Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Hiện Tượng Tâm Lý Xã Hội Trong Tổ Chức Là Gì?

Theo từ điển triết học năm 1986, tâm lý xã hội là “toàn bộ tình cảm, ý chí, tâm trạng, thói quen, truyền thống thể hiện trong tâm lý của các nhóm xã hội, các giai cấp, các dân tộc, nhân dân các nước do có chung những điều kiện kinh tế – xã hội trong đời sống của họ”.

Bạn đang xem: Hiện tượng tâm lý xã hội là gì

Vậy hiện tượng tâm lý xã hội là gì Vai trò của hiện tượng tâm lý xã hội trong tổ chức ra sao? Các tác động cũng như bầu không khí của tổ chức có liên quan gì đến các hiện tượng tâm lý xã hội. Cùng otworzumysl.com khám phá trong bài viết sau đây nhé.

Danh mục bài viết

Sự lây truyền tâm lý (lây lan tâm lý) trong tổ chứcXung đột tâm lý trong tổ chứcXung đột giữa các cá nhânXung đột tâm lý giữa cá nhân và tập thế

Sự lây truyền tâm lý (lây lan tâm lý) trong tổ chức

Trước khi nói về sự lây lan tâm lý trong tổ chức, chúng ta cần phải làm rõ khái niệm hiện tượng tâm lý xã hội là gì trước.

Theo đó, các hiện tượng tâm lý xã hội phản ánh cuộc sống xã hội nên rất đa dạng và phong phú, đóng vai trò điểu khiển, điều chỉnh hoạt động và các hành vi ứng xử của con người trong xã hội.

Tâm lý xã hội trong tổ chức là tập hợp những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong quá trình tồn tại và phát triển của bản thân tập thể, phản ánh các mối quan hệ diễn ra trong tập thể đó. Hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể các tổ chức, cơ quan bao gồm nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau như: sự lây truyền tâm lý, dư luận tập thể, bầu không khí tâm lý trong tập thể, truyền thống tập thể, xung đột tâm lý trong tập thể…

Sự lây lan tâm lý là hiện tượng phổ biến nhất và cũng được thể hiện rõ nét hơn cả trong số các hiện tượng tâm lý xã hội thường xảy ra trong tập thể các tố chức, biểu hiện của nó cũng rất đa dạng và phong phú. Lây lan tâm lý xảy ra là do một người (môt nhóm) dễ dàng chịu tác động cảm xúc của một người (một nhóm) khác trong quá trình tiếp xúc trực tiếp.

Lây truyền tâm lý cũng chính là một trong các cơ chế tác động qua lại giữa các cá nhân trong tập thể. Kết quả của sự lây truyền tâm lý tạo ra một trạng thái xúc cảm chung của một nhóm, một tập thể lao động. Anh hưỏng của sự lây truyền tâm lý có thể là tích cực hoặc tiêu cực đối với cá nhân và tập thể tùy theo nguyên nhân gây ra.

Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Lây truyền tâm lý chính là một trong các cơ chế tác động qua lại giữa các cá nhân trong tập thể

Nguyên nhân của sự lây lan tâm lý

Nguyên nhân gây ra sự lây truyền tâm lý rất khác nhau và rất đa dạng. Tất cả những tác nhân kích thích tới các giác quan của con người gây ra những xúc cảm khác nhau ở họ đểu có thể trở thành nguyên nhân của sự lây truyền tâm lý trong tập thể.

Cơ chế của sự lây truyền tâm lý là sự bắt chước. Sự bắt chước gây nên lây truyền tâm lý có thể chia làm hai loại: băt chước có ý thức và bắt chước vô ý thức.

Hiện tượng tâm lý lây lan

Hiện tượng lây truyền tâm lý có thể diễn ra dưới hai hình thức:

+ Dao động từ từ.

+ Bùng nổ: xảy ra khi con người rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh cao độ, ý chí, sự tự chủ bị giảm sút, bắt chước hành động của người khác một cách máy móc.

