Nó vừa là nó vừa không phải là nó là phương pháp luận nào

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

I. Một vài vấn đề chung

1. Mác vừa là nhà triết học, vừa là nhà báo. Tư tưởng Triết học của ông được hình thành gắn chặt với hoạt động báo chí của mình. Chính tư tưởng triết học của Mác đã làm phong phú, sâu sắc hoạt động báo chí của ông. Nghiên cứu sự hình thành tư tưởng triết học của Mác trong thời kỳ từ 1842 - 1843 có ý nghĩa quan trọng vì đây là giai đoạn của lịch sử triết học mác-xít còn ít được nghiên cứu, đồng thời nó còn có ý nghĩa đấu tranh chống lại sự xuyên tạc thổi phồng của một số học giả tư sản về những nhược điểm trong các tác phẩm thời kỳ đầu của Mác để “chứng minh” cho lập luận rằng có sự “đối lập giữa Mác thời trẻ và Mác khi trưởng thành, rằng chủ nghĩa Mác trước 1848 là “chân chính” và chủ nghĩa Mác sau 1848 đã bị “bóp méo” nghiêm trọng...  Mục đích của sự xuyên tạc ấy về tư tưởng là phủ nhận học thuyết Mác về chính trị.

2. Mốc lịch sử hoạt động của Mác sau khi nhận bằng tiến sĩ triết học vào tháng 4.1841 có thể tóm tắt như sau:

- Mác được giữ lại trường, chuẩn bị vào giảng dạy triết học ở trường đại học tổng hợp Bon và chuẩn bị xuất bản tờ tạp chí “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”. Dự định trên không thành vì nhà nước Phổ đã  đàn áp những người dân chủ cách mạng trong đó có “phái Hêghen trẻ”, trong phái đó có Mác - Mác và phái “Hêghen trẻ” chuyển sang hoạt động chính trị.

- Từ tháng 1.1842, những người phái tự do ở Rênami ra tờ báo đối lập lấy tên là báo Renani (báo Sông Rane). Tháng 5.1842 Mác tham gia và đến tháng 10.1842 trở thành chủ bút tờ báo này.

- 1.4.1842 báo Sông Rane bị cấm hoạt động, trong thời kỳ này (tháng 4 - 10.1843) Mác đọc lịch sử triết học phương Tây cận đại và duyệt lại quan niệm của Hêghen về xã hội, về pháp quyền và viết cuốn “Góp phần phê phán triết học Pháp quyền Hêghen”. Đến tháng 10.1843 Mác sang Pari.

3. Giai đoạn những năm 1842-1843, giai đoạn thứ hai của sự hình thành quan niệm triết học của Mác. Đó là thời kỳ Mác viết những bài cho báo Sông Rane và viết bản thảo chưa hoàn thành nhan đề “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” và một số bài khác. Lênin coi những bài báo của Mác là sự đánh dấu bước chuyển biến của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Cần phải xếp bản thảo “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” vào thời kỳ chuyển biến đó.

4. Mác và những người Hêghen cánh tả (hay gọi là phái Hêghen trẻ) có sự giống nhau là đều xuất phát từ Hêghen, đều rút ra những kết luận cách mạng từ triết học của Hêghen. Còn sự khác nhau căn bản giữa Mác và những người Hêghen cánh tả là ở chỗ: Những người Hêghen cánh tả rút ra kết luận từ kết quả tiến triển logic của triết học Hêghen (tư biện). Những suy luận của họ tuy dựa trên những tài liệu lịch sử nhưng tài liệu đó chỉ được xem xét qua lý luận của Hêghen. Khi đem đối lập tư tưởng của phái Hêghen cánh tả với triết học Hêghen gốc thì thực chất họ đang thúc đẩy cho quá trình “hoàn thiện” hơn triết học Hêghen gốc. Còn Mác, ông không đem sự đối lập các phần khác nhau của triết học Hêghen, Mác xuất phát từ  “Sự kiện bướng bỉnh” tức là hiện thực khách quan theo quan điểm cách mạng, đối lập với toàn bộ triết học Hêghen.

