư tưởng hệ thống thời gian - không gian trên hoàn chỉnh vào thời đại Phật giáo bộ phái sau này nên tôi cho nó là ý kiến của các học giả Phật giáo chứ không phải là tri kiến của đức Phật.

    8. Hai bộ đại sử thi

    Chúng ta biết rằng, sau khi người Āryan tiến vào Ấn Độ và chinh phục xong dân tộc bản xứ, để duy trì quyền lợi ưu việt mà mình đạt được, họ đã sáng lập nên chế độ giai cấp. Vì người Āryan đương thời lấy tăng lữ làm giai cấp lãnh đạo xã hội, nên đã rêu rao câu chuyện thần thoại rằng: “Từ miệng Brahmā sinh ra Brahmana (tăng lữ), từ vai Brahmā sinh ra Kshatriya (vua quan, chiến sĩ), từ đùi Brahmā sinh ra Vaishya (bình dân) và từ chân Brahmā sinh ra Shudra (tiện dân, nô lệ)”. Do đó, trong văn học Veda, chỗ nào cũng đặt giai cấp Brahmana ở vị trí tối cao.

    Nhưng sau khi người Āryan di cư đến lưu vực sông Hằng, tiếp xúc, giao lưu với văn hóa của người Dravidian bản địa, liền bắt đầu có thái độ thẩm tra đối với tư tưởng Veda, họ nâng giai cấp Kshatriya lên cao hơn giai cấp Brahmana, hoặc chí ít là xem như bình đẳng. Từ đó, đã ra đời hai bộ sử thi lấy giai cấp vua chúa, chiến sĩ làm trung tâm, chính là Mahābharata và Rāmāyana. Hai bộ sách này tiếp thu gốc rễ của tư tưởng Veda, cộng thêm nguồn tư liệu từ tín ngưỡng dân gian, đem chúng dung hợp lại với nhau, dùng thể tài sử thi để kể lại tình trạng xã hội Ấn Độ cổ đại. Thật đúng như người dịch hai bộ sử thi này ra tiếng Anh Romesh C. Dutt đã nói: “Hai bộ sử thi hiển thị cho chúng ta bức tranh sắc nét và sinh động nhất về văn minh và văn hóa, đời sống chính trị và đời sống xã hội, cùng tôn giáo và tư tưởng đã từng tồn tại ở Ấn Độ cổ đại”. Chúng đại biểu cho mô thức tư tưởng của các vua chúa và chiến sĩ đương thời, cũng đại biểu cho khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo phổ biến ở Ấn Độ lúc đó. Thời đại hai bộ sử thi này xuất hiện vừa đúng vào khoảng thời gian mà đức Phật đang giáo hóa thế gian.

    Mahābharata dịch thành “Đại Chiến Thi” hoặc “Đại Chiến Thư”, còn giải thích theo nghĩa chữ là “Đại Ấn Độ”, “Mahā” là “đại”, còn “Bharata” là cách người Ấn tự gọi toàn bộ lãnh thổ của họ. Đây là bộ trường thi đầu tiên của thế giới, tổng cộng có 18 tập, 10 vạn câu, 20 vạn dòng, nếu lấy 2 bộ sử thi Iliad và Odyssey của Hy Lạp cộng lại cũng không quá 1/7 của Mahābharata. Câu chuyện trong Mahābharata bắt nguồn từ tư tưởng kỳ thị giai cấp: Có hai vị anh hùng võ nghệ ngang tài ngang sức là Karna và Arjuna, vốn cùng một mẹ sinh ra. Karna là con trai một người đánh xe, còn Arjuna là một hoàng tử. Trong một cuộc thi võ thuật lớn, Karna vì là con của người đánh xe nên không được cho tham dự, Arjuna thì giành được giải quán quân một cách thuận lợi. Lại một lần nọ, trong hội kén chồng của công chúa Draupadi, Karna tuy có đủ khả năng thực hiện thử thách của công chúa với tuyệt kỹ võ nghệ của mình, nhưng Draupadi lại ngay trước mặt mọi người tuyên bố nàng không chịu gả cho con trai của một kẻ đánh xe như Karna, kết quả là Arjuna được chọn làm phò mã. Vì vậy, hai anh em ruột trở thành oan gia một mất một còn, dấy khởi nên trận đại chiến huy động đến hàng chục nước lớn nhỏ trên toàn cõi Ấn Độ. Kết quả trận đại chiến 18 ngày ở xứ Kuruksetra là Karna vẫn phải chết dưới tay Arjuna.

    Theo giáo sư Mac Donell - nhà Đông Phương học người châu Âu và các học giả khác thì thời kỳ xảy ra trận đại chiến là vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên. Có một số nhà Ấn Độ học lại nói là vào khoảng 1300 năm trước Công nguyên. Theo truyền thuyết, tác giả của bộ sách này là tôn giả Vyasa, ban đầu nó được truyền miệng, cuối cùng mới sử dụng Phạn văn chép lại. Trên thực tế thì bộ sách này được hoàn thành qua một thời gian dài với sự nỗ lực của rất nhiều người. Vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên, có thể nó vẫn chỉ gồm những bài ca truyền miệng ngắn, hơn nửa trong số đó là những bài chiến ca hoặc chiến sử không liên quan gì đến nhau. Đến khoảng 300 năm trước Công nguyên, các tăng lữ mới đem các vị thần và những câu chuyện thần thoại mà họ tin theo thêm vào bộ sách để nâng cao địa vị tôn giáo của họ. Đến năm 350, họ lại tiếp tục thêm vào những lời dạy về đạo đức, làm cho bộ sử thi trở nên phổ biến đến mọi tầng lớp và được gọi bằng mỹ hiệu là “Veda thứ năm”. Nhân vật Krishna trong Mahābharata có trí tuệ trác việt, đã có người đem Krishma sánh với Gia Cát Lượng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, vì thế Krishma cũng được Ấn Độ giáo xem là hóa thân của thần Vishnu.

    Rāmāyana dịch ra là: “Những cuộc du hành của Rāma”, tổng cộng có 7 tập, 24 ngàn câu, 48 ngàn dòng. Nguồn gốc của bộ sách này sớm hơn cả Mahābharata. Vào 500 năm trước Công nguyên, một câu chuyện đơn giản về chàng Rāma đã được hoàn thành, nhưng đến sau khi đại đế Alexander xâm lược Ấn Độ vào năm 326 trước Công nguyên, câu chuyện này vẫn đang tiếp tục được bổ sung.

