Không phải chỉ một mình các em quyết định tham dự lớp giáo lý. Trên khắp thế giới, hằng trăm ngàn thanh thiếu niên làm cho lớp giáo lý thành một phần trong cuộc sống của họ. Họ đi đến lớp học của họ bằng xe buýt, xuồng, xe đạp hay ngay cả mạng Internet. Một số thanh thiếu niên thức dậy sớm và đi rất xa để đến đúng giờ, những em khác đi vào buổi chiều, và còn những người khác nữa học ở nhà vài ngày trong tuần lễ. Show Việc tham dự lớp giáo lý đòi hỏi sự hy sinh, nhưng giới trẻ trên khắp thế giới đang thấy rằng việc tham dự lớp giáo lý rất đáng bõ công cho mọi nỗ lực. Và những người tham dự đều có một điểm chung: kinh nghiệm của họ về lớp giáo lý mang họ đến gần Đấng Cứu Rỗi và Cha Thiên Thượng hơn. Nhận Được Các Phước Lành đã Được HứaTại sao lớp giáo lý lại quan trọng như vậy đối với các em? Một số lý do gồm có những lời hứa này từ các vị tiên tri và sứ đồ ngày sau:
Tìm Cách để Tham DựViệc đi học lớp giáo lý thường có nghĩa là các em sẽ phải từ bỏ một điều gì khác mà các em thích làm để tìm ra thời gian để tham dự. Nhưng đó là một sự hy sinh đáng bõ công để làm. Elijah Bugayong ở Philippine chọn quyết định đó trong năm cuối trung học của mình. Trong suốt các năm ở trung học, em ấy luôn luôn đứng thứ nhì trong lớp học. Em ấy quyết tâm sẽ đứng thứ nhất trong năm cuối trung học và thậm chí còn nghĩ đến việc không tham dự lớp giáo lý, mà em đã theo học trong những năm trước đó, để đạt được mục tiêu của mình. Rồi một ngày nọ, em thay đổi lối suy nghĩ của mình. Em nói: “Tôi [nhìn vào] lịch trình học của mình,” “Tôi nhìn thấy một đống sách gần đó, các quyển thánh thư của tôi cùng với sổ ghi chép và sách học của lớp giáo lý. Tận thâm tâm mình, tôi tự hỏi: ‘Điều gì quan trọng nhất?’” Elijah tìm ra câu trả lời của mình trong Ma Thi Ơ 6:33: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” Em ấy quyết định tham dự lớp giáo lý một cách trung tín và tìm ra những cách khác để cân bằng thời giờ của mình cho việc học. Vào cuối năm, em ấy được chọn làm thủ khoa và còn nhận được một học bổng ở trường đại học. Spencer Douglas ở Alabama, Hoa Kỳ, quyết định từ bỏ một số buổi tiệc tùng xã giao để em có thể học được từ lớp giáo lý nhiều nhất. Trong hai năm đầu tiên theo học lớp giáo lý, em ấy thức dậy lúc 4 giờ sáng để đi học, và hai năm cuối, em ấy thức dậy lúc 5 giờ sáng. Em ấy nói: “Tôi không thể tham dự nhiều sinh hoạt khuya với bạn bè của mình vì tôi sẽ cần phải đi ngủ sớm. Nếu không, thì tôi sẽ không thể tham dự trọn vẹn và học tập vào buổi sáng hôm sau.” Đối với Spencer, điều đó không phải chỉ là đến lớp học, mà còn phải tỉnh ngủ và sẵn sàng học tập. Anh Cả Dallin H. Oaks thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ đã dạy: “Chỉ vì một điều gì đó tốt thì không phải là lý do đủ để làm điều đó. Một số điều tốt chúng ta có thể làm lại vượt quá thời giờ có sẵn để hoàn thành những điều đó. Có một số điều thì tốt hơn là chỉ tốt không thôi, và đây là những điều đáng được quan tâm hàng đầu trong cuộc sống của chúng ta.” Đó là lời khuyên dạy quan trọng để ghi nhớ khi các em quyết định cách đặt lớp giáo lý thành ưu tiên trong lịch trình của mình. Chuẩn Bị cho Công Việc Truyền GiáoLớp giáo lý cũng là một sự chuẩn bị hữu hiệu cho công việc truyền giáo mà các em sẽ thực