So sánh cùng 1 tác phẩm năm 2024

Trong thời kỳ mà hầu như địa hạt nào cũng được toàn cầu hoá, người ta không ngần ngại khẳng định, hoặc tái khẳng định, rằng văn học của mọi quốc gia không thể đứng biệt lập, nó nằm trong Cộng hoà văn chương thế giới. Nói cách khác, dù muốn dù không, văn học quốc gia không thu mình trong tháp ngà của dân tộc trung tâm luận mà nó nằm trong các mối quan hệ phức tạp. Tương tự như vậy, một trào lưu văn học của một đất nước, một nhà văn, một tác phẩm nào đó cũng không thể nằm ngoài hệ thống các mối quan hệ chằng chịt. Các nền văn học, các trào lưu văn học, các nhà văn, các văn bản văn học tiếp xúc với nhau, giao thoa với nhau, ảnh hưởng tới nhau, thậm chí xung đột với nhau... Cũng tương tự như vậy, bản thân văn học cũng không thể co ro trong bộ áo choàng mỹ miều của mình mà chịu ảnh hưởng của các loại hình nghệ thuật khác, và những yếu tố phi văn học khác. Văn học so sánh là một chuyên ngành có khả năng giải thích và nghiên cứu những mối quan hệ đó.

Có thể nói, ở Việt Nam ta, vì nhiều lý do khác nhau, lý luận văn học so sánh rất bị xem nhẹ. Điều này trước hết được thể hiện ở số lượng công trình có thể xếp loại vào chuyên ngành văn học này. Theo Trần Đình Sử, “Số tác phẩm nghiên cứu so sánh về văn học Việt Nam ở nước ngoài đến nay chưa được thống kê, tập hợp. Đó là một con số quá ít, đề tài lại rời rạc, phân tán, chưa tập trung, chưa đủ để nhận thức tính quốc tế và các mối quan hệ quốc tế của văn học Việt Nam”1 Theo chúng tôi, sở dĩ văn học so sánh chưa được đánh giá đúng mức như vậy là vì nhiều lý do. Dưới sự tác động của yếu tố truyền thống, phong tục tập quán, chiến tranh, văn hoá Việt Nam đã có một thời hoặc là thu mình trong dân tộc trung tâm luận, hoặc co lại trong phức cảm tự ti của một “nước nhược tiểu” trước sự lộng lẫy của các nền văn học phương Tây như Pháp, Đức v.v... Thêm vào đó, lý luận văn học so sánh, cũng như lý luận văn học thuần tuý ở Việt Nam chưa tìm tiếng nói chung với các nước khác trên thế giới. Trong một thời gian dài, giới nghiên cứu Việt Nam hiểu về vai trò và chức năng của văn học so sánh chưa được tường tận. Trương Đăng Dung, trong bài báo “Văn học dịch và những vấn đề lý luận của văn học so sánh”2 định nghĩa rằng: “Văn học so sánh là một trong những ngành khoa học văn học nghiên cứu mối quan hệ qua lại cũng như những đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa các nền văn học nhằm tiếp cận tiến trình văn học lớn nhất: Văn học thế giới”. Tương tự, Nguyễn Văn Dân, trong cuốn “Lí luận văn học so sánh”3, cho rằng, “Văn học so sánh có thể được định nghĩa như là một bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc”. Thực ra, như chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau, phạm vi nghiên cứu của văn học so sánh rộng lớn hơn nhiều.

“Văn học so sánh là chuyên ngành nghiên cứu những mối quan hệ tương đồng, quan hệ họ hàng hay ảnh hưởng giữa văn học với các lĩnh vực nghệ thuật hay các lĩnh vực tư duy khác, giữa các sự kiện hay văn bản văn học, những mối quan hệ này có thể gần hay xa, trong không gian hay trong thời gian, miễn là chúng thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau, hoặc nhiều văn hoá khác nhau, cho dù có chung một truyền thống”.

Daniel-Henri Pageaux

“Khi không còn mối quan hệ nào nữa, cho dù đó là quan hệ của một người nào đó với một văn bản, của một tác phẩm nào đó với môi trường tiếp nhận, của một đất nước nào với một du khách, thì khi đó phạm vi của văn học so sánh mới kết thúc...

M.-F. Guyard

Khi chỉ giới hạn văn học so sánh ở việc nghiên cứu quan hệ giữa các nền văn học dân tộc, chúng ta chỉ bó hẹp trong một lĩnh vực không phải là “sở trường”, đó là tiếp nhận văn học nước ngoài. Định nghĩa mà Trương Đăng Dung hay Nguyễn Văn Dân đã đưa ra về văn học so sánh chưa đầy đủ ở chỗ văn học so sánh còn đối chiếu văn học với các loại hình nghệ thuật khác (điện ảnh, hội hoạ, âm nhạc v.v…), còn so sánh những tác phẩm khác nhau của cùng một tác giả, những tác giả khác nhau của cùng một trào lưu, những trào lưu khác nhau của cùng một dân tộc v.v… Chính vì lý do đó, chúng tôi thấy định nghĩa sau đây của Daniel-Henri Pageaux là đầy đủ hơn: “Văn học so sánh là chuyên ngành nghiên cứu những mối quan hệ tương đồng, quan hệ họ hàng hay ảnh hưởng giữa văn học với các lĩnh vực nghệ thuật hay các lĩnh vực tư duy khác, giữa các sự kiện hay văn bản văn học, những mối quan hệ này có thể gần hay xa, trong không gian hay trong thời gian, miễn là chúng thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau, hoặc nhiều văn hoá khác nhau, cho dù có chung một truyền thống”.4 Như vậy, khi chúng ta so sánh một tiểu thuyết nào đó với bộ phim được dựng theo tiểu thuyết này, khi chúng ta đối chiếu các tiểu thuyết của Jean-Paul Sartre với triết học hiện sinh hay tìm hiểu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc tới văn học Việt Nam là chúng ta đang nghiên cứu văn học so sánh.

Phạm vi nghiên cứu của văn học so sánh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, dưới những hình thức khác nhau và bằng nhiều phương pháp khác nhau. M.-F. Guyard đã viết vào năm 1951 rằng: “Khi không còn mối quan hệ nào nữa, cho dù đó là quan hệ của một người nào đó với một văn bản, của một tác phẩm nào đó với môi trường tiếp nhận, của một đất nước nào với một du khách, thì khi đó phạm vi của văn học so sánh mới kết thúc...”5