    Rāmāyana kể lại chuyện du hành trong một đời của hoàng tử Rāma ở đất nước Kosala: Chàng vì tuân thủ lời hứa của phụ vương mà chịu đi đày vào rừng ở miền nam Ấn Độ trong 14 năm, người vợ chung thủy của chàng là nàng Sita cũng đi cùng chàng. Một ngày nọ, vua của đảo quốc Lanka đã lừa bắt Sita đem về làm vợ, vì thế nổ ra chiến tranh. Sau được sự giúp đỡ của thần khỉ Hanuman, Rāma đã vượt biển đánh hạ Lanka cứu Sita trở về. Câu chuyện này cũng thấy có trong kinh điển Phật giáo. Ví dụ như trong Kinh Bổn Sinh Của Vua Dasaratha[19] bản tiếng Pali và Kinh Nhân Duyên Của Vua Dasaratha bản tiếng Hán, đều ghi chép lại chuyện Rāma bị đi đày; còn trong Kinh Vị Vua Không Biết Họ Tên bản tiếng Hán nói rằng có một vị quốc vương bị đi đày, vương phi của ông bị một con rồng tà ác cướp đem ra hải đảo, nhờ sự giúp đỡ của một chú khỉ mà ông vác đá lấp biển, trị được bệnh bằng thuốc trời, và giết rồng đoạt lại vợ mình. Hai bản ghi chép này có thể là cốt truyện đầu tiên của Rāmāyana.

    Krishna và Rāma đồng thời được Ấn Độ giáo xem là hóa thân của Vishnu, nhưng sự giáo huấn và những điều thần kỳ của Krishna suy cho cùng không làm người ta cảm động sâu sắc như câu chuyện về nhân cách của Rāma. Cho nên, đến nay, trong dân gian Ấn Độ, Rāma được sùng bái nhiều hơn Krishna; thậm chí, chính phủ Ấn Độ mỗi năm đều phải tổ chức lễ hội Rāma.[20]

    TIẾT 5: NỘI DUNG CỦA ẤN ĐỘ GIÁO

    1. Lịch sử của Ấn Độ giáo

    Ấn Độ giáo[21] chính là Bà-la-môn giáo mới. Vào khoảng trước và sau thời đại đức Phật, do sự kích thích của tín ngưỡng dân gian và những tư tưởng mới nổi, Bà-la-môn giáo hữu thần dần biến đổi thành Ấn Độ giáo.

    Lịch sử của Ấn Độ giáo đại khái có thể chia làm 6 thời kỳ:

    Thời kỳ thứ nhất (từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến thế kỷ thứ II sau Công nguyên): Là thời đại thuyết hữu thần được phục hưng trở lại. Sự phục hưng này nhờ vào sức ảnh hưởng của hai bộ đại sử thi Rāmāyana và Mahābharata, chúng đã nâng cao địa vị của các thần Brahmā, Vishnu và Shiva. Lại có Áo Nghĩa Thư đem Đại ngã và Shiva, thần linh và anh hùng Krishna, xem là một thể, hình thành nên tín ngưỡng sùng bái một vị thần được nhân cách hóa duy nhất và tuyệt đối.

    Thời kỳ thứ hai (từ năm 200 đến năm 500): Có sự ra đời của phái Vaishnava, phái Saiva, phái Brahmā... Từ những tư liệu của Phật giáo, chúng ta biết được rằng phái Vaishnava và phái Saiva, đã xuất hiện vào thời đại Nāgārjuna (150 - 250), vì trong Trung Luận và trong Bách Luận của Deva (đệ tử của Nāgārjuna) đã đề cập đến tín ngưỡng của hai giáo phái này.

    Thời kỳ thứ ba (từ năm 550 đến năm 900): Shankaracharya trên cơ sở triết học của phái Vedānta đã hoàn chỉnh giáo lý Ấn Độ giáo. Phái Saiva và phái Vaishnava cũng cực thịnh vào thời kỳ này. Từ trong Đại Đường Tây Vực Ký chúng ta biết được rằng, thời gian Huyền Trang lưu lại Ấn Độ, các nước ở xứ Ấn Độ phần đông tin thờ thần Shiva và thần Vishnu. Trong những năm Khai Nguyên đời Đường Huyền Tông (713 - 741), Mật tông được truyền vào Trung Quốc bởi Vajrabodhi và Amoghavajra cũng có thuyết hàng phục Shiva. Tín ngưỡng sùng bái nữ thần của phái Sākta, một dòng khác của phái Saiva, cũng hưng khởi trong thời kỳ này.

    Thời kỳ thứ tư (khoảng năm 900 đến năm 1300): Là thời kỳ các nhà thơ tôn giáo người Tamil phổ biến những nội dung trọng tâm trong tín ngưỡng tôn giáo của họ.

    Thời kỳ thứ năm: Thời đại Hồi giáo ảnh hưởng lên Ấn Độ giáo.

    Thời kỳ thứ sáu: (năm 1800 trở về sau): Là thời đại Cơ Đốc giáo ảnh hưởng lên Ấn Độ giáo.

    Quyển sách này không thể giới thiệu tường tận những giáo phái, những thời kỳ của Ấn Độ giáo, chỉ có thể thuyết minh tóm tắt các phần quan trọng và các phần có liên quan đến Phật giáo của Ấn Độ giáo mà thôi. Tài liệu tham khảo sử dụng để viết những mục dưới đây lấy từ cuốn Lịch Sử Tôn Giáo Ấn Độ của Masaharu Anesaki, Tôn Giáo Ấn Độ của Hisao Sakai, Truyện Sử Ấn Độ và Hai Bộ Đại Sử Thi Ấn Độ của Mi Văn Khai.

    2. Ba vị thần lớn của Ấn Độ giáo

    Ấn Độ giáo là sự cách tân của tín ngưỡng Veda, cũng là sự phục sinh của Bà-la-môn giáo. Trước thời vua Asoka, Phật giáo đã nổi lên chiếm lĩnh địa vị của Bà-la-môn giáo. Sau đó, Bà-la-môn giáo hấp thu những ưu điểm của Phật giáo cùng những yếu tố tín ngưỡng dân gian, phục hưng và phát triển thành Ấn Độ giáo.

    Những thứ Ấn Độ giáo đã hấp thu từ Phật giáo là: lý luận triết học, nghi lễ tôn giáo, kiến trúc tự viện, điêu khắc tượng và hội họa, cùng việc hành hương và tu bổ thánh tích. Những thứ này trong Bà-la-môn giáo trước thời Phật giáo, đặc biệt là về mặt nghệ thuật, vô cùng nghèo nàn.

    Ấn Độ giáo cũng đã hấp thu từ tín ngưỡng dân gian các nhân vật anh hùng trong Rāmāyana và Mahābharata, các nhân vật này được dung hòa với tín ngưỡng của Ấn Độ giáo bằng cách cho họ là hóa thân của thần linh và sùng bái họ. Từ việc sùng bái các anh hùng dân gian và việc tiếp nhận quan niệm hóa thân của Phật giáo, đưa đến kết quả là trong Ấn Độ giáo đã xuất hiện tín ngưỡng một thần hóa hiện ba thân, cho thần Brahmā của Bà-la-môn giáo có 3 thân phận khác nhau là: Brahmā (Phạm thiên) - thần sáng tạo vũ trụ, Vishnu (Na-la-diên thiên) - thần bảo hộ vũ trụ và Shiva (Đại tự tại thiên) - thần hủy diệt vũ trụ. Tính năng của ba vị thần lớn này mỗi vị mỗi khác, nhưng bản thể là một, tức từ bản thể nhất nguyên tạo ra ba loại hiện thân khác nhau. Các thần từ thời đại Veda đến nay đều bị giáng xuống làm thuộc hạ của ba vị thần lớn kể trên. Loại tín ngưỡng ba ngôi một thể này có phần giống với quan niệm Chúa Thánh Linh, Chúa Cha và Chúa Con của Cơ Đốc giáo; Vishnu và Shiva ở vị trí Chúa Thánh Linh, Brahmā ở vị trí Chúa Cha, các nhân vật anh hùng hóa thân ở vị trí Chúa Con. Nhưng về sau, tín đồ Ấn Độ giáo bắt đầu tách Vishnu và Shiva ra sùng bái độc lập, do đó Ấn Độ giáo phân chia thành hết giáo phái này đến giáo phái khác.

