Khái niệm đảng chính trị là gì

Mục lục

  • 1 Phát triển mang tính lịch sử
    • 1.1 Sự xuất hiện Đảng ở Anh
    • 1.2 Sự xuất hiện Đảng ở Hoa Kỳ
    • 1.3 Lan rộng ra toàn cầu
  • 2 Nguồn gốc của các đảng chính trị
    • 2.1 Sự phân chia xã hội
    • 2.2 Ưu đãi cá nhân và nhóm
    • 2.3 Đảng như là giải pháp xã hội heuristic
  • 3 Cấu trúc
    • 3.1 Các đảng nghị viện
  • 4 Kinh phí
    • 4.1 Nguồn quỹ đảng
  • 5 Chú thích

Phát triển mang tính lịch sửSửa đổi

Ý tưởng về việc mọi người thành lập các nhóm lớn hoặc phe phái để ủng hộ cho lợi ích chung của họ đã có từ thời cổ xưa. Plato đề cập đến các phe phái chính trị của Athens cổ điển ở Cộng hòa,[1] và Aristotle thảo luận về xu hướng của các loại chính phủ khác nhau để tạo ra các phe phái trong Chính trị.[2] Một số tranh chấp cổ xưa cũng là phe phái, giống như các cuộc bạo loạn Nika giữa hai phe đua xe ngựa tại Hippodrome of Constantinople. Tuy nhiên, các đảng chính trị hiện đại được coi là đã xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỷ 19, xuất hiện đầu tiên ở châu Âu và Hoa Kỳ.[3][4] Điều khác biệt giữa các đảng chính trị với các phe phái và các nhóm lợi ích là các đảng chính trị sử dụng một nhãn rõ ràng để xác định các thành viên của họ có chung các mục tiêu bầu cử và lập pháp.[4][5] Sự chuyển đổi từ phe phái lỏng lẻo thành các đảng chính trị hiện đại có tổ chức được coi là lần đầu tiên xảy ra ở Vương quốc Anh hoặc Hoa Kỳ, với Đảng Bảo thủ của Vương quốc Anh và Đảng Dân chủ Hoa Kỳ thường được gọi là "đảng chính trị liên tục lâu đời nhất thế giới" ".[6]

Sự xuất hiện Đảng ở AnhSửa đổi

Hệ thống đảng xuất hiện ở nước Anh thời kỳ đầu hiện đại được coi là một trong những thế giới đầu tiên, với nguồn gốc từ các phe phái xuất hiện từ Cuộc khủng hoảng loại trừ và Cách mạng Vinh quang cuối thế kỷ 17.[7] :4 Phe Whig ban đầu tự tổ chức xung quanh ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến Tin lành trái ngược với sự cai trị tuyệt đối, trong khi phe Tory bảo thủ (ban đầu là phe Hoàng gia hoặc Cavalier của Nội chiến Anh) ủng hộ chế độ quân chủ mạnh mẽ.[7] :4 Hai nhóm này có cấu trúc tranh chấp trong chính trị của Vương quốc Anh trong suốt thế kỷ 18. Trong nhiều thế kỷ tiếp theo, các phe phái lỏng lẻo này bắt đầu áp dụng các khuynh hướng chính trị và hệ tư tưởng mạch lạc hơn: các tư tưởng chính trị tự do của John Locke và khái niệm về các quyền phổ quát được các nhà lý thuyết như Algernon Sidney và sau này là John Stuart Mill có ảnh hưởng lớn.[8][9] trong khi Tories cuối cùng đã được xác định với các nhà triết học bảo thủ như Edmund Burke.[10]

Thời kỳ giữa sự ra đời của chủ nghĩa bè phái, xung quanh Cách mạng Vinh quang và sự gia nhập của George III năm 1760 được đặc trưng bởi quyền lực tối cao của Whig, trong đó Whigs vẫn là khối quyền lực nhất và luôn luôn bảo vệ chế độ quân chủ lập hiến với giới hạn nghiêm ngặt về quyền lực của quân chủ. sự gia nhập của một vị vua Công giáo, và tin vào việc mở rộng lòng khoan dung đối với những người theo đạo Tin lành và bất đồng chính kiến.[11] Mặc dù phe Tories đã mất chức trong nửa thế kỷ, nhưng phần lớn họ vẫn là một phe đối lập thống nhất với Whigs.