II. Sự hình thành tư tưởng của Mác qua hoạt động báo chí (từ 1.1842 - 10.1843)

1. Đấu tranh cho tự do Báo chí

1.1. Ngày 14.1.1842 chính phủ Phổ ban bố một pháp lệnh mới về chế độ kiểm duyệt. Ngày 10.2.1842 Mác cho đăng trên tạp chí “Biên niên Đức” bài: “Nhận xét đối với pháp lệnh mới về chế độ kiểm duyệt ở Phổ”. Pháp lệnh về chế độ kiểm duyệt mà Mác phê phán đã xoá bỏ quyền tự do báo chí, buộc những người cầm bút phải tự hạn chế trong trình bày sự thật một cách “giản đơn”. Mác cho rằng pháp lệnh đó dựa trên quan điểm bất bình đẳng giữa các giai cấp. Bọn viên chức của bộ máy nhà nước lộng hành trong hành động không cần dựa vào tiêu chuẩn khách quan. Từ đó Mác kết luận “Biện pháp triệt để nhất để thoát khỏi kiểm duyệt là xoá bỏ chế độ ấy, vì đó là một chế độ xấu xa”(1).

Những quan điểm của Mác trong bài báo trên khác hẳn quan điểm trong “triết học Pháp quyền” của Hêghen.Hêghen cho rằng: Tự do báo chí có thể chấp nhận được nếu không trái với lợi ích nhà nước - chế độ nhà nước của Hêghen là chế độ chung chung, một nhà nước “hiện thực”, “hợp lý” -  Nhà nước Phổ có đặc tính đó.

Đối với Mác, tự do báo chí phải là điều kiện tiên quyết, Người phê phán sự hạn chế tự do của chính phủ Phổ là không phù hợp với quan niệm tự do, vì thế đó là thứ bạo lực đối với tinh thần.

Sự phê phán của Mác về Triết học pháp quyền của Hêghen còn được thể hiện trong thư gửi cho Ru giơ ngày 25.3.1842 đề nghị đăng bài trên tạp chí “Biên niên Đức” nhằm đấu tranh chống chế độ quân chủ lập hiến, chế độ này phải được coi là một sự thoái hoá hoàn toàn.

1.2. Tháng 1.1842 những người thuộc phái tự do ở Renani ra một tờ báo đối lập gọi là báo Sông Rane. Mác bắt đầu cộng tác với tờ báo từ tháng 5.1842 và đến tháng 10.1842 trở thành chủ bút.

Tư tưởng dân chủ và cách mạng của Mác trong bài “Nhận xét đối với pháp lệnh mới về chế độ kiểm duyệt ở Phổ” nay lại được phát triển và đi sâu trong những bài đăng trên báo Sông Rane. Lênin đã viết về hoạt động của Mác ở báo đó như sau: Năm 1842 Mác đã cho đăng nhiều bài báo, đặc biệt là một bài phê phán những cuộc tranh luận tại nghị viện Rênani khoá 6 về tự do báo chí, một bài về Luật trừng trị các việc ăn cắp gỗ... Chính ở đấy, người ta đã thấy Mác chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản(2).

ở bài báo của Mác viết về cuộc tranh luận tại nghị viện Renani về vấn đề tự do báo chí, Mác cho rằng chế độ “dân chủ” Phổ chỉ được biểu hiện trong những lời ba hoa của các đại biểu vốn không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng. Điều chủ yếu ở đây là các cuộc tranh luận của nghị viện phản ánh thái độ của các giai cấp về một vấn đề chính trị quan trọng nhất là tự do báo chí. Cuộc tranh luận đó đã vạch rõ thực chất của phái đối lập tư sản, còn các bản tham luận của những người phái tự do thì do dự. Mác coi sự bất đồng ý kiến ở nghị viện là biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp. Mác vạch trần hai loại quan điểm trên và coi việc hạn chế quyền tự do báo chí là một mối nguy hại cho văn hoá loài người. Giải phóng báo chí khỏi chế độ kiểm duyệt tức là biến nó thành báo chí của nhân dân vì chế độ Phổ khiến tự do báo chí chỉ có hiệu lực đối với một nhóm người nhất định. Mác coi việc bóp nghẹt tự do báo chí là do chế độ nhà nước, do chính sách của nhà nước quyết định để đảm bảo quyền cho một bộ phận nhỏ của xã hội. Những đại biểu của nghị viện không phải là của nhân dân. Mác cho rằng “nhân dân các địa phương phải đòi hỏi tiếng nói của các địa phương phải biến thành tiếng nói của cả nước, mà  mọi người có thể nghe thấy được”(3). Không thể có đời sống chính trị tự do nếu không có quyền đại diện của nhân dân. Quyền đại diện ấy cũng cần thiết cho xã hội, giống như là không khí cần thiết cho con người. Ngay trong bài báo đó Mác đã xa rời triết học Hêghen. Đối lập với quan điểm của Hêghen coi nhà nước Phổ là biểu hiện của nhà nước lý tưởng, chống lại quyền đại diện của nhân dân, Mác coi nhà nước Phổ là nhà nước bóp nghẹt mọi quyền tự do. Mác đòi quyền đại diện của nhân dân như là điều kiện tất yếu của tự do.