    Brahmā vốn là vị thần tối cao của Ấn Độ từ cổ chí kim. Đến thời Ấn Độ giáo lại hình thành một câu chuyện thần thoại mới về vị thần này, đem Ngài đặt vào vị trí trung tâm của vũ trụ, và lấy 2 vị thần khác làm đối tượng để sùng bái. Cộng thêm việc sùng bái các anh hùng dân gian, những chuyện thần thoại về 2 vị thần này cũng ngày càng gần gũi với quần chúng. Xuất phát từ chuyện tình yêu của những anh hùng, đã hình thành nên sự sùng bái các nữ thần là vợ của thần linh. Ramā trong Rāmāyana và Krishna trong Mahābharata đều được xem là hóa thân của thần bảo hộ Vishnu. Những nhân vật nữ chính trong hai bộ sử thi - Sita và Savitri, Damayanti và Draupadi, tự nhiên cũng trở thành những nữ thần được sùng bái. Hai bộ đại sử thi đều vô cùng xem trọng tình yêu vợ chồng, sự trung trinh và hiền thục của người phụ nữ, cũng như sự yêu thương lẫn nhau của nam nữ thanh niên. Ví dụ, chuyện chàng mục đồng Krishna yêu một nàng thiếu nữ, hay chuyện tuần trăng mật của Ramā và Sita... Những chuyện này hoặc là đau buồn, cảm động, hoặc là đẹp đẽ, nhẹ nhàng, nhưng đều biểu đạt tư tưởng lưu luyến thế tục. Vì vậy, trong các giáo phái của Ấn Độ giáo sau này, dĩ nhiên vẫn có những người tu khổ hạnh, nhưng đa phần thầy tu lại là người có nhà cửa, có gia đình.

    Tư tưởng hóa thân nói trên bắt nguồn từ Phật giáo. Trong Kinh Bổn Sinh, đức Phật nói khi Ngài tu Bồ-tát đạo trong các kiếp quá khứ, từng hóa hiện đủ các thân phận và các loại hình; sau khi Ấn Độ giáo hấp thu giáo lý Phật giáo liền có truyền thuyết thần Vishnu hóa hiện ra đủ loại thân tướng khác nhau. Ví dụ, trong tập 14 của Mahābharata nói rằng Vishnu từng hóa thành lợn rừng, nhân sư, người lùn, cá, Ramā, Krishna... Những ghi chép ở các chỗ khác cho thấy, thậm chí ngay cả đức Phật cũng bị nói là một trong những hóa thân của thần Vishnu và tượng Phật cũng trở thành đối tượng được tín đồ Ấn Độ giáo sùng bái. Những quan niệm từ bi, khoan dung, bình đẳng trong Phật giáo, cũng đã được Ấn Độ giáo hấp thu, cuối cùng làm cho Phật giáo bị hòa lẫn vào Ấn Độ giáo và dần đi đến tiêu vong.

    3. Thánh kinh Purana và các thần của Ấn Độ giáo

    Giáo lý và thần thoại của Ấn Độ giáo, từ sau thời Phật giáo, đã dần được hình thành. Đến khoảng thế kỷ thứ II, thứ III, có một bộ thánh kinh mới được biên soạn, gọi là thánh kinh Purana, tổng hợp và hoàn thiện từ những chuyện thần thoại trong hai bộ đại sử thi, từ bộ luật của Ấn Độ giáo và từ các truyền thuyết và tập quán khác. Nội dung của nó được một học giả thế kỷ thứ IV phân thành 5 bộ phận:

    a. Vũ trụ luận về sáng tạo thế giới (Sarga)

    b. Sự duy trì, hủy diệt thế giới và niên đại của nó (Prati-sarga)

    c. Hệ thống các thần và giáo chủ (Vamsa)

    d. Các thời kỳ của Manu (Manvantara)

    e. Lịch sử và con cháu của hai chủng tộc Mặt trời và Mặt trăng (Vamsanucarita).

    Purana hiện nay đã bị người đời sau thay đổi đi nhiều, nên những ghi chép của nó chỉ còn liên quan đến 3 vị thần Brahmā, Vishnu, Shiva và được chia làm 3 loại.

    Purana cho rằng thế giới hình thành là do Brahmā bị Vasudeva làm cho si ám, nên mới tạo ra thế giới của Brahmā và cử 7 người con trai của mình làm giáo chủ, quản lý sự sinh sản của con người và sự thành hoại của thế giới. Trung tâm của thế giới này là núi Sumeru. Xung quanh cõi Jambudvipa (Diêm-phù-đề) mà chúng ta đang sinh sống còn có 8 ngọn núi khác ngăn cách với bên ngoài, phía ngoài lại có biển muối, biển đường bao bọc. Vũ trụ này do 7 lục địa và 7 biển khơi bao quanh như vậy tạo thành. Nhìn lên không trung thì có 7 tầng trời, cao nhất là trời Vaikuntha - nơi cư trú của thần bảo hộ vũ trụ Vishnu; nhìn xuống dưới đất thì có 7 tầng thế giới, phía dưới thế giới dưới đất là 21 tầng địa ngục.

    Trên trời có vô số thần linh, hoặc hình người, hoặc hình cầm thú, đi lại trong không trung, mỗi thần hưởng sự vui sướng ở cõi trời tùy theo quả báo của mình. Họ có rất nhiều tay, có thân nhưng không có bóng. Mắt họ không bao giờ chớp, quần áo, trang sức lộng lẫy và không khi nào cũ hỏng. Họ có thể tự tại biến hóa thành rất nhiều hình thái khác nhau dù chỉ có một thân.

    Vị thần ở địa vị tối cao trên cõi trời là Indra - chủ nhân thành Sudarsana, còn gọi là trời Đế Thích, Indra cùng chung sống tại tòa thiên cung cao nhất với vợ là Indrani. Tại đó, trụ cột đều dùng châu ngọc để chạm trổ, các hàng cây bằng 7 thứ châu báu nối tiếp nhau thành rừng, âm nhạc vi diệu và đồ ăn thức uống tuyệt hảo tràn đầy khắp nơi, ngàn vạn mỹ nữ và các thiên thần như Kimnara, Gandharva, Garuda... đi dạo vòng quanh.

    Kimnara là một loài chúng sinh có mình người đầu ngựa, ca hay hát giỏi, nên làm thần ca hát trên cõi trời. Loài nữ được gọi là Kimnarī, trong kinh Phật nói rằng họ rất đẹp.

    Gandharva là thần âm nhạc, là người chơi nhạc trên cõi trời. Gandharva ngửi được hương thơm, giỏi diễn tấu nhạc, rành kỹ năng múa. Vợ của Gandharva là thiên nữ Apsaras, xinh đẹp và giỏi múa.

