Lợn móng cái được nuôi nhiều ở đâu

Ưu việt

Loại lợn này có nguồn gốc TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Tổ tiên lợn Móng Cái là lợn rừng, xuất xứ rừng nhiệt đới châu Á, được dân địa phương đưa về thuần hóa và nuôi tại nhà. Có ý kiến cho rằng, giống lợn này được tạo ra cách nay ít nhất 150 năm. Vùng biển với khí hậu trong lành, giàu thức ăn có lẽ là nhân tố quan trọng trong việc tạo ra giống lợn có màu lông đặc thù đen, trắng và hồng tím. Lợn Móng Cái có 3 loại: xương to, xương nhỡ và xương nhỏ. Những con xương càng nhỏ thì thịt càng thơm ngon. Hiện, những con lợn Móng Cái còn lại chủ yếu là loại xương nhỡ. Thịt thơm ngon, dễ nuôi, đẻ mắn, sai, thân thiện với con người, chịu được kham khổ, chống đỡ bệnh tật tốt, là những ưu việt của lợn Móng Cái.

Lợn móng cái được nuôi nhiều ở đâu

Hiệu quả mô hình nuôi lợn Móng Cái được nhiều địa phương nhân rộng - Ảnh: CTV

Trong các giống lợn nội như lợn ỉ, lợn Mường Khương, lợn mán… thì lợn nái Móng Cái nhiều ưu điểm nổi trội trong sinh sản. Đây có lẽ là giống lợn đẻ sai nhất, mỗi lứa trung bình 14 - 16 con, kỷ lục đến 20 - 22 con, trong khi các giống lợn khác, kể cả các giống lai cũng chỉ 10 - 12 con/lứa. Lợn nái Móng Cái còn đẻ sớm và đẻ dai. Trong điều kiện chăn nuôi bình thường, lợn nái Móng Cái chỉ cần nuôi 6 - 8 tháng là cho phối giống được và thời gian đẻ có thể kéo dài tới 10 năm, thậm chí lâu hơn. Đây còn là giống lợn đẻ dày, trung bình mỗi năm có thể sinh sản 1,9 - 2,2 lứa.

Lợn Móng Cái cũng có hạn chế là tỷ lệ nạc hơi thấp so với giống khác. Tỷ lệ nạc của thịt lợn do nái Móng Cái lai với đực ngoại chiếm 35 - 38%, nếu do nái F1 phối với đực ngoại cũng chỉ đạt 45%, còn lợn Móng Cái thuần thì chỉ 28 - 29%.

Phục hồi và phát triển

Trước đây Móng Cái và ỉ là hai giống lợn nội chính được nuôi và phát triển rộng trong ngành chăn nuôi tại miền Bắc và miền Trung nước ta. Do đặc điểm sinh sản tốt nên từ những năm 1960 - 1970, lợn Móng Cái lan nhanh khắp đồng bằng Bắc bộ làm cho vùng nuôi lợn ỉ bị thu hẹp dần. Từ sau 1975, giống lợn này phát triển đến miền Trung, miền Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp nông thôn sang công nghiệp, lợn Móng Cái không còn được nuôi phổ biến.

Nhằm gìn giữ nguồn gen quý này, những năm qua, Quảng Ninh đã có nhiều động thái tích cực trong việc bảo tồn giống lợn Móng Cái, do hai công ty CP Giống vật nuôi & Cây trồng Đông Triều và Giống vật nuôi Quảng Ninh đảm nhận. Ngay từ năm 2006, Công ty CP Giống vật nuôi & Cây trồng Đông Triều đã đầu tư đàn lợn nái Móng Cái 200 con. Hằng năm, Công ty sản xuất ra 4.400 con lợn giống, trong đó 2.000 con cái hậu bị và 2.400 con đực nuôi thương phẩm. Cùng với việc áp dụng các quy trình kỹ thuật để đảm bảo nuôi giữ nguồn gen, Công ty đã tích cực, chủ động tìm kiếm thị trường, phối hợp với các cơ sở chăn nuôi lớn ở miền Bắc cung cấp giống lợn Móng Cái thuần ra thị trường. Tại Công ty CP Giống vật nuôi Quảng Ninh cũng có đàn lợn Móng Cái 60 con nái giống gốc, hằng năm sản xuất ra 500 con lợn giống để cung cấp cho các địa phương trong tỉnh.

