Ở góc độ của pháp luật hành chính, nguyên tắc nhân dân tham gia quản lý nhà nước là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Show Cơ sở của nguyên tắc nhân dân tham gia quản lý nhà nướcNguyên tắc trên xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang tính dân chủ sâu sắc cao độ . Để thể hiện đúng bản chất vốn có, nhà nước ta cho phép nhân dân lao động được tham gia các hoạt động quản lý nhà nước (bao gồm cả hoạt động quản lý hành chính nhà nước). Với sự kế thừa tư tưởng truyền thống “lấy dân làm gốc”, nhà nước ta coi trọng việc mở rộng và phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân. Cùng với yêu cầu của công cuộc đổi mới ,hội nhập ,dân chủ hóa đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước v.v…đòi hỏi phải mở rộng hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Do đó việc tham gia đông đảo vào quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng là một xu thế tất yếu, đáp ứng yêu cầu của thời đại và lưu giữ được giá trị truyền thống tốt đẹp của đất nước. Xuất phát từ bản chất dân chủ sâu sắc , nguyên tắc trên được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Sự thừa nhận đó được thể hiện thông qua những quy định trong Hiến pháp cũng như trong các văn bản pháp luật. Điều 3 Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;công nhận, tôn trọng,bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận những quyền lợi cơ bản chính đáng của công dân bao gồm có quyền được tham hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trong đó có việc quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động được quy định một cách khái quát tại Điều 28 như sau: “1.Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Nguồn gốc nguyên tắc nhân dân tham gia quản lý Nhà nướcTrong Hiến pháp năm 1946, một bản Hiến pháp với 70 điều ngắn gọn, được ban hành ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đã quy định về việc tham gia của nhân dân vào việc quản lý hành chính. Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Quy định này đã thể hiện rất rõ “quyền bính trong nước” là của toàn dân Việt Nam. Điều này khẳng định nhân dân được toàn quyền tham gia vào việc quản lý hành chính nhà nước. Tuy vào thời điểm này nước Việt Nam còn non trẻ, mới được thành lập, nhưng những quy định trong Hiến pháp 1946 đã thể hiện rõ vai trò của nhân dân trong việc tham gia vào việc quản lý hành chính nhà nước. Điều này cũng thể hiện được bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cách thức nhân dân tham gia quản lý nhà nướcMột là, nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2011, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, theo nguyên tắc này nhân dân được quyền tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực và có hiệu quả của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định đều có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước để trực tiếp hay gián tiếp thực hiện công việc quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hai là, nhân dân tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam, có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các tổ chức xã hội bao gồm các tổ chức như sau: tổ chức chính trị (1); các tổ chức chính trị- xã hội (2); các tổ chức xã hội – nghề nghiệp (3); các tổ chức tự quản (4); các hội được thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích hoặc các dấu hiệu khác (5). Có thể thấy rằng, các tổ chức xã hội nhân danh chính mình để tham gia hoạt động quản lý nhà nước. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước. Điều này xuất phát từ lý do tổ chức xã hội không phải là bộ phận trong cơ cấu của bộ máy nhà nước. Nếu bạn muốn biết thêm quy định pháp luật về lĩnh vực lao động, hãy tham khảo tại luật lao đông việt nam 2021 Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
Để nhân dân lao động thực sự giữ vai trò là người làm chủ đất nước, việc tạo điều kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước phải được ghi nhận và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguvên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được nhà nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện quyền lực của mình. Nó là một tổ chức được lập ra nhằm phát huy tài năng, sức lực của người lao động trong việc gánh vác các công việc của Nhà nước và xã hội nhằm phục vụ lợi ích của chính họ. Ghi nhận nội dung này, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chú nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nươcs thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp cóng nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Để nhân dân lao động thực sự giữ vai trò là người làm chủ đất nước, việc tạo điều kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước phải được ghi nhận và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước. Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung nãm 2001) khẳng định: "Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân". Quyền được tham gia vào quản lí các công việc của Nhà nước và xã hội là quyên cơ bản của công dân được hiến pháp ghi nhận và trên thực tế nó đã được bảo đảm thực hiện thông qua hàng loạt những hoạt động cụ thể. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lí hành chính nhà nước, đúng như nguyên lí khoa học "nhàn dân là gốc cùa quyền lực nhà nước" mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chí ra và thực tiễn lịch sử đã chứng minh.Mặt khác, nó cũng xác định những nhiệm vụ mà Nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước. Tìm hiểu chi tiết tại:Luật Hành chính Việt Nam Trong quản lí hành chính nhà nước, nguyên tắc này the hiện ớ những hình thức tham gia vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Đây là những hình thức được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng các phương tiện của Nhà nước. Các hình thức tham gia vào quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao dộng bao gồm:
Ngoài ra. những người lao động có (hể gián tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quvền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Đây là cách thức rộng rãi nhất đổ nhân dân lao động có thể tham gia vào quản lí các công việc của Nhà nước. Xem thêm về:Phương pháp quản lý hành chính nhà nước Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhà nước ban hành nhiều quy định lién quan tới vị trí. vai trò, quyền và nghĩa vụ của các lổ chức xã hội trong quản lí hành chính nhà nước nói riêng và quản lí nhà nước nói chung. Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: ''Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thảnh viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân". Bên cạnh dó, Nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất và tinh thần để cho các tổ chức xã hội thực sự trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia quản lí nhà nước cùa mình. Thống qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy trong quản lí hành chính nhà nước. Trên thực tế, các tổ chức xã hội đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước. Vì vậy, đây là một hình thức hoạt động rất có nghĩa đối với việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Điều 53 Hiên pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã quy dịnh công dân có quyền "tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đê chung của cả nước vù địa phương, kiến nghị việc cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước: tổ chức trưng cầu ý dân. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quán lí hành chính nhà nước. Những quyền, nghĩa vụ này của công dân có thể thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội (như đã phân tích ở phần trên) hoặc cũng có thể được chính người dân trực tiếp thực hiện. Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một hình thức tham gia vào quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ hơn. Do vậy. đây cũng là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ cùa mình.
|