    Garuda là thần nửa người nửa chim, thường gọi là Chim cánh vàng, hay được Indra và Vishnu sai bay đi các nơi chiến đấu với kẻ địch. Giết rồng là kỹ năng đặc biệt của thần này. Đồng thời Garuda còn có thể thổi sáo, thường tấu nhạc lên trong không trung.

    Loài rồng tiếng Phạn gọi là Nāgarājah (long vương) và Nagakanya (long nữ). Long vương Taksaka và long vương Vāsuki là hai đại long vương trong số các long vương. Rồng là thần nửa người nửa rắn, cung điện của loài rồng gọi là Bhogavati, nằm tại hạ giới dưới biển. Long vương Shesha là thần chống đỡ cho vũ trụ, cũng là người hầu hạ Vishnu, vị long vương này có tổng cộng 1000 cái đầu. Đồng thời, Ấn Độ giáo còn lấy rồng 5 đầu biểu trưng cho Shiva và sùng bái thần rồng này.

    Ngoài ra, còn có Yaksa (Dạ-xoa) là thần đi lại trên không, hình dáng như người, tuy có lúc gây bất lợi cho con người, nhưng lại thường là thần bảo hộ nhân loại. Loài nữ thì gọi là Yakshani.

    Các vị thần ở trên nhìn chung vẫn là sản vật của thời kỳ Veda, chẳng qua là có thêm vào tín ngưỡng dân gian và giáo lý Phật giáo. Những quỷ thần này đều được Phật giáo thừa nhận và phần lớn đều trở thành thần hộ pháp của Phật giáo; sau đó được Ấn Độ giáo hấp thu và thoắt cái trở thành dân cõi trời dưới quyền cai quản của thần Vishnu và thần Shiva.

    4. Shankara và Ấn Độ giáo

    Tham vọng phục hưng của Ấn Độ giáo dĩ nhiên đã có từ rất sớm, nhưng để Ấn Độ giáo có sự thống nhất về tư tưởng và sự phân chia thành các giáo phái độc lập, thì phải đợi đến khi Shankara hay còn gọi là Shankaracharya (700 - 750) xuất hiện. Trước thời Shankara, tuy đã có các kinh Purana và Bhagavad-gītā, Purana chú trọng tín ngưỡng tôn giáo, Bhagavad-gītā chú trọng triết học tôn giáo, nhưng cục diện tôn giáo Ấn Độ vẫn hỗn loạn và pha tạp. Trải qua 1000 năm sau, bắt đầu từ Shankara, nó được tổ chức và thống nhất lại. Khi Shankara qua đời, cống hiến to lớn của ông đối với Ấn Độ giáo có thể sánh ngang với công lao của đại đế Alexander đối với vương nghiệp của Hy Lạp. Đầu tiên, ông đứng trên lập trường tôn giáo của một nhà tri thức phái Vedānta, chú thích rất nhiều sách triết học cổ đại. Theo ý kiến riêng của mình, ông chủ trương dùng triết học Bà-la-môn trong truyền thống Ấn Độ làm nòng cốt, tổng hợp tất cả triết học của Ấn Độ. Vì ông hấp thu rất nhiều tư tưởng của Phật giáo, nên các học giả đời sau gọi tư tưởng của ông là “Phật giáo ngụy trang”. Nhưng, thành tựu lớn lao của chí hướng tiếp thu tri thức mới và tập hợp triết học Ấn Độ này của ông đã lập tức vang dội khắp giới tư tưởng gia trên toàn xứ Ấn Độ. Ông lại đích thân đi khắp nơi để giáo hóa nhân dân. Đồng thời, cử rất nhiều đệ tử xuất chúng đi đến các vùng miền, xướng cao việc phá tà ý tà chấp, hiển chánh đạo chánh kiến bằng nhiệt huyết tràn trề và tài ăn nói lưu loát của họ. Đối thủ chủ yếu mà Ấn Độ giáo chọn chính là Phật giáo đang trên đường xuống dốc. Shankara thường đến Bangalah tìm các tu sĩ Phật giáo tranh biện, nhưng không người nào là địch thủ của ông. Vì vậy mà xứ Bangalah có 25 ngôi chùa bị đốt phá, cướp bóc, 500 thầy Tỳ-kheo bị bắt cải đạo. Shankara và đệ tử đối với xã hội thượng lưu thì dùng tư tưởng triết học để thuyết phục, đối với xã hội hạ lưu thì dùng tín ngưỡng phổ thông để giáo hóa.

    Trước lúc từ trần, Shankara đã sáng lập được 4 tu viện lớn ở 4 phương của Ấn Độ; khi chết, ông đã phái các đệ tử giỏi nhất của mình chia nhau đi trụ trì các nơi. Nhưng thế sự vô thường, sau khi thống nhất rồi, sang thời kỳ tiếp theo Ấn Độ giáo lại phân chia thành các giáo phái, nhưng Shankara vẫn được xem là vị tổ chung của tất cả các phái. Phái Vaishnava sau này thờ ông như một hóa thân của thần Vishnu, phái Saiva thì lại xem ông là hóa thân của thần Shiva. Bên Phật giáo lúc đó đang nổ ra cuộc tranh chấp tư tưởng trong nội bộ, phái Mādhyamika (Trung quán) tranh luận với phái Yogācāra (Duy thức), trong phái Mādhyamika lại phân làm 2 nhánh tranh luận lẫn nhau. Tuy nhiên, đến thời này, nhân tài Phật giáo như sao buổi sớm, đã không còn có một vị đại sư nào nữa. Thật là “trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi”, kết quả là Ấn Độ giáo đại thắng hoàn toàn.

    Sự phân chia thành các chi phái của Ấn Độ giáo bắt đầu từ thế kỷ thứ IX do các đệ tử chính thức của Shankara cùng phát động. Nghe nói có phái Saiva, phái Vaishnava, phái Sākta, phái Gānapatya, phái Sāura, phái Pāsupata... Nguyên nhân chia phái là do đối tượng sùng bái khác nhau. Ngọn nguồn của Ấn Độ giáo là Bà-la-môn giáo, đó là một giao hoán thần giáo có thể tùy theo lúc sùng bái đối tượng nào thì đặt đối tượng đó vào địa vị thần tối cao. Đến Ấn Độ giáo, ngoài một vị thần vô thượng tuyệt đối duy nhất còn có cả các vị thần lớn với nhiều tính cách khác nhau cùng tồn tại; như 3 vị thần lớn Brahmā, Vishnu và Shiva, vốn là ba tướng của một thể duy nhất, sau này lại bị tách ra, mỗi phái chỉ sùng bái một vị trong ba vị đó.

    Việc chia phái xuất hiện sớm nhất chủ yếu là hai phái Vaishnava và Saiva. Về hình thức chúng có hai điểm khác nhau: Một là ký hiệu trên trán, phái Saiva dùng màu trắng vẽ trên trán 3 đường ngang, phái Vaishnava thì dùng màu đỏ, vàng hoặc trắng vẽ trên trán 3 đường dọc; hai là xâu chuỗi mà họ dùng, phái Saiva dùng quả hạch làm thành xâu chuỗi hình thoi có 32 hạt, phái Vaishnava thì dùng xâu chuỗi bằng gỗ có 108 hạt[22].