Khi họ mất quyền lực, giới lãnh đạo Whig cũ đã giải thể thành một thập kỷ hỗn loạn phe phái với các phe Grenvillite, Bedfordite, Rockinghamite và Chathamite khác nhau liên tiếp nắm quyền, và tất cả đều tự coi mình là "Whigs". Các đảng chính trị đặc biệt đầu tiên xuất hiện từ sự hỗn loạn này. Bữa tiệc đầu tiên như vậy là Rockingham Whigs [12] dưới sự lãnh đạo của Charles Watson-Wentworth và sự hướng dẫn trí tuệ của nhà triết học chính trị Edmund Burke. Burke đã đưa ra một triết lý mô tả khuôn khổ cơ bản của đảng chính trị là "một cơ thể đàn ông đoàn kết để thúc đẩy bởi nỗ lực chung của họ vì lợi ích quốc gia, theo một số nguyên tắc cụ thể mà tất cả họ đều đồng ý".[13] Trái ngược với sự bất ổn của các phe phái trước đây, vốn thường bị ràng buộc với một nhà lãnh đạo cụ thể và có thể tan rã nếu bị loại khỏi quyền lực, đảng này tập trung vào một tập hợp các nguyên tắc cốt lõi và không nắm quyền như một phe đối lập thống nhất với chính phủ.[14]

Trong A Block for the Wigs (1783), James Gillray đã châm biếm sự trở lại quyền lực của Fox trong liên minh với North. George III là đầu gỗ ở trung tâm.

Một liên minh bao gồm Whigs Rockingham, do Bá tước Shelburne lãnh đạo, nắm quyền vào năm 1782, chỉ sụp đổ sau cái chết của Rockingham. Chính phủ mới, do chính trị gia cấp tiến Charles James Fox lãnh đạo trong liên minh với Lord North, đã sớm bị hạ bệ và được thay thế bởi William Pitt the Younger vào năm 1783. Bây giờ, một hệ thống hai đảng chính hiệu bắt đầu xuất hiện, với việc Pitt lãnh đạo Tories mới chống lại một đảng "Whig" được tái lập do Fox lãnh đạo.[15][16] Đảng Bảo thủ hiện đại đã được tạo ra từ những Học thuyết Pittite này. Năm 1859 dưới thời Lord Palmerston, Whigs, chịu ảnh hưởng nặng nề từ những ý tưởng tự do cổ điển của Adam Smith,[17] đã tham gia cùng với những người theo Tory thương mại tự do của Robert Peel và các Xạ thủ độc lập để thành lập Đảng Tự do.[18]

Sự xuất hiện Đảng ở Hoa KỳSửa đổi

Mặc dù các nhà soạn thảo của Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã không lường trước được rằng các tranh chấp chính trị của Mỹ sẽ được tổ chức chủ yếu xung quanh các đảng chính trị, những tranh cãi chính trị vào đầu những năm 1790 về phạm vi quyền lực của chính phủ liên bang đã chứng kiến sự xuất hiện của hai đảng chính trị: Đảng Liên bang và Đảng Cộng hòa Dân chủ, được Alexander Hamilton và Thomas Jefferson, lãnh đạo.[19][20] Tuy nhiên, một sự đồng thuận đạt được về những vấn đề này đã chấm dứt chính trị đảng năm 1816 trong gần một thập kỷ, một giai đoạn thường được gọi là Kỷ nguyên của cảm giác tốt.[21]

Sự chia rẽ của Đảng Cộng hòa Dân chủ sau cuộc bầu cử tổng thống năm 1824 gây tranh cãi đã dẫn đến sự tái xuất hiện của các đảng chính trị. Hai đảng lớn sẽ thống trị bối cảnh chính trị trong một phần tư thế kỷ tiếp theo: Đảng Dân chủ, do Andrew Jackson, và Đảng Whig, do Henry Clay thành lập từ Đảng Cộng hòa Quốc gia và từ các nhóm Anti-Jackson khác. Khi Đảng Whig tan rã vào giữa những năm 1850, vị trí là một đảng chính trị lớn của Hoa Kỳ đã được Đảng Cộng hòa lấp đầy.[22]