Như vậy, Mác kiên quyết chống lại việc tước đoạt quyền chính trị của nhân dân và Mác bảo vệ những nguyên tắc của nhà nước dân chủ. Rõ ràng giữa Mác và Hêghen có quan điểm đối lập nhau. Hêghen coi chế độ quân chủ là hình thức cao nhất của nhà nước, là chế độ hợp lý nhất, coi việc đòi hỏi chế độ dân chủ là “trừu tượng” là “thiếu tinh thần thực tiễn”.

2. Vấn đề mối quan hệ giữa triết học, tôn giáo và chính trị trong các bài báo của Mác.

- Về triết học, theo Mác, nếu muốn là chân lý thì phải gắn bó không thể tách rời cuộc sống, phải chuyển từ tháp ngà đóng kín của các thứ chủ nghĩa sang vũ đài chính trị rộng lớn. “Bất cứ một triết học chân chính nào cũng đều là tinh tuý tinh thần của thời đại của nó, cho nên, tất nhiên có lúc triết học tiếp xúc và tác động qua lại với thế giới hiện thực trong thời đại của mình vừa bằng nội dung bên trong, vừa bằng hình thức bên ngoài. Lúc đó triết học, không còn làm cái việc lập nên một chủ nghĩa nhất định trước những chủ nghĩa nhất định; nó trở thành một triết học nói chung đứng trước thế giới, nó trở thành triết học của thế giới hiện đại”(4). Phải xem xét các vấn đề chính trị theo quan điểm của triết học chứ không phải theo quan điểm tôn giáo vì “trí tuệ ở trần gian - tức là triết học có quyền quan tâm tới vương quốc của trần gian đó, đến nhà nước hơn là trí tuệ của thế giới bên kia - tức là tôn giáo”(5).

Ngay từ thời đó, Mác đã thấy rõ mối liên hệ giữa tôn giáo với chính trị. Người ta có thể nhận thức rằng trong những nhà nước hiện đại tôn giáo có nghĩa là “tôn giáo của phe thống trị là sự sùng bái “ý chí của chính phủ”. Bêcơn đã ví vật lý học theo thần học như là một người con gái hiếm hoi và bằng cách phân giới hạn giữa triết học và vật lý học, ông đã biến vật lý học thành một khoa học phong phú. Theo cách đó, nhiệm vụ của triết học là phải giải phóng chính trị khỏi thần học và xây dựng nên một khoa học chính trị chân chính(6).

- Về thái độ đối với tôn giáo, Mác cho rằng điều hoà giữa khoa học với tín ngưỡng có nghĩa là từ bỏ mọi khoa học - ngược lại Hêghen cho rằng tín ngưỡng và khoa học về bản chất là không tách rời nhau mà thể hiện cùng một nội dung duy nhất dưới những hình thức khác nhau. Khoa học là sự thể hiện của tinh thần tuyệt đối, tín ngưỡng  cũng biểu hiện của tinh thần tuyệt đối đó nhưng dưới dạng riêng.