    Còn về mặt ý nghĩa, thần Shiva mà phái Saiva sùng bái là thần hủy diệt, vẻ mặt uy nghiêm, nên có khi Shiva dùng xương người chết làm xâu chuỗi, dùng cây đinh ba làm vật tượng trưng và dùng bộ phận sinh dục nam (linga) làm biểu tượng. Tượng thần Shiva trông cũng cực kỳ nghiêm nghị, đáng sợ; người ta còn dùng bò đực kèm theo để biểu trưng cho uy lực của vị thần này. Bởi thế, những người tu hành theo phái này, coi trọng mặc tưởng, cấm dục, khổ hạnh, tương đương với phái yếm thế của Bà-la-môn giáo cổ. Còn thần Vishnu mà phái Vaishnava sùng bái là một vị thần đầy tình người, có tính hài hước nhẹ nhàng, vui vẻ, nên người ta lấy tượng của anh hùng Ramā và Krishna làm tượng của vị thần này. Tín đồ của phái Vaishnava đa phần tham luyến thế gian nên nhiễm thói buông lung theo nhục dục. Nhưng phái Vaishnava lại được những người thường dân ủng hộ. Tăng lữ của phái này phần lớn có gia thất, chẳng khác gì người thế tục.

    5. Phái Saiva

    Thần Shiva trong thời đại Veda vẫn là một trong những vị thần thuộc cõi không trung. Do thần này có uy lực cứ nổi giận là sát thương vạn vật nên đến Ấn Độ giáo đã trở thành thần hủy diệt vũ trụ, nhưng đối lập với sự hủy diệt, Shiva còn là một vị thần tái sinh. Thế nên, tính cách của vị thần này rất phức tạp, đại để có thể chia làm 5 loại như sau:

    a. Thần hủy diệt tất cả chúng sinh: Khi thời gian của một kiếp kết thúc, Shiva liền giết sạch hết thảy chúng sinh, kể cả Brahmā và Vishnu, sau đó dùng lửa thiêu hủy xác của họ. Shiva đem hài cốt của các thần cõi trời đeo lên cổ và lấy tro sau khi hỏa thiêu bôi lên thân thể mình. Vì lẽ đó, những tín đồ phái Saiva cũng đều dùng tro bôi lên người - một trong những biểu trưng cho sự sùng bái.

    b. Thần tái tạo: Sau khi hủy diệt mọi thứ, Shiva lại thường ban ân huệ cho chúng sinh, mang đến sự tái tạo và bảo hộ. Sự tín ngưỡng quan niệm này phần lớn được thể hiện ở việc dùng bộ phận sinh dục nam (linga) để biểu trưng cho thần Shiva.

    c. Mô phạm của những người khổ hạnh: Vì Shiva có tính cách trầm tư mặc tưởng và khổ hạnh diệt dục, nên còn được gọi là bậc đại khổ hạnh[23]. Người tu theo phái Saiva lấy việc ngồi dưới gốc cây, cởi hết quần áo, bôi tro, mặc tưởng... làm biểu trưng cho sự sùng bái. Khuynh hướng yếm thế của phái Saiva rõ ràng tương phản với khuynh hướng yêu đời của phái Vaishnava.

    d. Nguồn gốc của tất cả thánh trí: Vì Shiva diệt dục, mặc tưởng, nên là mô phạm của các học giả và các nhà tư tưởng.

    e. Thần hoan lạc: Có lúc Shiva lại ở chung trong núi với vợ mình, săn bắn, uống rượu, có các tiểu thần tùy tùng vây quanh, và cùng với vợ ca múa, vui đùa. Vì tính cách này mà về sau sinh ra việc sùng bái nữ thần. Hình tượng Shiva và vợ mình ôm nhau giao hợp vốn dùng để biểu trưng cho sức mạnh của sự tái sinh, cũng hàm ý rằng trời đất, tạo hóa hợp nhất làm cho vạn vật đời đời sinh sôi nảy nở. Nhưng về sau người ta lại lấy việc giao hợp làm nghi thức sùng bái. Do tính cách của Shiva rất phức tạp nên tên gọi của thần này cũng rất nhiều, nghe nói có tổng cộng 1008 cái tên khác nhau. Ví dụ như: Mahesvara (Trời Đại tự tại), Mahādeva (Đại thiên), Tanunapata (Thần lửa), Pancajanya (Thi ân), Aditi (Mẹ của các vị thần), Janaka (Cha), Bhutabhavana (Đấng thai tạo chúng sinh), Lokankara (Đấng sáng tạo thế giới), Sarvabandhavimocana (Người thoát khỏi mọi trói buộc), Jaradisamana (Người chinh phục tuổi già), Mahamaya (Đại huyễn ảo), Nisacara (Người đi đêm), Viryavat (Đại hùng), Jagadadija (Căn nguyên của vũ trụ), Vikrta (Biến dạng),...

    Từ phái Saiva lại phân ra rất nhiều chi phái khác, những phái chủ yếu là phái Pratyabhijnā, phái Pāsupata và phái Rasesvara.

    Phái Pratyabhijnā theo thuyết duy tâm tuyệt đối, cho rằng thế giới là do mê vọng mà thành, thế giới và chúng sinh đều thuộc về một thần Shiva duy nhất, nên đều là tôi tớ của thần Shiva. Đứng trên lập trường của con người mà quan sát vạn vật, thì tất cả không nằm ngoài những quan niệm trong tâm con người. Lúc chúng ta nhận thức vạn vật cũng chính là lúc thần Shiva thông qua quan niệm của chúng ta để nhận thức vạn vật lại một lần nữa. Cho nên, phái này gọi là Pratyabhijnā, nghĩa là “nhận thức lại”. Vì chúng ta và Shiva đồng nhất thể, nên chúng ta cũng có thể nhận thức sự vật bằng quan niệm của Shiva. Nhờ ân sủng này, chúng ta biết được rằng thần tính của chúng ta tồn tại sẵn ở trong chính chúng ta. Bởi thế, xa lìa mê vọng là chúng ta có thể hồi phục lại thần lực và đạt được giải thoát. Cái gọi là giải thoát là thực tại mà ở đó chúng ta trở nên đồng nhất hoàn toàn với thần Shiva.

    Phái Pāsupata trong kinh Phật tiếng Hán được gọi là Ngưu chủ ngoại đạo, hoặc Thú vương ngoại đạo. Trong các tác phẩm của Bồ-tát Vasubandhu[24] trước thời Shankara đã thấy có tên gọi này. Phái Pāsupata cho rằng sự tồn tại của thế giới và con người chịu sự trói buộc của khổ đau, nếu muốn giải thoát khỏi sự khổ này, trước hết phải dựa vào sự kết hợp với thần Shiva về trí lực và tư tưởng, rồi tiến đến việc chấm dứt tất cả hoạt động, trừ diệt hết thảy khổ não, hợp nhất với nguyên lý vũ trụ tuyệt đối, đó chính là cảnh giới giải thoát. Nếu muốn giải thoát, phải nương tựa vào một vị thầy, chuyên tu giới hạnh, thường tránh xa nơi ô uế, trừ khử mê lầm, luôn mặc tưởng về Shiva; một ngày tắm cát ba lần, ngồi trên cát được đốt nóng; dâng vật cúng, tụng kinh văn, hành hương thánh địa; dùng các động tác như hát ca, cúi người, rung người, đi khập khiễng... để làm vui lòng thần; đi khất thực, mặc đồ rách, ăn uống đạm bạc, khắc chế bản thân một cách nghiêm ngặt. Có thể thấy, phái này cũng là một phái khổ hạnh.