Lan rộng ra toàn cầuSửa đổi

Charles Stewart Parnell, lãnh đạo Đảng Nghị viện Ireland

Một ứng cử viên khác cho hệ thống đảng hiện đại đầu tiên xuất hiện là Thụy Điển.[3] Trong suốt nửa sau của thế kỷ 19, mô hình chính trị của đảng đã được thông qua trên khắp châu Âu. Tại Đức, Pháp, Áo và các nơi khác, các cuộc cách mạng năm 1848 đã làm dấy lên làn sóng tình cảm tự do và sự hình thành của các cơ quan đại diện và các đảng chính trị. Cuối thế kỷ chứng kiến sự hình thành của các đảng xã hội chủ nghĩa lớn ở châu Âu, một số phù hợp với triết lý của Karl Marx, một số khác thích nghi với nền dân chủ xã hội thông qua việc sử dụng các phương pháp cải cách và dần dần.[23]

Đồng thời, Đảng Liên minh Nội quy, vận động cho Luật gia đình cho Ireland trong Quốc hội Anh, đã được thay đổi về cơ bản bởi nhà lãnh đạo chính trị Ailen Charles Stewart Parnell vào những năm 1880. Năm 1882, ông đổi tên thành đảng của ông để các đảng quốc hội Ái Nhĩ Lan và tạo ra một tổ chức tốt cơ sở cơ cấu, giới thiệu thành viên để thay thế quảng cáo hoc nhóm không chính thức. Ông đã tạo ra một quy trình tuyển chọn mới để đảm bảo lựa chọn chuyên nghiệp các ứng cử viên của đảng cam kết đảm nhận vị trí của họ, và vào năm 1884, ông đã áp đặt một "cam kết của đảng", buộc các nghị sĩ phải bỏ phiếu trong một quốc hội trong mọi trường hợp. Việc tạo ra một đảng roi da nghiêm ngặt và cơ cấu đảng chính thức là duy nhất vào thời điểm đó, trước đó chỉ có Đảng Dân chủ Xã hội Đức (1875), mặc dù sau đó đã bị Otto von Bismarck đàn áp từ năm 1878 đến 1890. Cơ cấu và kiểm soát hiệu quả của các bên này trái ngược với các quy tắc lỏng lẻo và tính không chính thức linh hoạt được tìm thấy trong các đảng chính của Anh, và đại diện cho sự phát triển của các hình thức tổ chức đảng mới, tạo thành một "mô hình" trong thế kỷ 20.[24]

1, Khái niệm, bản chất của đảng chính trị

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin, đảng chính trị là bộ phận tích cực nhất, có tổ chức của một giai cấp nào đó hay một tầng lớp nào đó của một giai cấp. Sự tồn tại của đảng chính trị gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự không đồng nhất của giai cấp và của các tầng lớp không hợp thành giai cấp.

Đảng chính trị là một trong những công cụ quan trọng nhất mà nhờ đó giai cấp đấu tranh cho lợi ích của mình. Đảng chính trị công cụ tập hợp giai cấp của một giai cấp. Với chức năng đó, đảng chính trị có khả năng đoàn kết sức mạnh của cả giai cấp, tạo thành một nguồn động lực to lớn phục vụ mục tiêu đấu tranh, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. (Ví dụ như giai cấp công nhân Việt Nam được tập hợp sức mạnh dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN đã đấu tranh giành quyền lợi cho công nhân nói riêng, nhân dân lao động VN nói chung và thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả là giải phóng đất nước khỏi ách áp sự xâm lược của đế quốc)

Đảng chính trị bắt đầu trong điều kiện đấu tranh giai cấp đã phát triển đến trình độ nhất định của cuộc đấu tranh chính trị, khi mục tiêu giành chính quyền được đặt ra trực tiếp.

Đảng gắn liền với cơ cấu giai cấp. Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu giai cấp của nó đảng có thể là đảng vô sản, đảng tư sản, đảng địa chủ…đảng liên minh các giai cấp: đảng tư sản- tiểu tư sản, đảng tư sản – địa chủ…đôi khi đảng còn mang màu sắc dân tộc.

Đảng chính trị là tổ chức luôn theo đuổi những mục đích chính trị nhất định, cố gắng gây ảnh hưởng, lãnh đạo đối với chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành và giữ chính quyền để thực hiện lợi ích của mình.