Hiện tượng lây truyền tâm lý có thế ảnh hưởng tốt nhưng cũng có thể gây những ảnh hưởng xấu tới cá nhân và hoạt động chung của tập thế. Cùng với ám thị, bắt chước, lây truyền tâm lý trong một số trưòng hợp còn có thể gây nên sự hoảng loạn, điên loạn số đông người trong tập thể. Người lãnh đạo cần quan tâm tới hiện tượng lây truyền tâm lý, kịp thời ngăn chặn, hạn chế những lây truyền tâm lý tiêu cực, xử lý những hiện tượng hoảng loạn có thể nảy sinh cũng như tạo điều kiện cho những nhân tố tích cực có thế gây nên những lây truyền tâm lý tốt trong tổ chức của mình.

Dư luận tập thể trong tổ chức

Đây cũng là một trong các hiện tượng tâm lý xã hội khá phổ biến trong tập thể, là sản phẩm tất yếu của sự tác động qua lại giữa mọi người trong tập thể. Đó là hình thức thể hiện tâm trạng xã hội trước những sự kiện, hiện tượng, hành vi xảy ra trong tập thể, biểu thị trí tuệ tập thể, tâm tư, nguyện vọng của họ.

Dư luận nhóm, dư luận tập thể và dư luận xã hội không hoàn toàn trùng nhau, do chủ thể của mỗi loại dư luận có những lợi ích riêng. Chủ thể của dư luận nhóm là một nhóm, của dư luận tập thể là một tập thể nào đó.

Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Dư luận tập thể thể hiện tâm trạng xã hội trước những sự kiện, hiện tượng, hành vi xảy ra trong tập thể

Dư luận trong tập thể tổ chức, cơ quan có sức mạnh to lớn tác động tới mỗi cá nhân, nhân cách của mỗi ngưòi trong tập thể và tập thể. Nó điều chỉnh hành vi của các cá nhân và tập thể. Nó chính là chất keo xã hội gắn bó những con người riêng biệt trong tổ chức thành một khối thống nhất. Dư luận tập thể được coi như một công cụ kiểm tra một cách chính xác, nhanh nhạy và tuyệt đối ở mọi lúc, mọi nơi hành vi của con người.

Dư luận trong tập thể các tổ chức có thể phân biệt thành hai loại: dư luận chính thức và dư luận không chính thức.

Dư luận chính thức: là dư luận được ngưòi lãnh đạo ủng hộDư luận không chính thức: là dư luận được hình thành một cách tự phát, không được lãnh đạo ủng hộ.

Dư luận có thế đúng do những thông tin thu nhận được đảm bảo được tính chính xác. Loại dư luận này có ảnh hưởng tốt tới sự phát triển của tập thể. Ngược lại, dư luận cũng có thể là sai, do con người trong tập thể thu nhận được những thông tin thiếu chính xác, sai lệch một cách vô tình hay cố ý.

Nếu thông tin không đảm bảo được tính chính xác, công khai và nhạy bén sẽ tạo ra những tin đồn trong tập thể. Đó chính là cơ sở của việc hình thành những dư luận không chính thức trong tập thể.

Người lãnh đạo, quản lý cần quan tâm tới những dư luận trong tập thể, sử dụng dư luận tập thể như một phương tiện quản lý, giáo dục cá nhân và tập thể: kịp thời nắm bắt dư luận trong tập thể tổ chức, cơ quan; ngăn chăn kịp thời những dư luận không chính xác, đồng thời cần khuyến khích, tạo điều kiện cho những dư luận đúng đắn lan tỏa nhanh chóng trong tập thể.

Có thể sử dụng những phương tiện, biện pháp, thông qua nhiều hình thức, con đường khác nhau một cách thích hợp để tác động một cách có hiệu quả tới dư luận. Để xây dựng, tạo ra được dư luận lành mạnh, cần chú ý đảm bảo nguyên tắc về tính chân thực, tính nhân đạo.