Vậy, ngay trong hoạt động báo chí, Mác đã gắn một cách chặt chẽ cuộc đấu tranh tư tưởng với đấu tranh chính trị thực tiễn. Đối với Mác, lý luận không phải là một mục đích tự nó mà là một công cụ của đấu tranh cách mạng. Việc xác định lập trường đó đã làm rõ Mác khác với phái Hêghen trẻ vốn coi sự tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần bằng những lời lẽ trống rỗng là mục đích cuối cùng của các hoạt động của họ. Ngay những năm 1838 - 1841 Mác đã có quan hệ với Baue, dù thân thiết, nhưng đến 1842 Mác chống lại Baue. Đứng đầu phái Hêghen trẻ là Baue đã tự xưng là người “giải phóng”. Mác phê phán Baue vì họ chỉ phê phán tôn giáo một cách trừu tượng. Mác đòi hỏi phê phán tôn giáo phải gắn liền với phê phán chính trị vì như Mác đã khẳng định không thể xoá bỏ tôn giáo nếu không xoá bỏ được những cơ sở tồn tại của nó. Còn với chủ nghĩa Cộng sản, thời kỳ này Mác chỉ mới biết đến qua các bài viết trên báo Sông Rane và Mác nhấn mạnh rằng người ta không thể đánh giá chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) “nếu không nghiên cứu chủ nghĩa đó một cách sâu sắc”, “không thể thảo luận nó qua các bản báo cáo thiếu chuẩn bị của những người phái Hêghen trẻ đã làm”. Chính việc “nghiên cứu một cách sâu sắc hơn”, xem xét CNCS một cách căn bản hơn” đã nhanh chóng dẫn Mác tới cơ sở của CNCS khoa học(7).

3. Bước đầu làm rõ vai trò cơ sở và quyết định của các mặt vật chất của đời sống xã hội đối với ý thức xã hội.

Những bài báo của Mác khi phân tích về những vụ ăn cắp gỗ đã phản ánh sự thay đổi quan điểm của Người. Những lợi ích kinh tế của các giai cấp khác nhau, các quan hệ giữa các giai cấp, các quan hệ giữa các giai cấp với nhà nước đã được Mác làm rõ trong những bài báo đó. Mác cho rằng những lời phát biểu ở nghị viện Rênani về các “Vụ ăn cắp gỗ” và những biện pháp trừng trị họ đã phản ánh Lợi ích chế độ tư hữu. Họ coi việc nhặt củi khô, gỗ mục trong rừng là “ăn cắp”. Đó là cách nhìn phiến diện. Pháp luật  - theo Mác không phải xuất phát từ những động cơ chủ quan mà phải xuất phát từ tính chất khách quan của hành động.

Để bảo vệ quyền lợi của “quần chúng nghèo khổ bị tước đoạt về mặt xã hội và chính trị”, Mác đã dùng lý luận về mối quan hệ giữa hình thức và nội dung để chứng minh sự không phù hợp với nhau về đặc quyền về mặt pháp lý và khái niệm pháp luật hợp lý. Mác cho rằng nội dung của các luật lệ theo tập quán của các giai cấp bề trên không thể được coi là hình thức luật lệ chung, không thể hiện dưới hình thức pháp luật. Do nội dung của chúng trái với hình thức pháp luật, trái với tính phổ biến, tính tất yếu của pháp luật nên các luật lệ theo tập quán của giai cấp thống trị chỉ là những sự bất công đã trở thành tập quán, cần phải thủ tiêu chúng. Điều kiện của sự thống nhất giữa hình thức và nội dung của pháp quyền hợp lý, theo Mác là pháp quyền này phải biểu hiện các quyền của những người vô sản dưới hình thức pháp luật. Pháp quyền chỉ thể hiện thành pháp luật chừng nào nội dung của nó không trái với hình thức pháp luật. Đặc quyền về mặt pháp lý Phổ chính là biểu hiện của sự phi pháp. Như vậy sự hợp pháp hoá các quyền của các giai cấp thống trị đã xác nhận sự phân biệt giữa hình thức và nội dung của pháp luật. Cơ sở để Mác chứng minh mối quan hệ như trên là những lợi ích về mặt pháp lý của con người dựa trên lợi ích kinh tế của họ, sự xác định những quan hệ xã hội khác nhau dựa trên cơ sở những quan hệ sở hữu. Những người có sở hữu riêng đặt lợi ích của họ lên trên hết, trước hết. “Lợi ích tư nhân tự coi là mục đích cuối cùng của thế giới”(9).  Mác cho rằng nhà nước Phổ hiện tại là kẻ bảo vệ cho bọn chủ có sở hữu. Nhà nước là công cụ của lợi ích tư nhân thì không hợp với khái niệm về nó, nhà nước ấy không hợp lý. Đã như vậy thì mọi cơ quan của tổ chức nhà nước chỉ trở thành tai, mắt ... cho bọn chủ rừng ... (10). Một tư tưởng duy nhất thống trị nghị viện Rênani là tư tưởng quyền tư hữu, nghị viện coi nhà nước chỉ là một công cụ của bọn bóc lột.