    Phái Rasesvara tương tự như phái Đan đỉnh của Đạo giáo Trung Quốc, dùng thuật luyện đan để làm cho nhục thân bất hoại, bất tử. Vì mục đích trường sinh bất lão, phái này lấy rèn thể dục, tập dưỡng sinh làm pháp tu của mình. Phép bất tử của phái này là dùng mica và thủy ngân phối chế với nhau, sự biến đổi về chất của mica và thủy ngân sẽ sinh ra một thần lực không thể nghĩ lường. Tín đồ phái Rasesvara cho rằng sự phối hợp của mica và thủy ngân chính là sự hợp nhất đầy uy lực giữa thần Shiva và nữ thần Durgā nên có thể mượn thứ tinh lực được thần thánh hóa này làm cho người uống từ tất tử đi đến bất tử, đắc đại tự tại, phi hành vô ngại, nhìn thấu nguyên lý của vũ trụ, viễn ly tất cả khổ ách, giải thoát hết thảy trói buộc, đạt được hạnh phúc vĩnh hằng. Đây là giáo phái tìm lấy hạnh phúc ở hiện đời nên cũng là trung gian từ phái tu khổ hạnh quá độ sang phái nam nữ song tu.

    6. Sùng bái nữ thần

    Shiva là thần hủy diệt, nhưng cũng là thần tái sinh và thần sinh sản. Vốn là một loại lý luận hoặc giải thích về vũ trụ quan, nên phái Saiva thời kỳ đầu là tôn giáo thuộc về tầng lớp trí thức. Sau này, kết hợp với tín ngưỡng dân gian, từ phái Saiva đã xuất hiện chi phái tìm cầu hạnh phúc hiện tiền, dẫn đến sự ra đời một cách tự nhiên của tín ngưỡng phóng túng theo nhục dục. Phái Saiva cho rằng thần Shiva là nguồn gốc của hạnh phúc và giàu sang, thần có thể ban con cái cho loài người và khiến cho gia súc sinh sôi nảy nở. Do uy lực của sự sinh sản, người ta chuyển sang sùng bái nữ thần. Hình tượng Shiva và Durgā ôm nhau vốn biểu thị vũ trụ hợp nhất và sinh ra vạn vật, nhưng sau này người ta lại xem uy lực của sự sinh sản như biểu trưng của Durgā, cho rằng sức mạnh sinh dục là sở trường riêng của giới nữ.

    Tín ngưỡng sùng bái nữ thần xuất phát từ phái Saiva. Tính cách của nữ thần mà phái này sùng bái cũng tương đồng với tính cách của Shiva: có hai bộ mặt đối lập nhau là uy nghiêm và hòa nhã. Với bộ mặt uy nghiêm, nàng là nữ thần chết chóc, tên gọi là Kāli, có mặt đen, tóc rối, ngoác miệng nhe răng, vung gươm giết người, uống máu cho mát họng, lấy xương khô đeo quanh cổ. Cho nên, khi cúng tế Kāli, người ta thường lấy máu để dâng cúng. Máu hổ có thể làm nữ thần thỏa mãn trong 100 năm, máu người có thể làm nữ thần thỏa mãn trong 1000 năm. Trước đây, người ta thường dùng người sống làm vật hiến tế, sau bị chính quyền thực dân Anh cấm tuyệt.

    Một tên gọi khác của nữ thần này là Durgā, nghĩa là “người mẹ khó gần”. Toàn thân Durgā màu vàng kim, có tất cả 10 tay, tay nào cũng cầm binh khí, truy sát ác ma. Theo những khảo sát về Durgā thì nàng vốn là một nữ thần trinh trắng sống trong núi Vindhya, nàng là người giết được quỷ đầu trâu Mahisha, và nàng thích rượu thịt, ưa đồ cúng tế. Trong Mahābharata sau này lại biến Durgā thành tình nhân của anh hùng Krishna. Nàng nữ thần trinh trắng vốn là một cô sơn nữ nguyên sơ xưa kia, nay do kết hợp với thần thoại Krishna, mà trở thành vợ của thần Shiva, còn được đổi lấy một cái tên mới, gọi là Uma.

    Về chuyện Uma, có một thần thoại rất sinh động: Các thần trên trời bị quỷ đầu trâu Mahisha đánh bại và trục xuất khỏi cõi trời. Họ đến gặp thần Brahmā cầu cứu, Brahmā bảo các thần đi tìm con trai của thần Shiva. Khi đó Shiva lại chưa kết hôn, ở một mình trong núi tịnh tu, vừa đúng lúc thần núi sai con gái của mình là Uma làm người hầu cho Shiva, các thần liền phái thần tình yêu Kamadeva đến dùng phép thuật để làm cho Shiva và Uma yêu nhau, kết quả là họ đã thành vợ thành chồng và sinh hạ được 2 nam 2 nữ. Thần chiến tranh Kartikeya và thần trí tuệ Ganesh là 2 con trai của họ; nữ thần văn nghệ Sarasvatī và nữ thần may mắn Lakshmī là 2 con gái của họ. Uma đưa con trai của mình là thần chiến tranh Kartikeya theo, xuất trận chiến đấu liên tục 3 ngày 3 đêm, cuối cùng đã chiến thắng quỷ đầu trâu Mahisha. Ấn Độ giáo vốn lấy bò đực làm biểu trưng cho thần Shiva, nhưng mỗi năm trong 10 ngày liên tiếp cúng tế nữ thần Durgā, ngày nào cũng phải giết trâu dâng cúng, lấy việc giết trâu tượng trưng cho việc giết được quỷ Mahisha.

    Tuy vậy, với bộ mặt hòa nhã, vị nữ thần phối ngẫu này, lại rất dịu dàng, thùy mị. Nàng và thần Shiva ngụ ở trong núi, cùng nhau ái ân hoan lạc, sống cuộc đời chồng vợ đầy ngũ dục[25]. Vì thế, nàng còn được gọi với cái tên là Kāmesvari (nữ thần ái dục), hay Vimalā (nữ thần trong sạch trinh trắng). Ngoài ra, nàng còn có rất nhiều tên gọi khác, ví dụ như Mahāvidyā (nữ thần đại trí), Mahāmatī (nữ thần sinh dục và nữ thần đại mẫu), Nāyikā (nữ thần luyến ái nhục dục), Yoginī (nữ thần tu pháp yoga)... Tổng cộng có khoảng 1000 tên.

    Nữ thần mà phái Saiva sùng bái có sức mạnh về ái dục và sinh dục, thậm chí bất cứ sức mạnh nào trong vũ trụ cũng đều tập trung hết vào người nàng, vì vậy tín đồ phái này phát khởi niềm tin chí tôn vô thượng đối với nàng. Vì vạn vật đều do giới tính nữ sinh ra, không vật gì không ẩn chứa trong giới tính nữ, nên tín ngưỡng sùng bái sức mạnh giới tính đã ra đời.