Lợn móng cái được nuôi nhiều ở đâu

Nhờ những ưu điểm vượt trội, mô hình nuôi lợn nái Móng cái được nhiều tỉnh (Bắc Kạn, Thái Nguyên, Thanh Hóa…) phát triển mạnh. Bà Hà Thị Chấm, thôn Chiềng Ban (xã Quang Hiến, huyện Lang Chánh, Thanh Hóa) cho biết: Lần đầu nuôi lợn nái Móng Cái song lợn dễ nuôi, ít dịch bệnh. Đến nay, gia đình bà đã cho lợn đẻ lứa thứ tư, lợn khỏe, đẻ sai. Ngay sau lứa thứ hai xuất bán được 24 triệu đồng, trung bình mỗi lứa cho thu nhập 12 triệu đồng. Ngoài nuôi lợn đẻ, bà còn để lại lợn con nuôi thịt. Tận dụng nguồn rau sẵn có trong vườn, trộn với cám gạo…; lợn chậm lớn nhưng thịt ngon.

Đây là giống lợn không chỉ thích hợp quy mô trang trại mà còn cho những hộ nuôi gia đình quy mô vừa và nhỏ.

>> Một số giống lợn nội, nhập nội, lai được nuôi ở Việt Nam

Lợn ỉ: Giống lợn địa phương ở miền Bắc, nay ít được nuôi do hiệu quả kinh tế không cao và đang có nguy cơ tuyệt chủng. Giống lợn ỉ mỡ (còn gọi là lợn ỉ nhăn) thịt ít mỡ nhiều (nạc 36%, mỡ 54%). Nuôi lợn ỉ cả năm cũng chỉ đạt 40 - 50 kg, trong khi giống lợn thịt nuôi sáu tháng đã 70 - 80 kg.

Lợn mán: Lợn mọi, heo mọi hay heo đốm là giống lợn nhỏ được lai giữa lợn nhà và lợn rừng xuất phát từ miền Trung được nuôi thả; thường chỉ nặng khoảng 10 kg, lưng cong, bụng ỏng, thịt săn chắc, ưa sạch sẽ; có thể dùng làm vật nuôi, thú cảnh hoặc làm nguyên liệu cho nhiều món ăn ngon.

Lợn đen Lũng Pù: Đây là giống lợn bản địa ở Mèo Vạc, đang được nuôi chủ yếu tại 4 huyện trong tỉnh Hà Giang. Lợn đen Lũng Pù có tầm vóc to lớn, nuôi 10 - 12 tháng đạt trọng lượng 80 - 90 kg. Lông đen, dày và ngắn; da thô; tai nhỏ cúp; mõm dài trung bình. Trung bình có 10 vú và bình quân đẻ 1,5 - 1,6 lứa/năm. Giống lợn này có hai loại; một loại 4 chân trắng, có đốm trắng ở trán và mõm; một loại đen tuyền. Đây là giống lợn chiếm tỷ lệ cao nhất và chất lượng tốt nhất so với các giống lợn địa phương khác của Hà Giang.

Lợn Yorkshire: Có nguồn gốc từ vùng Yorkshire nước Anh, hiện lợn được nuôi ở hầu khắp thế giới. Lợn Yorkshire có khả năng thích nghi tốt hơn các giống lợn ngoại khác. Lợn Yorkshire có lông trắng tuyền, tai đứng, trán rộng, ngực rộng, ngoại hình thể chất chắc chắn, nuôi con khéo, chịu được kham khổ, chất lượng thịt tốt, khả năng chống chịu stress cao. Con đực có khối lượng trưởng thành khoảng 300 - 400 kg, con cái 230 - 300 kg.

Lợn Ba Xuyên: Ba Xuyên hay heo bông là giống lợn đen đốm trắng xuất phát vùng Ba Xuyên (nay thuộc tỉnh Sóc Trăng). Được hình thành từ các giống lợn địa phương lai với lợn Hải Nam, lợn Craonnaise và lợn Berkshire. Lợn Ba Xuyên có khối lượng trưởng thành 120 - 150 kg, đẻ bình quân 8 - 9 con/lứa, nuôi con khéo. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc chỉ 39 - 40%. Chúng thường được dùng làm nái nền để lai với đực ngoại, tạo con lai nuôi thịt thương phẩm.

Kỹ thuật nuôi lợn Móng Cái mang lại hiệu quả kinh tế cao

Kỹ thuật nuôi lợn Móng Cái đơn giản hơn so với những giống lợn khác vì giống này ưu điểm về tính thích nghi, khả năng tăng trưởng, khả năng sinh sản và nuôi con rất tốt.

Lợn móng cái là giống lợn thuần chủng, có từ lâu đời tại Quảng Ninh và nay được phát triển ra nhiều địa phương của miền Bắc và một số tỉnh miền Trung. Lợn nái Móng Cái hiện đang là đàn nái nền nuôi phổ biến ở nước ta.