Bầu không khí tâm lý trong tổ chức

Bầu không khí tâm lý xã hội trong tập thể tổ chức là trạng thái tâm lý trong tập thể, nét đặc trưng phản ánh thực trạng các mối quan hệ nảy sinh trong hoạt đông của tập thể, bao gồm các mối quan hệ về tình cảm giữa các cá nhân, các bộ phận của tập thể trên cơ sở các mối quan hê chính thức cũng như không chính thức trong tổ chức đó.

Như vậy, bầu không khí tâm lý trong tập thể không đơn thuần là tổng số các đặc điểm tâm lý cá nhân của các thành viên trong tập thể. Nó biểu hiện mức độ hoà hợp các đăc điểm tâm lý trong quan hệ liên nhân cách của họ và được hình thành từ thái độ của mọi người trong tổ chức, cơ quan đối vối công việc, bạn bè, đồng nghiệp và người lãnh đạo của họ.

Bầu không khí tâm lý trong tập thể các tổ chức, cơ quan đóng vai trò to lớn đối với mỗi cá nhân và hoạt động chung của tập thể. Nó như một cái nền (phông), trên đó diễn ra các hoạt động, sự giao tiếp của các thành viên trong tập thể. Nó ảnh hưởng rõ rệt đến ý thức của mỗi cá nhân.

Tâm trạng vui vẻ, phấn khởi làm tăng tính tích cực, sáng tạo của con người trong công việc, nâng cao tinh thần đoàn kết và sự giúp đỡ lẫn nhau, hiệu quả hoạt động của cá nhân và tập thể được nâng lên rõ rệt.

Điều đó chỉ có thể có được ở những tổ chức có bầu không khí tâm lý lành mạnh, thân ái. Ngược lại, năng suất và hiệu quả lao động của cá nhân và cả tập thể sẽ bị ảnh hưởng xấu một cách trực tiếp bởi một bầu không khí tâm lý căng thẳng, tẻ nhạt, gây ra những xúc cảm, tâm trạng tiêu cực ở các thành viên, ở những tổ chức, cơ quan như vậy thường xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn, các nhóm không chính thức đối lập với tập thể, với lãnh đạo, thiếu sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong tập thể.

Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Bầu không khí trong tập thể là trạng thái tâm lý trong tập thể, phản ánh thực trạng các mối quan hệ nảy sinh trong hoạt đông của tập thể

Bầu không khí tâm lý trong tập thể các tồ chức, cơ quan chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu những yếu tố cấu thành bầu không khí tâm lý trong các tổ chức có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động quản lý. Mặc dù cho đến nay, việc nghiên cứu vấn đề này còn chưa đầy đủ, nhưng có thể tạm thời có thể nêu lên những yếu tố sau đây:

Phong cách làm việc của người lãnh đạo.Sự hòa hợp về mặt tâm lý giữa các thành viên.Điều kiện làm việc (trang trí, vệ sinh, ánh sáng, nhiệt độ, an toàn…).Chế độ đãi ngộ, phúc lợi.Tính chất công việc.Các yếu tố khác.

Xem thêm: Chia Sẽ Cách Chơi Cờ Úp Trên Thiên Thiên Tượng Kỳ Học Online Cờ Tướng!

Xây dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh trong tập thể là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người quản lý. Để làm được điều đó, cần phải làm cho mỗi cá nhân cảm thấy thoải mái trong cuộc sống, hoạt động trong tổ chức của mình. Bởi vì, chính điều đó là cơ sở của bầu không khí tâm lý lành mạnh.

