Mặt trận binh vận có tác dụng như thế nào trong chiến tranh

Một trong ba mũi giáp công

Trong mười năm đầu của cuộc chiến tranh giải phóng, nhất là khoảng thời gian trước phong trào Đồng Khởi, chúng ta gặp muôn vàn khó khăn. Ngô Đình Diệm thực hiện đàn áp phong trào cách mạng bằng chính sách "tố cộng", "diệt cộng" gây cho cách mạng nhiều tổn thất. Công tác binh vận trong thời gian này tập trung vận động đấu tranh với địch đòi chúng thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ và thực thi các quyền dân sinh, dân chủ. Thông qua các hình thức đấu tranh, ta đã làm chuyển hóa một bộ phận binh sĩ ngụy giác ngộ cách mạng, sao nhãng việc luyện tập, canh gác chiếu lệ, né tránh các đợt đi càn, lùng sục; có nơi án binh trong đồn bót không chấp hành lệnh hành quân của chỉ huy. Một số đã đào ngũ bỏ về với gia đình...

Công tác binh vận thật sự nổi bật trong Phong trào Đồng Khởi ở miền nam trong những năm 1959 - 1960. Phong trào đã thu hút hàng triệu nông dân tham gia, trong đó sự tham gia của "đội quân tóc dài" góp phần quan trọng vào thắng lợi. Với lực lượng đấu tranh chính trị, binh vận của đông đảo chị em phụ nữ, có sự hỗ trợ của vũ trang, ta đánh địch bằng ba mũi giáp công chính trị, quân sự, binh vận. Ở mũi binh vận, các mẹ, các chị đã vận động, lôi kéo chồng, con, em mình, giải thích chính sách của cách mạng, khơi dậy tinh thần dân tộc, khơi sâu mâu thuẫn trong nội bộ địch làm cho chúng hoang mang bỏ ngũ hoặc làm nội tuyến cho ta. Việc lấy bót Định Thủy hay phong trào "Tản cư ngược" trong cuộc đấu tranh của 12.000 phụ nữ và nông dân huyện Mỏ Cày, Bến Tre là điển hình thành công của công tác binh vận và kết hợp binh vận với vũ trang, làm cho phong trào sau đó lan rộng ra toàn miền nam.

Sau thất bại của Phong trào Đồng Khởi, chính quyền Mỹ - Việt Nam Cộng hòa bị đẩy vào thế lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược. Tháng 1-1960, G.Ke-nơ-đi đã chính thức công bố học thuyết mới và chọn Việt Nam làm nơi thí điểm "Chiến tranh đặc biệt". Với chiến lược này, Mỹ đã tăng cường và mở rộng vai trò lực lượng cố vấn, đưa lực lượng đặc nhiệm của Mỹ vào tham chiến, tăng cường lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa, được trang bị vũ khí hiện đại của Mỹ nhằm nhanh chóng bình định miền nam. Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực thi chương trình "Ấp chiến lược" như là "quốc sách", là "xương sống" của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" nhằm kìm kẹp nhân dân, tách nhân dân ra khỏi cách mạng, hòng bình định miền nam.

Trước tình hình đó, tháng 2-1962, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền nam, trong đó nhấn mạnh: "Phá ấp chiến lược là một nhiệm vụ có tính chất cấp bách, nhiệm vụ lâu dài". Và, ngay trong năm 1962, hệ thống tổ chức, lực lượng binh vận các cấp đã được xây dựng từ cấp Miền đến các cơ sở. Các cán bộ trong các ban binh vận đã kề vai sát cánh cùng nhân dân trong các ấp chiến lược, làng xã vừa đấu tranh trực diện vừa tích cực kêu gọi binh lính, người thân của mình trong quân đội Việt Nam Cộng hòa quay về chống lại việc gom dân, lập ấp. Tính chung trong hai năm 1962, 1963, nhờ công tác binh vận, tổng số binh sĩ địch rã ngũ lên đến 99.200 tên, số súng ta thu được là 634 khẩu... Tổ chức thanh niên chiến đấu của địch tan rã nghiêm trọng, có tỉnh tan rã đến 95%. Công tác binh vận vừa tạo thêm sức mạnh cho đấu tranh quân sự vừa phát triển, phát huy thắng lợi của đấu tranh quân sự và chính trị.