    7. Phái Sākta

    Phái Sākta khởi nguồn từ đâu? Từ tín ngưỡng sùng bái bộ phận sinh dục. Tín ngưỡng này hiện vẫn chưa tìm thấy trong kinh điển Veda của Ấn Độ. Có thể là nó đã ra đời trong xã hội thổ dân không phải người Āryan. Cũng có người nói là nó do các dân tộc ngoại lai mang vào Ấn Độ. Trong kinh sách của Ấn Độ, nó chỉ xuất hiện duy nhất ở thánh thư Purana.

    Phái Sākta lấy Shiva và Durgā để biểu trưng cho sự hủy diệt và tái sinh của vũ trụ. Đồng thời, dùng bộ phận sinh dục nam (linga) và bộ phận sinh dục nữ (yoni) tượng trưng cho hai vị nam thần và nữ thần này. Như vậy, phái này lấy bộ phận sinh dục nam nữ làm đối tượng tín ngưỡng mang sức hủy diệt và sức tái tạo.

    Vốn dĩ chỉ là sự sùng bái đối với bộ phận sinh dục, không đến nỗi làm dậy lên lối sống dâm loạn, phóng dật. Nhưng sau này lại nảy sinh ra một lý luận rằng: bên trong cơ thể con người có vô số mạch máu, tổng cộng chia thành 6 bộ phận lớn, lần lượt thuộc về 6 luân xa trung tâm (cakra), các luân xa đều có hình dạng giống hoa sen, từ trên xuống dưới chia làm 6 vị trí. Luân xa dưới cùng quan trọng nhất, chính là ở vị trí bộ phận sinh dục, gọi là luân xa Mūlādhāra. Lấy luân xa dưới cùng này tu (nam nữ song tu) một thuật tương ứng (thuật yoga) thì có thể đưa một luồng sức mạnh tương ứng sinh ra từ nó đi lên luân xa trên cùng. Các luân xa trên dưới tương thông, kết nối với nhau sẽ có thể tạo ra những kỳ tích siêu nhiên[26].

    Thế là, từ sùng bái tính cách của nữ thần, đã chuyển sang sùng bái bộ phận sinh dục nữ, lại còn lấy bộ phận sinh dục nữ xem thành ấn quyết[27] để tu hành thuật yoga. Nay xin đem trình tự nghi lễ cúng tế của phái Sākta lược thuật như sau:

    a. Lễ bái điện thần: dâng cúng cho nữ thần ngũ cốc, gia súc... thậm chí lấy người làm vật hiến tế.

    b. Ngồi quây tròn cùng lễ bái: Với số lượng nam nữ bằng nhau, cùng vào phòng kín, trong bóng tối ngồi quây tròn quanh một người con gái khỏa thân tượng trưng cho nữ thần bổn tôn, tụng chân ngôn năm chữ M, là Madya (rượu), Māmsa (thịt), Matsya (cá), Mudrā (ấn quyết) và Maithuna (hạt ngũ cốc).

    c. Tu pháp Siddham: Siddham nghĩa là thành tựu, tức tu thuật yoga đạt được thành tựu.

    d. Pháp bí mật vô thượng: dựa theo phép tắc của Tantra, tiếp nhận chỉ dạy của đạo sư, thực hành thuật nam nữ bí mật.

    Bốn giai đoạn này nói chung là sau khi uống rượu, ăn thịt cá xong, các cặp liền “bắt ấn quyết” và giao hợp với nhau. Loại hội họp đó được gọi là Hội thánh luân[28]. Phái này có cái tên Sākta (Tính lực, tức sức mạnh giới tính) là do Hội thánh luân của phái này đặt trọng tâm “tu hành” nơi pháp bí mật vô thượng mà ra.

    8. Mật pháp và ấn chú

    Sau khi phái Sākta phát triển rộng ra, Mật thừa Phật giáo thời kỳ cuối ở Ấn Độ đã tiếp thu lý luận của phái này, nên Lạt-ma giáo[29] ở Nepal và Tây Tạng cũng có pháp Du-già Vô thượng, và cũng đem kinh điển, phép tắc của pháp Du-già Vô thượng này gọi là Tantra.

    Tantra vốn là tên gọi chung cho tất cả kinh sách của phái Sākta, thường sử dụng 64 bộ, còn tổng cộng thì có 192 bộ. Xét về tính chất nội dung, có thể chia Tantra làm 4 loại: một là lý luận về giáo lý, hai là yoga, ba là quy định về xây dựng điện thần và tượng thần, bốn là các pháp tu theo phép tắc tôn giáo. Đa phần là ghi chép lại những lời đối thoại giữa hai vợ chồng thần Shiva, chứ không phải tất cả đều nói về mật pháp vô thượng. Trong đó, có vài bộ Tantra tên là Yamala, chữ “yamala” nghĩa là “một cặp đôi hợp nhất”, hàm ý chỉ trạng thái ôm nhau của hai vị thần nam nữ (đây chính là đặc trưng của phái Sākta). Kinh Cakra-samvara[30] trong các bộ kinh Du-già Vô thượng của Mật tông cũng là một loại Tantra như thế.

    Phái Sākta còn có một đặc trưng nữa cũng được Mật thừa của Phật giáo tiếp thu hoặc tiếp cận, đó chính là ấn chú. Nội dung của nó có thể chia làm 6 điểm:

    a. Thần chú (Mantra): chỉ cho một số câu văn nào đó không cần phải giải thích ý nghĩa và chuyên dùng để trì niệm.

    b. Chú tự (Bīja): là một số chữ nào đó được lấy để đại biểu cho một số vị thần nào đó. Ví dụ, chữ “Om” đại biểu cho thần vũ trụ ba ngôi một thể. Các vị thần khác, mỗi vị đều có một chữ đại biểu riêng, tụng một chú tự nào đó liền có thể mượn được thần lực của vị thần mà chú tự đó đại biểu.

    c. Phù chú (Yantra): là các loại phù hiệu đại biểu cho các vị thần linh, thần lực đạt được từ những phù hiệu viết bằng huyết thư là lớn nhất.

    d. Chú đeo mang (Kavaca): viết thần chú, chú tự hoặc phù chú lên mảnh đá, miếng gỗ hoặc tờ giấy đeo mang bên mình, có công dụng gặp may tránh họa.

    e. Chú niệm tụng (Nyasa): lúc niệm thần chú, dùng ngón tay vuốt lên các bộ phận trên thân thể liền có thể nhận được sự gia trì của thần lực.

    f. Ấn quyết (Mudrā): dùng ngón tay làm ra các loại tư thế khác nhau để biểu thị những ý chỉ của thần linh, mục đích của nó là để mong cầu đạt được sự tương ứng. Miệng niệm chú, tâm quán chữ, tay bắt ấn, chính là “ba mật tương ứng”. Do vậy, sự tương ứng trong mật pháp vô thượng cũng được xem là một trong những ấn quyết, hơn nữa còn là đại ấn quyết.