Sự phân tích những mặt vật chất của đời sống xã hội, đã mở cho Mác những triển vọng mới - nghĩa là không còn giải thích những quan hệ vật chất hiện thực trên cơ sở duy tâm - bắt đầu quá trình biến chuyển của Mác tới  chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản...

Mác đã nêu lên khá kỹ tình cảnh những người nông dân ở xứ Môdenlơ. Mác đã vạch trần bản chất nhà nước Phổ, khẳng định không nên tìm nguyên nhân bị cùng khổ của nông dân ở bên ngoài phạm vi hoạt động hành chính của nhà nước, mà phải tìm ngay trong bản thân nhà nước. Mác còn đi xa hơn, cho rằng nhà nước của giai cấp bóc lột là phục vụ giai cấp thống trị, còn người lao động về nguyên tắc khôngcó chút khả năng tự vệ nào cả, đó là kết quả tất nhiên của tình trạng quần chúng nhân dân bị tước đoạt tất cả các quyền. Mác kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích và các quyền, Mác đòi hỏi nhà nước phải phục vụ quốc gia, phải phục vụ nhân dân. Tình trạng khốn khổ của người nông dân đã nêu xác nhận rằng chính quyền Phổ không phù hợp với hiện thực đòi hỏi, nó mâu thuẫn với hiện thực đó - nghĩa là nó phản động. Mác chỉ rõ sự khốn khổ thường xuyên của một bộ phận trong quốc gia bộc lộ cho thấy mâu thuẫn giữa hiện thực với chủ trương đường lối của nhà nước”(11). Và nhà nước quan liêu Phổ vẫn làm ngơ, không tìm hiểu nguyên nhân trong vùng nó thống trị, mà chỉ nhìn thấy nguyên nhân đó trong lĩnh vực tự nhiên, hay trông thấy dân ở ngoài vùng thống trị(12). Nếu Hêghen coi nhà nước Phổ hiện tại là hợp lý, là cần thiết thì Mác, sự hợp lý và cần thiết đó phải được xem xét theo yêu cầu dân chủ và cách mạng. Nếu Hêghen coi nhà nước đó là cơ sở của xã hội, công dân thì Mác tìm cơ sở quan hệ chính trị trong đời sống kinh tế và xã hội, nghĩa là trong xã hội công dân. Chính những vấn đề cụ thể đó tạo cơ hội cho Mác có cơ sở nghiên cứu một cách sâu sắc, nghiêm túc các quan hệ kinh tế. Trong lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị học” Mác đã viết vấn đề này như sau: “trong những năm 1842 - 1843... lần đầu tiên tôi phát biểu ý kiến của mình về cái gọi là những quyền lợi vật chất... và tất cả đã khiến tôi có những lý do đầu tiên để chuyên chế về các vấn đề kinh tế”(13).

Cách tìm hiểu những quan hệ xã hội, trên cơ sở điều kiện kinh tế đã làm nổi bật hẳn tính chất triết học của Mác. Những nguyên lý triết học duy tâm của Hêghen đã phải hoài nghi. Đáng lẽ nhà nước “thống nhất”, thì thực tế lại phân chia thành giai cấp có quyền lợi khác nhau. Đáng lẽ một chế độ lý tưởng thì thực tế là bộ máy quan liêu gạt bỏ người lao động không tham gia đời sống chính trị.

Báo chí đáng lẽ phải biểu hiện về mặt tinh thần của nhân dân thì lại biến thành cái riêng cho một thiểu số xã hội.

Đáng lẽ sự hoà hợp giữa cá nhân và xã hội thì lại là sự đối kháng giai cấp và sự áp bức người với người.

Tất cả những vấn đề ấy cho thấy: Tại sao nhà nước như vậy lại cho là sự thực hiện ý niệm đạo đức? Tại sao người ta lại cho tất cả xuất phát từ ý niệm tuyệt đối khi mà toàn bộ các lĩnh vực tinh thần, hành vi và các quan hệ lẫn nhau trong xã hội lại do điều kiện vật chất quyết định?... Đó là những vấn đề vấp phải trong quá trình hoạt động thực tiễn báo chí. Mác đã giải đáp nó trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen.