"Bám thắt lưng địch" để tuyên truyền

Từ cuối năm 1964 đầu năm 1965, đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ đã chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" bằng việc đưa quân viễn chinh và quân đồng minh đảm nhận vai trò chính, có kết hợp với quân Việt Nam Cộng hòa cùng với vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ. Lực lượng quân viễn chinh và quân đồng minh của Mỹ lúc cao nhất lên đến hơn nửa triệu người. Tận dụng ưu thế, quân Mỹ và đồng minh đã mở những cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ quân giải phóng, mở các cuộc phản công chiến lược vào hai mùa khô 1965 -1966 và 1966 - 1967. Khi ấy, ngoài việc đánh trả bằng quân sự, quân và dân miền nam còn đẩy mạnh tấn công binh vận. Ở các vành đai diệt Mỹ, ta thực hiện phương châm "bám thắt lưng địch" mà tuyên truyền, vận động, từ đó có những hiểu biết tường tận về kẻ thù để có những hình thức binh vận đạt hiệu quả.

Thực tế tình hình cho thấy, mặc dù lính Mỹ rất hung hăng trong hành động nhưng họ đều là con em nhân dân lao động Mỹ. Do bị đẩy sang chiến trường Việt Nam ác liệt, không quen thông thổ, khí hậu, họ nhớ quê hương gia đình, bị các sĩ quan chỉ huy ức hiếp, lại thêm nạn phân biệt mầu da trong quân đội nên họ cũng chán ngán cảnh chiến tranh. Họ phải đối diện với cái chết vô nghĩa để thực hiện cho mục đích của chính phủ cầm quyền xâm lược. Nắm bắt được những nhược điểm trên, công tác binh vận của ta đã sử dụng nhiều hình thức đấu tranh thích hợp, sáng tạo để thức tỉnh cho lính viễn chinh, nhằm hướng tới mục tiêu làm cho binh lính Mỹ hiểu và đồng tình với cuộc kháng chiến của ta, hạn chế hành động khủng bố, bắn giết của chúng, tiến tới đẩy mạnh phản chiến và đòi về nước.

Ở Khu V, ta đã tổ chức những lớp học tiếng Anh, tiếng Hàn cho cán bộ binh vận. Các địa phương cũng tổ chức tự đào tạo tại chỗ cho đội ngũ cán bộ binh vận hoặc tìm những học sinh biết tiếng Anh, tiếng Hàn soạn ra những câu giao dịch cần thiết để trang bị cho người làm công tác binh vận. Biện pháp chính và có hiệu quả, dễ thực hiện trong tiến hành tuyên truyền, vận động binh lính Mỹ, Hàn là truyền đơn, biểu ngữ, tranh ảnh... do nhân dân tự viết, tự vẽ...

Sau những thất bại trên chiến trường, mặc dù rất ngoan cố, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa-ri chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhưng chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn cố tình vi phạm Hiệp định, lấn chiếm vùng giải phóng nhằm xóa bỏ hiện trạng "da báo" theo hướng mở rộng vùng chiếm đóng của chúng. Hiệp định Pa-ri là một cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta đấu tranh với kẻ thù. Công tác binh vận trong thời gian này là đấu tranh đòi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pa-ri, vận động binh lính địch bỏ ngũ, rã ngũ...

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam đề ra chính sách binh vận 10 điểm, mở ra con đường hợp lý, hợp tình cho gia đình binh sĩ ở miền nam. Hội Phụ nữ Giải phóng và ngành binh vận ra sức xây dựng các tổ "binh vận thường trực", nghĩa là tập hợp những cán bộ chuyên việc làm binh vận. Từ đó xuất hiện những "tổ binh vận cơ động" là những chị em luôn bám theo những đơn vị chủ lực hay địa phương của địch mà hoạt động. Mang theo lương thực, thực phẩm, các mẹ, các chị đi tới cả các quân trường tự nhận là mẹ, vợ của lính, nắm tình hình gia đình lính là ai, ở đâu để có kế hoạch cùng với gia đình họ kêu gọi bỏ ngũ. Bằng cách đó, tỉnh Đồng Tháp đã làm tan rã 3.800 lính ngụy; tỉnh Trà Vinh làm tan rã 3.300 tên; một bà mẹ ở Xẻo Rô (Kiên Giang) trong hai tháng dùng ghe của mình chở 50 lính đào ngũ về quê; có ba chị em ở Tân Hiệp (Mỹ Tho) đưa 57 lính về quê... Do binh vận giỏi mà có trường hợp "mẹ lấy đồn con", "vợ lấy đồn chồng", nghĩa là các mẹ, các chị vận động con, chồng nộp đồn cho quân giải phóng...