hiện—với tư cách là một tín hữu truyền giáo ngày nay cũng như nếu các em phục vụ với tư cách là một người truyền giáo toàn thời gian trong tương lai. Franco Huamán Curinuqui ở Peru biết rằng việc học thánh thư của mình trong lớp giáo lý đã giúp em chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Em ấy nói rằng sự chuẩn bị này thật đáng bõ công thức dậy để đi đến lớp giáo lý vào lúc 4 giờ sáng, đi xuồng vào những tháng lụt lội ở khu vực, và rồi lội bùn để đi đến lớp. Em ấy nói: “Tôi muốn học xong lớp giáo lý và bắt đầu các lớp học của viện giáo lý để sẵn sàng cho công việc truyền giáo. Em sẽ tiếp tục tăng trưởng trong Giáo Hội.” Lớp giáo lý rất quan trọng đối với em ấy vì em ấy học về thánh thư và thuộc lòng những câu quan trọng mà sẽ giúp em ấy trở thành một người truyền giáo tốt hơn. Được Ban Phước trong Mọi Khía Cạnh của Cuộc SốngKhi giới trẻ trên khắp thế giới nỗ lực tham dự lớp giáo lý, thì họ sẽ nhận được nhiều sức mạnh hơn trong việc học thánh thư. Cameron Lisney ở Anh thấy rằng em đã được ban phước trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Cameron nói: “Không những lớp giáo lý giúp đỡ về phần thuộc linh, mà còn giúp đỡ về học đường và học vấn nữa.” Em ấy nói rằng “việc bắt đầu sớm trong ngày làm cho trí óc của mình bắt đầu làm việc sớm. Một số bạn bè của em nói rằng chúng quá bận rộn để tham dự—vâng, không giống như việc ta đang chuẩn bị ôn bài toán vào lúc 6 giờ sáng, phải không?” Trong khi học, Cameron nói: “Chúa sẽ giúp ta trong các kỳ thi, và nếu ta đi đến lớp giáo lý, Ngài sẽ giúp đỡ ta càng nhiều hơn nữa.” Dĩ nhiên, lớp giáo lý cũng giúp Cameron củng cố chứng ngôn của em. Em ấy nói: “Sự khởi đầu của chứng ngôn của tôi đến từ chương trình lớp giáo lý. Vào lúc còn rất nhỏ ở tuổi 14, tôi đã thật sự gặp khó khăn trong phúc âm. Tôi không thích nhà thờ, và tôi làm những điều mà đáng lẽ tôi không nên làm. Đó chỉ là vấn đề một vài tháng thôi trước khi tôi hoàn toàn bỏ cuộc.” Nhưng khi một người bạn mời Cameron đi tham dự lớp giáo lý, em ấy quyết định đi với bạn mình. Rồi các phước lành thật sự bắt đầu đến. Cameron nói: “Tôi bắt đầu cảm thấy Thánh Linh một lần nữa.” “Tôi bắt đầu lưu ý nhiều hơn đến nhà thờ và tham dự Trường Chủ Nhật và các bài học của chức tư tế. Mọi việc trở nên dễ dàng hơn, và tôi bắt đầu cảm thấy hạnh phúc hơn. Cuối cùng tôi nhận được một chứng ngôn về phúc âm cho bản thân mình.” Sau hai tháng theo học lớp giáo lý, Cameron họp với giám trợ của em và được sắc phong làm thầy giảng trong Chức Tư Tế A Rôn. Cameron biết rằng lớp giáo lý giúp em chống lại những cám dỗ của thế gian. Em ấy nói: “Khi lớp giáo lý tiếp tục, tôi thấy dễ dàng hơn để đối phó với những thử thách thế gian mang đến. Thật là khó để làm một thanh thiếu niên trong một thế giới chúng ta đang sống—tội lỗi đang vây quanh chúng ta từ mọi phía. Tôi làm chứng với các anh chị em rằng nếu các anh chị em tham dự lớp giáo lý, thì các anh chị em sẽ tìm thấy sức mạnh để tự bảo vệ chống lại tội lỗi. Lớp giáo lý tạo ra một cái khiên che thuộc linh để bảo vệ các anh chị em. Nhiều thử thách và cám dỗ khác nhau dồn dập xảy đến cho tôi, và lớp giáo lý đã là một sự giúp đỡ hữu hiệu trong việc giữ tôi ở trên con đường chật và hẹp.” Củng Cố Lẫn NhauLớp giáo lý cũng để cho