Lợn móng cái được nuôi nhiều ở đâu
Lợn Móng Cái có khả năng thích nghi, tăng trưởng, sinh sản và nuôi con rất tốt. Ảnh: Internet

Đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái

Ngoại hình: Đầu đen, giữa trán có một điểm trắng hình tam giác hay bầu dục. Mõm trắng, giữa vai và cổ có vành trắng vắt ngang, vành trắng này kéo dài tới bụng và 4 chân. Lưng và mông màu đen, khoảng này kéo xuống 1/2 bụng và bịt kín mông tạo thành lang “yên ngựa”. Lợn có đầu to, mõm bẹ dài vừa phải, cổ ngắn và to, lưng dài, rộng, hơi võng. Bụng tương đối gọn, càng về sau bụng càng sệ, lông thưa và nhỏ, da mỏng, mịn, chân sau đi bàn, lợn đa số có từ 12 vú trở lên.

Đặc điểm sinh sản: Thành thục tính sớm, 4-5 tháng tuổi đã xuất hiện động dục, tuy nhiên để phối giống được, lợn phải đạt trên 7 tháng tuổi, trọng lượng trên 60 kg. Lợn mắn đẻ, đẻ nhiều con, nuôi con khéo, sức tiết sữa cao, chi phí thức ăn thấp.

Chọn giống

Cần chọn lợn có nguồn gốc bố mẹ là giống tốt. Con bố phải được kiểm tra năng suất cá thể ở các cơ sở lợn giống, đạt 2 chỉ tiêu: Tốc độ tăng trọng bình quân 350g/ngày trở lên. Tiêu tốn thức ăn: dưới 4 kg/1kg tăng trọng. Con mẹ sản xuất phải đạt 18 lợn con cai sữa/năm, trọng lượng cai sữa trên 100 kg/năm, lợn con có độ đồng đều (cai sữa 45 ngày).

Chọn lợn có 12 vú trở lên, khoảng cách giữa 2 vú đều nhau, không có vú kẹ. Lợn có 4 chân chắc chắn, khoảng cách giữa 2 chân trước và chân sau vừa phải, móng không toè, đi đứng tự nhiên, không đi chữ bát, vòng kiềng hay đi bàn.

Phối giống

Lợn 7 – 8 tháng tuổi đạt trọng lượng 50 – 60 kg có thể cho phối giống, nên phối giống ở lần động đực thứ 2. Lợn nái động dục thường đứng nằm không yên, ít ăn đến bỏ ăn…, thời gian động dục kéo dài từ 3 đến 4 ngày.

Nái tơ thường cho phối giống vào sáng hay chiều ngày thứ 3 (tính từ lúc bắt đầu động dục). Nái dạ thường cho phối giống vào cuối ngày thứ 2 hay đầu ngày thứ 3 (tính từ lúc bắt đầu động dục). Nên cho phối giống 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.

Chăm sóc nuôi dưỡng lợn

Các nguồn thức ăn gồm nhóm nguồn thức ăn cung cấp tinh bột: Cám gạo, bột ngô, bột củ sắn, bã bia, bỗng rượu, cơn thừa, khoai lang, khoai tây, bã đậu ….; Nguồn thức ăn cung cấp đạm gồm có: Bã mắm, khô dầu, đậu tương ép, khô lạc, đỗ tương, bột cá …; Nguồn thức ăn cung cấp khoáng: Bột xương, bột đá, bột sò…; Nguồn bổ xung Vitamin: Các loại rau như : Rau muống, rau lấp, dây lang, thân cây lạc, thân cây khoai nước, các loại bèo (bèo tấm, bèo tây, bèo dâu), thân cây chuối, các loại lá rau như lá su hào, bắp cải…

Sau khi cai sữa heo con chúng ta tiến hành phân lô, phân đàn để tiện chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc phân lô, phân đàn phải đảm bảo các nguyên tắc: Khi ghép tránh không để cho heo phân biệt đàn và cắn xé lẫn nhau; Mật độ nuôi thích hợp như sau: từ 10 – 35 kg có 0,4 – 0,5 m2/con, từ 35 – 100 kg có 0,8 m2/con.

Phòng bệnh

Nên tiêm phòng cho heo lúc 8 – 12 tuần tuổi (giai đoạn trước khi heo đưa vào nuôi thịt). Tiêm các loại vacine thông thường (Dịch tả, FMD), riêng đối với bệnh Phó thương hàn cần tiêm cho heo trong thời kì heo con theo mẹ và sau đó có thể tiêm phòng nhắc lại. Thông thường sau khi tiêm lần 1 khoảng 10 – 20 ngày, heo có thể được tiêm nhắc lại hay bổ sung. Tẩy giun sán: Trước khi đưa heo vào nuôi thịt nên tiến hành tẩy các loại giun sán.

Minh Châu

Nguồn: VietQ

  • kỹ thuật nuôi lợn móng cái