Xem Thêm:  Tổng hợp các Combo Meta trong Auto Chess và cách khắc chế

Để xây dựng được điều đó đòi hỏi nhà quản lý không chỉ chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, lợi ích cho nhân viên, mà còn phải quan tâm đến nhiều vấn để khác nữa, như: xây dựng cho mình phong cách lãnh đạo hợp lý, có hiệu quả, quan tâm tới đời sống tinh thần của nhân viên, tạo nên sự tương hợp tâm lý giữa các cá nhân trong tập thể…

Truyền thống tập thể

Truyền thống cũng là một hiện tượng tâm lý quan trọng trong tổ chức. Truyền thống là kết quả quá trình hoạt động của tập thể được ghi lại (dưới hình thức những khái niệm và quy tắc điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của các cá nhân trong tập thể). Mỗi tập thể cần phải bảo vệ và xây dựng vững chắc những truyền thống tốt đẹp cho tập thể của mình, do vai trò và ý nghĩa của nó:

Trước hết, truyền thống được coi là một nhân tố rất vững chắc, là chất xúc tác hoà nhập từng cá nhân với tập thể, gắn liền những cá nhân trong tập thể lại với nhau thành một chỉnh thể thống nhất và tạo ra tính độc đáo của tập thể đó. Nó là niềm tự hào của mỗi thành viên trong tập thể. Bên cạnh đó, không thể không nói tới vai trò của nó đối với việc giáo dục nhân cách trong tập thể, là tấm gương để mỗi thành viên noi theo.

Xung đột tâm lý trong tổ chức

Xung đột là vấn đề tâm lý xã hội phức tạp trong hoạt động của tập thể các tổ chức, cơ quan. Đó là hiện tượng tâm lý vốn có giữa con người với con người trong tập thể. Quản lý những mối quan hệ qua lại trong tập thể đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý cần có nhận thức đúng đắn về xung đột và cách thức giải quyết xung đột trong tổ chức.

Xung đột tâm lý là một trong các hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến thể hiện hạng thái thay đổi đối với sự cân bằng, tương hợp tâm lý trước đó. Xung đột trong tập thể là những mâu thuẫn mang tính chất đối kháng nảy sinh giữa con người với con người trong quá trình hoạt động cùng nhau trong tập thế.

Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Xung đột trong tập thể là những mâu thuẫn nảy sinh giữa con người với con người trong quá trình hoạt động cùng nhau trong tập thế

Xung đột có thể có hai loại: xung đột giữa cá nhân với cá nhân và xung đột giữa cá nhân với tập thể.

Xung đột tâm lý trong tập thế có thể do mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ công việc, cũng có thể do mâu thuẫn trong quan hệ cá nhân, về bản chất, xung đột là sự đụng độ về lợi ích và các giá trị xã hội của con người hoặc của các nhóm người. Nó có thể có hai loại: xung đột giữa các cá nhân hoặc xung đột giữa tập thể với cá nhân.

Xung đột giữa các cá nhân

Trong tập thể các cơ quan, tổ chức có thể xảy ra những xung đột giữa cá nhân này với cá nhân khác. Nguyên nhân làm nảy sinh xung đột giữa các cá nhân rất khác nhau: sự không tương hợp về mặt tâm lý; hiểu lầm nhau; bất đồng trong quan điểm, suy nghĩ, tình cảm, thiếu sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, sự lấn át của người này đối với người khác…

Các hình thức của xung đột giữa các cá nhân

Xung đột tâm lý giữa các cá nhân có thể xảy ra theo các hình thức sau đây:

Xung đột giả: trong cuộc xung đột này chỉ có một người chống đối người kia một cách tích cực dưới hình thức công khai hoặc không công khai.Xung đột tương đồng: cả hai bên đều tham gia tích cực, nguyên nhân của chúng có thể rất phức tạp, những người tham gia xung đột có nhiều lý do khác nhau để gây ra xung đột.Diễn biến của các cuộc xung đột

Các cuộc xung đột giữa các cá nhân có thể diễn ra rất khác nhau:

Tiến triển một cách lôgic theo chiểu hướng đi lên. Hai bên không chịu chấp nhận đề nghị của nhau, làm cho cuọc xung đột ngày một tiến triển.Tiến triển một cách mạnh mẽ, dữ dội, theo kiểu “núi lở”. Hành động của hai bên đều quyết liệt, không thể điều khiển được.Tiến triển bùng nổ: Đây là cuộc xung đột thường được bắt đầu sau khi một trong những ngưòi tham gia đã phải ngấm ngầm chịu đựng nhau và mâu thuẫn trở nên căng thẳng tột độ trong một khoảnh khắc làm bùng nổ xung đột. Những cuộc xung đột này thường có sức mạnh rất lớn và kết thúc rất nhanh.Cách kết thúc của các cuộc xung đột cá nhân

– Giải quyết triệt để, dập tắt cuộc xung đột: xung đột được kết thúc hoàn toàn với thắng lợi của người này và sự thất bại của người kia, hoặc bằng sự thoả hiệp, nhượng bộ lẫn nhau. Trong cuộc xung đột giả, khi chủ thể đã giải toả được những ức chế của mình thì lúc đó xung đột được giải quyết hoàn toàn.

– Thoái trào, chuyển sang trạng thái âm ỉ khi cuộc xung đột kéo dài mà vẫn không giải quyết được. Hai bên tham gia xung đột đều trở nên mệt mỏi. Xung đột chuyển sang trạng thái âm ỉ và có nguy cơ trở lại bất cứ lúc nào.

– Kết thúc giả: người trong cuộc có ảo tưởng về kết thúc tốt đẹp của xung đột vì một lý do nào đó, trong khi nguyên nhân xung đột vẫn chưa được giải quyết. Khi đối phương trở lại lập trường, quan điểm trước đó của mình, mâu thuẫn giữa hai bên càng trở nên gay gắt, khả năng tái xung đột là rất lớn.

Xem Thêm:  Code Bách Chiến Vô Song 3

CÓ THỂ BẢN QUAN TÂM:

Xung đột tâm lý giữa cá nhân và tập thế

Xung đột tâm lý giữa cá nhân với tập thể có thể là xung đột giữa một thành viên với tập thể, cũng có thể là xung đột giữa cá nhân lãnh đạo với nhóm, tập thể. Đây là loại xung đột liên cá nhân đặc biệt, do nhiêu nguyên nhân gây ra. Có thể là do những nguyên nhân xuât phát từ đặc điểm cá nhân, cũng có thể do những nguyên nhân từ phía tập thể. Ví dụ: Tập thể có nhiều những phần tử xấu, lười biếng, vô kỷ luật… mâu thuẫn với cá nhân tốt, tích cực hoặc mâu thuẫn giữa một cá nhân xấu, ích kỷ, không trung thực trong công việc với một tập thể tốt; mâu thuẫn giữa đặc điểm phát triển của tập thể với phong cách của người lãnh đạo.

Giải quyết xung đột

Và việc giải quyết xung đột cần đảm bảo những nguyên tắc sau đây:

+ Tính khách quan và sự nhượng bộ cần thiết: Nguyên tắc này đặt ra đối với những người trong cuộc cũng như với người đứng ra giải quyết xung đột. Nó đòi hỏi mỗi người cần phải bình tĩnh trước vấn đề xảy ra, đứng trên lập trường, quan điểm của người kia để nhìn nhận sự việc một cách khách quan, chú ý đến mối quan tâm của họ và có sự nhân nhượng cần thiết.

Chỉ có trên cơ sở như vậy mới có thể tiên hành thương lượng nhằm đạt tới kết quả mà hai bên có thể chấp nhận. Người đóng vai trò trung gian phải nghe cả hai phía, không đứng về bên nào, thận trọng trong việc tìm ra nguyên nhân làm nảy sinh xung đột qua việc phân tích kỹ những lý lẽ mà hai bên đưa ra, đối chiếu giữa lời nói và hành động của họ trong thực tế.

Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Tính khách quan và sự nhượng bộ là yếu tốt cần thiết để giải quyết các xung đột

+ Tính phân minh và thái độ thiện chí: Xung đột chỉ được giải quyết một cách triệt để nếu như người hòa giải có thái độ phân minh, làm sáng tỏ sự việc giúp cho hai bên xung đột thấy rõ: Ai đúng, ai sai? Sai ở mức độ như thế nào? Tính phân minh phải gắn bó chặt chẽ với thái độ thiện chí. Không thể có tính phân minh nếu thiếu thái độ thiện chí và ngược lại.

+ Giữ khoảng cách và thái độ tự chủ: khi con người đã rơi vào xung đột, bất cứ ai cũng bị tình cảm lấn át, rơi vào trạng thái xúc động, tình cảm lúc này thường thiên về một phía… Do đó cần phải cố gắng giữ dược sự tự chủ, giữ khoảng cách nhất định với đối phương, giúp giảm bớt sự căng thẳng giữa hai bên.

+ Đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo: Việc giải quyết xung đột phải tuỳ trường hợp cụ thể, nguyên nhân xung đột, tính phức tạp và ảnh hưởng của từng cuộc xung đột, đặc điểm, trạng thái tâm lý của hai bên… để đưa ra các biện pháp thích hợp.

Các biện pháp giải quyết xung đột

Xuất phát từ những đòi hỏi có tính nguyên tắc trên, để giải quyết xung đột cần sử dụng những biện pháp sau đây:

+Biện pháp thuyết phục: dùng người thứ ba làm trung gian hoà giải cuộc xung đột. Biện pháp này được sử dụng khi cuộc xung đột tương đồng đã biến thành cuộc xung đột phức tạp, hai bên không tự giải quyết được bằng sự thương lượng, thoả thuận với nhau.

Vai trò của người trung gian là làm cho hai bên đều tin tưởng vào mình để xác định được nguyên nhân đích thực của cuộc xung đột, giúp họ hiểu nhau hơn và có thể thoả hiệp, nhượng bộ lẫn nhau.

Vì vậy, người đóng vai trò hoà giải phải là người có uy tín trong tổ chức. Nếu cuộc xung đột đã căng thẳng tới mức những người trong cuộc mất hết tính khách quan thì người thứ ba nên là một người ở đơn vị khác, không có quyền lợi cá nhân liên quan đến các bên xung đột. Có thể là người lãnh đạo ở một đơn vị khác.

Người trung gian cần can thiệp kịp thời vào cuộc xung đột và phải tự tin trong hành động của mình.

Lấy ví dụ về các hiện tượng tâm lý

Có thể dùng người thứ ba làm trung gian hoà giải cuộc xung đột

+ Biện pháp hành chính:Nếu đã dùng biện pháp thuyết phục như trên mà cuộc xung đột vẫn không giải quyết được thì cần áp dụng các biện pháp hành chính, đó là chia tách những người tham gia xung đột: sau khi các biện pháp thuyết phục không mang lại kết quả, tiếp tục kéo dài, hoặc trong trường hợp thấy không thể sử dụng các biện pháp khác thì cần áp dụng biện pháp này. Ví dụ: chuyển sang đơn vị khác hoặc đưa một bên xung đột ra khỏi tập thể.

+ Ngăn chặn cuộc xung đột từ mệnh lệnh bằng lời nói, áp lực của quần chúng đến lực lượng của chính quyền và cơ quan an ninh. Người đứng ra giải quyết phải có tính tự chủ cao, có ý thức tổ chức cao, hành động bình tĩnh nhưng cương quyết trên cơ sở nội quy, quy chế.

Trên đây là những phương pháp cơ bản giải quyết xung đột. Một sự xung đột mang tính tích cực hay tiêu cực, gây rối loạn hay có ý nghĩa xây dựng, điều này phụ thuộc rất nhiều vào cách xử lý của người lãnh đạo trong cách nhìn nhận các hiện tượng tâm lý tập thể.