    Có thể thấy, tín ngưỡng của phái Sākta xuất phát từ chú thuật của Bà-la-môn giáo. Mật pháp vô thượng của họ thì giống với thuật phòng trung hoặc thuật ngự nữ của Đạo giáo Trung Quốc. Lạt-ma giáo của Nepal và Tây Tạng đã hấp thu loại tín ngưỡng này. Có điều, dù sao thì, Lạt-ma giáo cũng lấy Phật pháp làm trung tâm. Muốn biết về giáo lý và nghi lễ của Lạt-ma giáo xin tham khảo cuốn Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng của cùng tác giả. Độ dài sách này có giới hạn nên không thể giới thiệu đầy đủ.

    9. Những nhà tư tưởng của Ấn Độ giáo

    Sau Shankara, đến thế kỷ thứ XII, trong phái Vaishnava xuất hiện một vị tên là Rāmānuja, chủ trương thuyết nhất nguyên hạn chế, đối chọi lại với tư tưởng của Shankara. Sang thế kỷ thứ XIII, lại xuất hiện Madhva chủ trương thuyết nhị nguyên người - thần, sáng lập ra phái Madhva. Thế kỷ XIV thì có Rāmānanda xuất thế, lấy anh hùng Ramā trong sử thi làm một trong 10 đại hóa thân của thần Vishnu, biến Ramā trở thành đối tượng được sùng bái; đồng thời, ông chủ trương 4 chủng tính bình đẳng, truyền bá tín ngưỡng của mình đến cả giai cấp tiện dân. Tới thế kỷ XV, dựa trên lập trường của Rāmānanda, tiếp thu những ưu điểm của Hồi giáo, một phái cải tiến ra đời, về sau từ phái này đã xuất hiện Tích-khắc giáo[31] pha tạp giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo.

    Tư tưởng sang hèn bình đẳng này vốn xuất xứ từ Phật giáo, đến lúc đó lại được hưng khởi, có ảnh hưởng rất lớn, nên Nāmdev ở thế kỷ XV và Tukārām ở thế kỷ XVII, đều là những nhà tôn giáo xuất thân từ tiện dân. Hai người họ bài xích việc sùng bái ngẫu tượng, chủ trương cuộc sống đạo đức, thành tâm quy y Vishnu. Đây là tư tưởng chịu ảnh hưởng của Hồi giáo.

    Từ thế kỷ XIX trở về sau, do nhà nước chủ nghĩa thực dân phương Tây đem tín ngưỡng Cơ Đốc giáo vào Ấn Độ, Cơ Đốc giáo tuy chưa thể thôn tính Ấn Độ giáo nhưng đã làm cho nội bộ Ấn Độ giáo xảy ra một cuộc đổi thay mang tính cải cách. Như phái Brāhma-sāmāj do Rām Mohan Roy và phái Ārya-sāmāj do Dayānanda Sarasvati sáng lập đều vì chịu sự kích thích của Cơ Đốc giáo, mà làm dấy lên và cổ xúy cho tư tưởng phục cổ, chủ trương đứng trên lập trường của Veda, giữ vững tín ngưỡng tôn giáo truyền thống thuần Ấn Độ.


    109. Sindhu có nghĩa là: nước, sông, suối hoặc biển.

    110. Trung Thổ (Madhyadesa): vùng đất trung tâm, cái nôi của nền văn minh Ấn Độ, nay là vùng Trung Bắc Ấn.

    111. Indo-European.

    112. Pãnca-jana.

    113. Cakravartin.

    114. Vajra.

    115. Vajrapāni.

    116. Đại chúng bộ (Mahāsānghika): là một trong hai bộ phái Phật giáo được tách ra từ sau Đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai tại Vesāli (bộ phái kia là Thượng tọa bộ). Trong đại hội, Đại chúng bộ có năm quan điểm riêng về tính chất của một A-la-hán và mười điều bị coi là trái với giới luật. Quan điểm của Đại chúng bộ được xem là tiền thân của giáo pháp Đại thừa sau này.

    117. Hữu bộ (Sarvāstivādin): gọi đủ là Thuyết nhất thiết hữu bộ, là một trong 20 bộ phái của Tiểu thừa, tách ra từ Thượng tọa bộ. Bộ phái này chủ trương rằng các pháp trong ba đời quá khứ, hiện tại, tương lai là có thật.

    118. Satapatha Brāhmana.

    119. Lord.

    120. Nārakaloka.

    121. Samsāra.

    122. Vô biểu sắc (Avijgapti-rūpa): loại vật chất không biểu hiện lộ liễu ra bên ngoài, mắt thường không thể nhận biết được.

    123. Ātman.

    124. Kalpa-vāda.

    125. Vidyā.

    126. Đoạn 2, 4, 6, chương 2, cuốn Baudhāyana Dharma Sūtra.

    127. Dasaratha Jataka.

    128. Hơn một nửa nội dung mục này lấy từ cuốn Hai Bộ Đại Sử Thi Ấn Độ của Mi Văn Khai.

    129. Hinduism.

    130. Xâu chuỗi được Phật giáo sử dụng sau này cũng dùng số hạt tương tự, điều này đáng để chúng ta lưu tâm.

    131. Mahā Tapāh.

    132. Thế Thân: là một cao tăng Ấn Độ sống vào thế kỷ thứ IV, được xem là vị tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.

    133. Ngũ dục gồm: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ.

    134. Điều đáng chú ý ở đây là, Trung Quốc cũng có một phái thuật sĩ, gọi việc tu định vận khí là “Chuyển pháp luân”, lúc khí mạch thông suốt gọi là “phá quan”, xem ra cũng giống với thuyết về luân xa này.

    135. Mudrā: là một cử chỉ thân thể, thường là bằng tay, tượng trưng cho sức mạnh và sự biểu hiện thần thánh.

    136. Sri-cakra.

    137. Tu sĩ Phật giáo Tây Tạng được gọi là Lạt-ma. Chỉ những người đạo cao đức trọng mới được gọi bằng danh xưng này. Vì dân Tây tạng đặc biệt tôn sùng các vị Lạt-ma nên người nước ngoài mới gọi Phật giáo Tây Tạng là Lạt ma giáo. Lạt-ma giáo sau được truyền vào Trung Quốc, Mông Cổ, Bhutan, Nepal...

    138. Kinh Thắng Lạc Luân: “thắng lạc luân” nghĩa là “vòng tròn đại hoan lạc”.

    139. Sikhism.

    Facebook Google Tweet

    Xem tiếp

    Sách cùng thể loại

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

    Kinh Nhật Tụng

    Chùa Hoằng Pháp

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

    Thiền Lâm Bảo Huấn Bút Thuyết

    Đại Sư Trí Tường

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

    Chúng Sinh Trong Đường Ngạ Quỉ

    Thích Đạo Quang

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

    Kinh Trường Thọ Diệt Tội

    Người Dịch:

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

    Thánh Đức Và Sự Linh Ứng của Bồ - Tát Địa Tạng

    Nhiều tác giả

    So sánh sự khác biệt giữa Hindu giáo và Phật giáo

    Tây Phương An Lạc Tập

    Đại Sư Đạo Xước

    Xem tất cả