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi" vẫn được tiến hành. Bất chấp hiểm nguy đến tính mạng, trước kẻ thù có đầy đủ súng ống, bằng tấm lòng của những người mẹ, người chị, người em, lực lượng phụ nữ đã kiên trì giáo dục, thuyết phục khích lệ tình cảm dân tộc trong binh lính, giải thích chính sách khoan hồng của cách mạng, chỉ rõ những vô lý trong khi bọn chỉ huy chóp bu thì bỏ chạy lại bắt họ "tử thủ", nhắc nhở họ nhớ về vợ con, bố mẹ, người thân đang trong cơn hoảng loạn, đang cần đến sự giúp đỡ của họ.

Những tấm gương tiêu biểu làm công tác binh, địch vận thời gian này là: Chị Phan Thị Nghĩ ở Đà Nẵng dẫn đầu quần chúng chặn đường xe tăng giặc, kêu gọi binh lính đầu hàng; chị Hảo ở Dĩ An (Sông Bé) cùng đồng bào vận động 2.000 lính dù bỏ súng đầu hàng; phụ nữ Rạch Giá chiếm chi khu Vĩnh Thuận, bao vây uy hiếp buộc tỉnh trưởng phải đầu hàng cùng binh sĩ, nộp 8.000 khẩu súng; ở Củ Chi, khi quân ta đánh căn cứ Đồng Dù, phụ nữ giúp bộ đội truy quét tàn quân, bắt tướng ngụy Lý Tòng Bá cải trang định bỏ trốn... Chỉ tính riêng một số tỉnh Nam Bộ, từ tháng 1 đến tháng 4-1975 đã có hơn 5.000 binh sĩ, sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hòa đào ngũ.

Công tác binh vận là một trong ba mũi giáp công được sử dụng hiệu quả ngay từ đầu cuộc kháng chiến, mang lại những thắng lợi quan trọng, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.

Khoa Lý Luận Mác-Lênin, tư Tưởng Hồ Chí Minh

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kỳ của dân tộc ta thắng lợi là kết quả tất yếu dựa trên nhiều nguyên nhân. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm bất khuất của dân tộc ta và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, người Việt Nam là những con người anh hùng, kiên cường, bất khuất, rất gan dạ, dũng cảm và giàu lòng yêu nước. Đứng trước một kẻ thù khổng lồ như đế quốc Mỹ, người Việt Nam không hề run sợ mà rất ngoan cường, Đảng và nhân dân ta đã làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quyết tâm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” giành toàn vẹn lãnh thổ đem lại độc lập tư do cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Sau hiệp định Pari được ký kết, Mỹ lộ rõ âm mưu nhằm hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam Việt Nam. Với bản chất xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới, Mỹ đã dùng hết tài lực, vật lực và nhân lực của mình hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự đắc địa làm bàn đạp cho Mỹ tấn công khu vực Đông Dương. Chúng thống trị nhân dân ta bằng chính sách tàn độc trên mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng. Đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thông qua chính sách dùng người Việt trị người Việt, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam đến tận xương tủy.  Không những thế chúng còn ra sức càn quét, giết hại chiến sĩ và đồng bào ta qua những đạo luật đẫm máu, luật 10/59 với phương châm “Thà giết lầm hơn bỏ sót”, đẩy mạnh phong trào “Tố cộng diệt cộng”, “Diệt cỏ tận gốc” gây tổn thất nặng nề cho cách mạng và gây oán khổ cho nhân dân ta. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất của ta. Nhưng, đối với nhân dân Việt Nam cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh chính nghĩa được nhân dân cả nước và bạn bè thế giới ủng hộ. Vì chúng ta buộc phải đánh đuổi quân xâm lược để giành lại độc lập tự do cho dân tộc mình. Còn đế quốc Mỹ, chúng từ bên kia quả địa cầu đem đội quân hùng hổ ngang nhiên sang xâm lược đất nước ta, gieo tang thương, chết chóc cho dân tộc ta. Cuộc chiến tranh xâm lược ấy, là cuộc chiến tranh phi nghĩa không được sự ủng hộ. Xác định rõ điều đó, Đảng và nhân dân ta khẳng định đường lối kháng chiến của ta chính là “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh” với thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện phong trào toàn dân đánh giặc, dùng bạo lực cách mạng để chống bạo lực phản cách mạng.  Chúng ta tiến hành đánh địch bằng hai chân, ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược. Thực hiện kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận để tạo thế và lực mạnh nhất quyết đánh bật bọn xâm lược ra khỏi nước ta. Trong đó, mũi giáp công thứ ba: Binh vận được Đảng và nhân dân ta vận dụng như một nghệ thuật quân sự điêu luyện.