Đảng chính trị hành động bằng thuyết phục, truyền bá những quan điểm của mình, tập hợp những người cùng chí hướng. Khi cầm quyền ngoài các phương tiện vật chất, các cơ quan báo chí, đảng còn lãnh đạo bằng chính quyền. Để thực hiện mục tiêu, đảng tiến hành thực hiện một số chính sách nhất định, thực hiện những nguyên tắc tổ chức nhất định: điều lệ, quy chế…

Dưới chế độ TBCN, chế độ đa nguyên chính trị bề ngoài có vẻ dân chủ, các đảng đều có quyền tranh cử nhưng về thật chất đều là nhất nguyên chính trị. Đảng lớn nhất, có thế lực nhất sẽ nắm quyền để bảo về lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ TBCN.

Trong các nước XHCN, ĐCS là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng tập hợp và tổ chức giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh vì sự thống nhất về mục tiêu, ý chí hoạt động nhằm thủ tiêu thủ tiêu chế độ tư hữu.

Như vậy đảng chính trị nào cũng mang bản chất giai cấp, tồn tại với mục đích nắm quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mà nó đại diện. Không có đảng chính trị nào phi giai cấp, siêu giai cấp.

Luật về đảng chính trị trong nền dân chủ và thể chế pháp quyềnTiểu luận: Tương lai nào cho luật về đảng chính trị ở Việt Nam? – Kỳ 3

01/02/2015 · by · in Vấn đề Pháp lý


Nhà nghiên cứu Hoàng Sơn
Gửi cho Luật Khoa tạp chí từ Hà Nội

Dân chủ và pháp quyền: haimặt của một chỉnh thể

Muốn quản trị tốt một quốc gia, hai trụ cột quan trọng chính là nền dân chủ và thể chế pháp quyền. Hai yếu tố này là hai mặt của một chỉnh thể, không thể có cái này mà không có cái kia.

Khái niệm đảng chính trị là gì

Dân chủ chính là việc thừa nhận rộng rãi một cấu trúc nhà nước với đầy đủ tính chất của một nhà nước quản trị xã hội tốt, trong đó, đảm bảo sự tự do và công bằng trong hoạt động ứng cử và bầu cử. Chính điều này sẽ đem lại một lợi ích lớn lao thông qua việc sẽ mang lại những thay đổi quan trọng cho quốc gia với những ý tưởng chính trị mới.

Tương tự như vậy, một nhà nước dân chủ sẽ phải có một chính quyền chịu trách nhiệm trước công chúng và minh bạch trong quá trình ban hành các quyết sách, quyết định chính trị. Dân chủ sẽ giúp cung cấp một sự quản trị tốt đối với sự cạnh tranh giữa các nhóm tôn giáo, dân tộc và các lợi ích văn hóa một cách lâu dài và hòa bình. Sự quản trị tốt này thể hiện ở việc quá trình cạnh tranh này sẽ diễn ra với các rủi ro trong các lợi ích xung đột sẽ diễn ra ở mức tối thiểu. Bởi những xung đột lợi ích này nếu không được giải quyết khéo léo và ổn thỏa, sẽ dẫn tới sự cản trở cho quá trình phát triển đất nước.

Bài viết này nằm trongtiểu luận “Tương lai nào cho luật về đảng chính trị ở Việt Nam?” được Luật Khoa tạp chí đăng tải dài kỳ kể từ ngày 30/1.

Kỳ 1:Đảng chính trị là gì?
Kỳ 2:Đảng chính trị ra đời từ khi nào?

Nhưng chỉ bản thân dân chủ không đủ giúp cho một nhà nước quản trị tốt. Một nhà nước quản trị tốt cần nhiều hơn chỉ là dân chủ với việc bầu cử, ứng cử tự do hay đơn thuần là sự phát triển trong các đảng chính trị. Một điều quan trọng vô cùng đó là các cam kết cho nguyên tắc pháp quyền. Nếu không có pháp quyền, sẽ không có đất sống cho dân chủ. Mối tương tác quan trọng giữa dân chủ và pháp quyền đã được thể hiện trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc: “chúng tôi sẽ hết sức nỗ lực cho việc thúc đẩy dân chủ và tăng cường sức mạnh của pháp quyền”.[1]

Mặc dù khái niệm pháp quyền (rule of law) được hiểu khác nhau, tuy nhiên, về cơ bản, khái niệm về pháp quyền thể hiện mối quan hệ giữa luật pháp và chính quyền. Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia phát triển trên thế giới, như Canada chẳng hạn, pháp quyền được thể hiện trên hai phương diện: “Thứ nhất, tất cả mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật, cho dù cá nhân đó đang nắm giữ vị trị nào đó trong xã hội; Thứ hai, bản thân nhà nước cũng bị ràng buộc bởi pháp luật do chính mình ban hành và phải tuân thủ pháp luật đó. Không một cá nhân nào bị kết án nếu đó không phải là phán quyết của một tòa án hợp pháp. Nói một cách khác, tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật”[2].