III. Sự chuyển biến tư tưởng của Mác qua tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen”

Mác xuất phát với tính cách là một người duy vật, phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói chung và triết học pháp quyền của Hêghen nói riêng.

1. Mác đặc biệt chú ý đến vấn đề mối liên hệ giữa trừu tượng và cụ thể trong triết học Hêghen

+ Trong triết học pháp quyền và trong các phần khác của triết học, Hêghen đi từ trừu tượng đến cụ thể. Hêghen đã phê phán phép siêu hình coi sự khẳng định trừu tượng một giá trị tuyệt đối mà không hiểu tư duy phát triển thông qua giải quyết hàng loạt mâu thuẫn, cho nên phép siêu hình không thể đạt tới chân thực. Đó là sự phê phán chính đáng. Song Hêghen lại đồng nhất giữa tư duy với tồn tại nên không biết tự giải phóng mình khỏi sự đối lập siêu hình giữa trừu tượng và cụ thể.

+ Theo triết học pháp quyền thì nhà nước bắt nguồn từ gia đình và xã hội công dân. Tuy nhiên quá trình ấy là quá trình sinh thành của ý niệm, cho nên gia đình và xã hội công dân chỉ là những yếu tố của khái niệm nhà nước và vì vậy nó do khái niệm nhà nước quyết định, Mác cho rằng ở đây tất cả những cái gì cũng bị đặt ngược đầu xuống đất. Sự phát triển của hiện thực bị biến thành sự phát triển có tính chất hiện tượng luận ... tất cả được hiểu chỉ là sự biểu hiện của ý niệm. Mác nhận xét “Điều kiện lại phải coi như là cái theo điều kiện, cái quyết định bị coi như là cái bị quyết định, cái sản sinh ra bị coi như là sản phẩm của sự sản sinh ra” “Sự kiện mà từ đó chúng ta xuất phát không được coi là sự kiện xuất phát mà lại bị coi là kết quả có tính chất thần bí”(14).

+ Mối quan hệ giữa trừu tượng và cụ thể trên cơ sở một hiện thực thần bí của Hêghen.

2. Thế giới quan của Mác thời gian này chưa phải là thế giới quan của người cộng sản, tuy vậy những tiền đề quan trọng nhất cho sự chuyển biến sang tư tưởng cộng sản đã được phát triển trong cuốn Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen.

Nhờ nghiên cứu những sự kiện kinh tế và chính trị mà một mặt thấy được tính chất sai lầm của học thuyết Hêghen, mặt khác  thấy được giai cấp có sứ mệnh lịch sử cải tạo cách mạng xã hội cũ, đó là giai cấp vô sản.

3. Trong khi phê phán triết học Hêghen, Mác đã tiếp nhận quan điểm duy vật của Phoiơbắc một cách có chọn lọc.

Kết luận :

1. Hoạt động thực tiễn đấu tranh trên báo chí cho tự do dân chủ đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Mác có nội dung xác định hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng nghèo khổ.

2. Thời kỳ này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa ở Mác chưa được hình thành, song với một hiện tượng đã được bàn nhiều ở châu Âu thời bấy giờ, Mác cho rằng cần phải nghiên cứu sâu sắc để kết luận về nó.

3. Thế giới quan triết học lúc này ở Mác chưa hoàn toàn là duy vật, song việc phê phán chính quyền nhà nước Phổ đã cho Mác thấy rằng quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà nước không phải như Hêghen đã trình bày mà là những lợi ích, chính quyền nhà nước là cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân (15).

4. Qua thực tiễn hoạt động báo chí đã làm nảy nở, phát triển khuynh hướng duy vật ở C.Mác. Chính quá trình đó C.Mác đặt cho mình nhiệm vụ phải nghiên cứu, phê quan niệm duy tâm của Hêghen về nhà nước, về xã hội để xây dựng nên học thuyết triết học tiến bộ và cách mạng./.

__________________

(1) C.Mác - Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà nội, T.1, tr.43, 44, 45.

(2) V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ-Matxcơva, T.26, tr.97.

(3) C.Mác - Ph.ăngghen, Sđd, tr.73.

(4) Sđd, tr.157.

(5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15) Sđd, T.1, tr.157, 165, 173, 184, 211, 205, 288, 13, 215 - 216, 229.