Phương châm đánh giặc bằng hai chân, ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược. Đó là phương pháp cách mạng dựa trên việc đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trên cả ba vùng thành thị, nông thôn và miền núi, kết hợp chặt chẽ công kích địch bằng ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự và binh vận. Trong đó, phương pháp đánh địch bằng ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận là một trong những sáng tạo đặc biệt của Đảng và nhân dân ta. Đảng ta xác định rõ công tác binh vận là công tác vận động quần chúng cách mạng, là nhiệm vụ chiến lược, một trong ba mũi tấn công chiến lược của cách mạng miền Nam. Công tác binh vận là trách nhiệm của toàn Đảng, quân, dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong thế trận chiến tranh nhân dân, công tác binh vận đã được Đảng ta quan tâm chỉ đạo kịp thời. Bằng việc khơi dậy lòng yêu thương của con người với con người, với truyền thống con cháu vua Hùng, con rồng cháu tiên, ta đem đạo lý dân tộc, nghĩa tình đồng bào tác động vào trái tim, khối óc của binh sĩ đối phương, làm thức tỉnh lương tri của những con người lầm đường lạc lối. Hướng họ đi vào con đường của chân lý, nhận thức rõ về Đảng, tin Đảng và theo Đảng. Giúp họ bỏ súng quy hàng trở về với gia đình với lòng yêu thương, sự cưu mang đùm bọc của làng xóm láng giềng, để tất cả cùng vùng lên chống lại kẻ thù đang giày xéo quê hương mình. Đó là công tác binh vận, là một sáng tạo độc đáo của Đảng ta trong phát triển nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Công tác binh vận thật sự là một bộ phận của sức mạnh tổng hợp, một mũi tiến công chiến lược, không chỉ phục vụ và kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, mà còn độc lập chiến đấu diệt ác ôn, phá hoại phương tiện chiến tranh của địch, khởi nghĩa làm binh biến.

Công tác binh vận thực chất là công tác vận động quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối tượng của binh vận là quần chúng, đặc biệt bao gồm những người tham gia lực lượng ngụy quân, ngụy quyền của địch và gia đình họ.  Đại bộ phận họ và gia đình họ là người lao động, bị đế quốc và tay sai lôi kéo, dụ dỗ nhưng họ có ý thức dân tộc, vận động giác ngộ họ là yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng nhằm tập hợp đoàn kết mọi người Việt Nam yêu nước, tiến bộ vào mặt trận đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược, bọn tay sai bán nước. Ngoài những đối tượng trên, Đảng ta còn chú ý vận động thực hiện tốt chính sách đối với binh lính địch thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, binh lính theo tôn giáo và cả binh sĩ Mỹ. Đảng ta xem họ là một “lực lượng quần chúng đặc biệt”. Đối với binh sĩ Mỹ, Đảng ta xác định: Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là cuộc chiến tranh phi nghĩa, nó đi ngược lại với hòa bình và tiến bộ xã hội, nên binh sĩ Mỹ sang Việt Nam với một tư thế bị ép buộc, họ bị lôi kéo, dụ dỗ nên mang tâm lý thoái lui không có tinh thần chiến đấu. Chính vì vậy, cán bộ binh vận của ta dùng mọi cách, kể cả diễn đạt bằng ngôn ngữ cơ thể, để giúp cho binh sĩ Mỹ hiểu được cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là cuộc chiến phi nghĩa, nhân dân Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, chỉ muốn độc lập tự do cho nhân dân của mình. Nhờ vậy mà ta tuyên truyền, vận động được hàng loạt binh sĩ Mỹ quy hàng, gây xáo trộn hàng ngũ của địch, tổn thất nặng nề về mặt tâm lý, tinh thần của binh sĩ Mỹ, làm sụt giảm nghiêm trọng lực lượng của bọn ngụy quân ngụy quyền.