các em quy tụ với các em thanh thiếu niên khác có cùng tín ngưỡng với các em. Vika Chelyshkova ở Nga nói: “Tôi được cảm ứng bởi những người cùng chí hướng, nắm giữ những tiêu chuẩn đạo đức tương tự và tin nơi Thượng Đế như tôi.” Em ấy nói thêm: “Nếu có bất cứ câu hỏi nào, tôi có thể thảo luận với giảng viên và các học sinh khác trong lớp giáo lý của tôi. Tôi có thể chia sẻ những ý nghĩ và chứng ngôn của tôi với những người khác để củng cố đức tin của tôi và những người khác. Bằng cách cùng đọc thánh thư chung với nhau và suy ngẫm về nội dung thuộc linh của các câu thánh thư, chúng tôi đến gần Thượng Đế và gần nhau hơn.” Ksenia Goncharova ở Ukraine đã thấy những kết quả tương tự. Em ấy nói: “Khi chia sẻ những kinh nghiệm của mình với nhau, chúng tôi trở nên vững mạnh hơn và hiểu thánh thư rõ hơn. Khi chúng tôi nói về những ví dụ từ cuộc sống của mình trong khi các bài học được giảng dạy, tôi thấy phúc âm đã tác động trong cuộc sống của mình và trong cuộc sống của những người khác như thế nào.” Nhận Biết Cha Thiên Thượng và Chúa Giê Su Ky TôMột nhóm thanh thiếu niên mới vừa được hỏi là lớp giáo lý đã ban phước cho họ như thế nào. Câu trả lời của họ biểu lộ một đề tài quan trọng—rằng lớp giáo lý giúp họ đến gần Cha Thiên Thượng và Đấng Cứu Rỗi hơn. Anh Cả David A. Bednar thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ đã dạy: “Tất cả các đề tài các em học trong lớp giáo lý đều quan trọng. Mỗi năm, khi các em chú trọng vào một trong số các quyển thánh thư, thì điểm tập trung chính là Chúa Giê Su Ky Tô.” Đây là điều một số em thanh thiếu niên nói về lớp giáo lý đã mang các em đến gần Chúa Giê Su Ky Tô hơn như thế nào.
Với rất nhiều phước lành đến từ việc tham dự lớp giáo lý, thật là dễ dàng để thấy tại sao giới trẻ trên khắp thế giới đang đặt lớp giáo lý làm ưu tiên trong lịch trình học của họ. Ghi Chú
Một Phước Lành với Những Hiệu Quả Suốt Đời Hình Ảnh Anh Cả L. Tom Perry “Cách đây nhiều năm, tôi có đặc ân được giảng dạy lớp giáo lý sáng sớm. Lớp học được dạy từ 6 giờ 30 đến 7 giờ 30 sáng mỗi ngày. Trong hai năm, tôi đã nhìn thấy các học sinh ngái ngủ đi chuệnh choạng vào lớp học, đòi hỏi giảng viên của các em phải giữ cho các em tỉnh ngủ. Sau khi lời cầu nguyện được dâng lên và được ban cho một ý nghĩ đầy soi dẫn, tôi quan sát thấy các trí óc sáng suốt trở nên sống động để gia tăng sự hiểu biết của các em về thánh thư. Phần khó khăn nhất của lớp học là phải kết thúc cuộc thảo luận đúng giờ để gửi các em đến các lớp học thường lệ của trường trung học. Khi niên học tiếp diễn, tôi nhìn thấy mỗi học sinh tự tin hơn, tình bằng hữu khắng khít hơn và một chứng ngôn tăng trưởng về phúc âm. “Cách đây một vài năm, khi tôi đang ở trong một cửa hàng tạp hóa ở một thành phố cách đây không xa thì tôi nghe một người nào đó gọi tên tôi. Tôi quay lại chào hỏi hai em học sinh cũ trong lớp giáo lý của tôi. Giờ đây họ là vợ chồng. Họ giới thiệu với tôi bốn đứa con xinh đẹp của họ. Trong khi chúng tôi hỏi han trò chuyện, tôi kinh ngạc trước con số bạn bè trong lớp giáo lý mà họ vẫn còn liên lạc sau nhiều năm. Hiển nhiên đó là một mối quan hệ đặc biệt đã hình thành trong chính lớp học giáo lý buổi sáng sớm đó.” Anh Cả L. Tom Perry thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, “Receive