Khẳng định công tác binh vận là công tác chiến lược, là một trong ba mũi tấn công chiến lược do Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt. Đảng ta luôn quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy Ban binh vận vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng. Nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt đã được phân công phụ trách công tác này. Đảng luôn quan tâm giáo dục, quán triệt cho cán bộ, Đảng viên và chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách binh vận. Đảng cử cán bộ binh vận đi học tập nâng cao trình độ, sau đó về cài cắm những cán bộ này vào sâu trong hàng ngũ của địch, thực hiện phân hóa hàng ngũ kẻ thù, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thực hiện nắm bắt thông tin, kịp thời cung cấp thông tin có lợi cho cách mạng. Bên cạnh đó, ta thực hiện bám sát quần chúng nhân dân, đưa  cán bộ ta vào trong quần chúng, kịp thời nắm bắt tâm tư tình cảm của nhân dân để kịp trời tranh thủ sự ủng hộ của lưc lượng toàn dân. Tùy theo tình hình cụ thể diễn biến như thế nào mà Đảng ta vận dụng những hình thức binh vận phong phú đa dạng như: Dùng nội tuyến diệt ác ôn, nghi binh hù dọa địch, dùng lực lượng gia đình kêu gọi binh lính đầu hàng. Đặc biệt là dùng những người mẹ, người vợ hay người yêu của binh lính ngụy để kêu gọi binh lính trở về. Tại các đồn bót địch ta đều có bố trí tổ vị trí, tổ binh vận vũ trang, lực lượng binh vận thường trực, bao vây tuyên truyền phát động gia đình binh sĩ và binh sĩ. Trên cơ sở có phong trào quần chúng vận động binh sĩ tốt mà ta bắt mối quan hệ xây dựng nhiều cơ sở trong lòng địch. Cán bộ binh vận của ta khéo léo dùng tình cảm đánh trúng vào tâm tư nguyện vọng của binh lính ngụy, thức tỉnh lòng yêu quê hương đất nước của họ, vận động, giác ngộ giúp họ hiểu, tin và đi theo Đảng, bỏ súng quy hàng trở về với cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho bộ đội ta đánh địch lấy đồn địch. Từ sự giác ngộ của quần chúng và gia đình binh sĩ mà có phong trào quần chúng đấu tranh vận động tuyên truyền binh sĩ, đã tập hợp đông đảo quần chúng và gia đình binh sĩ thành mũi xung kích đánh địch, không có vũ khí mà thành công lớn, góp phần cho mũi vũ trang giảm đổ xương máu. Nhờ thực hiện tốt công tác binh vận và áp dụng những hình thức binh vận phù hợp mà ở nhiều nơi quân và dân ta tay không lấy được đồn địch, không hề có bất kỳ tổn thất hay thương vong. Đó là những thắng lợi bước đầu của công tác binh vận.

Chúng ta thấy rằng khi Đảng ta đã nhận thức đúng vai trò, vị trí công tác binh vận trong đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, kết hợp tốt vận động cách mạng trong binh sĩ địch với làm tan rã quân đội địch, thì công tác binh vận sẽ tập trung được sức mạnh to lớn của quần chúng, tạo thế và lực vững chắc cho cách mạng vượt qua mọi khó khăn thử thách giành thắng lợi. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang thành sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công tạo thế và lực mới tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Với phương châm trường kỳ mai phục, súc tích lực lượng, chuẩn bị thời cơ, phát động toàn Đảng, toàn dân đều làm công tác binh vận, biến lực lượng của địch thành lực lượng cách mạng. Đồng thời, kết hợp phương châm hai chân ba mũi, tấn công địch trên cả ba vùng chiến lược, xây dựng phát huy tốt khối công nông binh liên hiệp. Việc kết hợp giữa đấu tranh binh vận với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đây vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật của binh vận.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Ở từng giai đoạn cách mạng, từng chiến dịch, từng trận đánh, quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng thể hiện rất rõ về ba mũi giáp công. Lực lượng vũ trang của ta đã biết vận dụng sáng tạo và đúng mức công tác binh vận để phục vụ cho việc tiêu diệt sinh lực địch. Trong công tác vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng, công tác binh vận đã tạo thế cho hai phong trào chính trị và vũ trang từng bước vươn lên và đến lượt mũi chính trị, vũ trang sẽ tác động thúc đẩy mũi binh vận phát triển. Ba mũi giáp công thực chất là phương thức tấn công địch bằng bạo lực chính trị và vũ trang của quần chúng, là phong trào toàn dân đánh giặc trong tình hình mới, mang tính tự giác, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng. Chính điều đó đã góp phần tạo thế và lực cho Đảng và nhân dân ta thực hiện thành công chiến địch Hồ Chí Minh lịch sử, thật sự đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào, giúp Việt Nam giành toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân Việt Nam được độc lập tư do, ấm no, hạnh phúc. Hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nhân dân Việt Nam đang hưởng cuộc sống hòa bình hạnh phúc. Nhưng hơn lúc nào hết Đảng và nhân dân ta vẫn luôn cảnh giác với chiến lược diễn biến hòa bình, đề phòng với âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Công tác binh vận của Đảng ta vẫn được đặt lên hàng đầu, quân đội ta, nhân dân ta luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, độc lập tự do của nước nhà./.