Truth,” Ensign, tháng Mười Một năm 1997, 62. Lớp Giáo Lý Ảnh Hưởng Đến Cuộc Sống của Chủ Tịch Henry B. Eyring Hình Ảnh Chủ Tịch Henry B. Eyring Mildred Bennion là học sinh trong lớp giáo lý đầu tiên ở Granite Seminary vào năm 1912. Về sau, bà trở thành mẹ của Chủ Tịch Henry B. Eyring, Đệ Nhất Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn. Bà hiểu tầm quan trọng của lớp giáo lý trong cuộc sống của mình, và bà muốn con cái của mình có cùng các phước lành mà bà đã cảm nhận được từ lớp giáo lý, nên gia đình bà đã thực hiện một quyết định quan trọng: “Chúng tôi dọn đi Utah mặc dù phải có một sự hy sinh lớn lao về tài chính để các con trai của chúng tôi có thể tham dự Lớp Giáo Lý và Viện Giáo Lý cùng tìm ra bạn bè trong số các tín hữu của chúng tôi. Điều đó đã trả lời cho câu hỏi từ những cảm nghĩ của tôi về những điều như vậy” (trích trong C. Coleman, History of Granite Seminary, 142). Tầm quan trọng của giáo dục của Giáo Hội tiếp tục trong gia đình Eyring khi Chủ Tịch Henry B. Eyring vào năm 1971 đã trở thành chủ tịch trường Ricks College (bây giờ là trường BYU–Idaho), một trường đại học của Giáo Hội, và phục vụ với tư cách là Ủy Viên Giáo Dục của Giáo Hội từ năm 1980 đến năm 1985 và một lần nữa từ năm 1992 đến năm 2005. Lịch Sử của Lớp Giáo Lý Sau đây là một bản tóm lược về sự tăng trưởng của lớp giáo lý qua nhiều năm. Năm 1888: Chủ Tịch Wilford Woodruff giám sát sự hình thành của Ủy Ban Giáo Dục của Giáo Hội để hướng dẫn các nỗ lực giáo dục của Giáo Hội, kể cả các lớp học về tôn giáo sau giờ học thường lệ. Năm 1912: Tổ chức lần đầu tiên các lớp giáo lý mà các học sinh được phép tham dự thay vì phải đi vào các lớp học thường lệ, tổng số có 70 học sinh nghỉ một lớp học trong trường trung học để tham dự lớp giáo lý. Các lớp học được giảng dạy đối diện trường trung học Granite High School ở thành phố Salt Lake City, Utah, Hoa Kỳ. Năm 1925: Con số ghi danh là 10.000 học sinh. Năm 1948: Được tổ chức ở Canada, quốc gia đầu tiên ngoài Hoa Kỳ có lớp giáo lý. Năm 1950: Tổ chức các lớp giáo lý hằng ngày (trước đây được gọi là “lớp giáo lý sáng sớm”) ở California, là nơi các học sinh nhóm họp trong các nhà hội của Giáo Hội trước khi đi học. Năm 1958: Con số ghi danh là 50.000 học sinh. Năm 1958: Được tổ chức ở Trung Mỹ, được đưa vào Mexico lần đầu tiên. Năm 1962: Được tổ chức ở Châu Âu, được đưa vào Phần Lan và Đức lần đầu tiên. Năm 1963: Được tổ chức ở Châu Á, được đưa vào Nhật Bản lần đầu tiên. Năm 1965: Con số ghi danh là 100.000 học sinh. Năm 1967: Khởi đầu lớp giáo lý học ở nhà trong những cộng đồng nông thôn, là nơi các học sinh học tại nhà bốn ngày trong một tuần và nhóm họp với nhau một ngày mỗi tuần. Năm 1968: Được tổ chức ở Úc. Năm 1969: Được tổ chức ở Nam Mỹ, được đưa vào Brazil lần đầu tiên. Năm 1972: Được tổ chức ở Châu Phi, được đưa vào Nam Phi lần đầu tiên. Năm 1983: Con số ghi danh là 200.000 học sinh. Năm 1991: Con số ghi danh là 300.000 học sinh. Năm 2012: Có mặt ở 134 quốc gia và lãnh thổ trên toàn cầu, với khoảng 370.000 học sinh ghi danh. Tranh do Scott Greer minh họa Hình ảnh do Christina Smith đảm trách Phải: hình những học sinh tốt nghiệp lớp giáo lý Provo, Utah, với nhã ý của Văn Khố của Giáo Hội Thánh Hữu Ngày Sau |