Một thể chế pháp quyền luôn đòi hỏi sức mạnh của luật pháp thể hiện qua việc tôn trọng Hiến pháp và luật pháp trong xã hội. Theo đó, các đảng chính trị cũng phải tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ quy định của hiến pháp và luật pháp quốc gia nói chung.

Các đảng chính trị tìm kiếm quyền lực để cai trị, và tìm kiếm phương thức cai trị. Tuy nhiên, trong khi đang tìm kiếm quyền lực thì đảng chính trị lại bị cai trị bởi bộ máy nhà nước đang nắm giữ quyền lực chính trị. Bộ máy nhà nước này đặt ra những nguyên tắc, luật lệ để quản lý hoạt động của các đảng chính trị. Các luật lệ quy định về hoạt động của các đảng chính trị thường được gọi chung là luật về đảng chính trị (Party Law).

Luật về đảng chính trị là gì?

Luật về đảng chính trị đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống luật pháp của một quốc gia. Trong một thể chế pháp quyền, luật về đảng chính trị cung cấp một khung khổ pháp lý cho hoạt động của các đảng chính trị, nhưng nó cũng là phương tiện để hạn chế sự lạm quyền của các đảng chính trị đang cầm quyền.

Theo Richard S. Katz của đại học John Hopkin[3] thì các chế định của luật về đảng được thiết lập bởi 3 mục tiêu cơ bản:

Thứ nhất, là để xác định rõ ai hoặc cơ quan nào sẽ có quyền được công nhận là một đảng chính trị? Điều này sẽ bao hàm nhiều khía cạnh. Một, để kiểm soát quá trình liên quan đến bầu cử, ứng cử cũng như giải quyết các tranh chấp hoặc sai phạm trong quá trình bầu cử, ứng cử này. Khía cạnh thứ hai là xác định rõ và kiểm soát các vấn đề liên quan đến tài chính và truyền thông của tổ chức chính trị đó. Ví dụ như trong Luật cơ bản của nước Đức (German Basic Law) quy định rõ: “Các đảng chính trị phải tham gia vào việc thiết lập ý chí chính trị cho nhân dân”.[4] Khía cạnh thứ ba liên quan đến vai trò của đảng chính trị đó đối với nhà nước.

Thứ hai,là thiết lập một khung khổ pháp lý cho các hoạt động liên quan của đảng chính trị. Nếu thiếu vắng một hệ thống luật về đảng chính trị, sẽ dẫn tới hoặc là đảng chính trị cầm quyền trở nên lạm quyền hoặc đảng chính trị chỉ được coi như một tổ chức bình thường như bất kỳ các tổ chức nào khác trong xã hội. Cho nên, nếu có một hệ thống luật về đảng chính trị đầy đủ, một mặt sẽ đề cao vai trò chính trị của đảng đó, nhưng mặt khác cũng hạn chế sự lạm dụng quyền lực của đảng chính trị đối với nhà nước và xã hội.

Thứ ba, là để điều chỉnh các cách thức hoạt động trong nội bộ đảng, ngăn ngừa và hạn chế sự lạm quyền ngay trong nội bộ của đảng chính trị đó.

Luật về đảng chính trị cần quy định những gì?

Khái niệm luật về đảng chính trị được hiểu rất khác nhau, tùy theo từng bối cảnh quốc gia và ý kiến cá nhân của từng học giả. Tuy nhiên, hiểu một cách chung nhất, luật về đảng chính trị là một bộ phận trong luật pháp của một quốc gia liên quan đến việc quy định những gì một đảng chính trị được phép làm hoặc không được phép làm. Thông thường, các luật này sẽ quy định về việc thành lập đảng, cách thức tổ chức và hoạt động của đảng chính trị.

Quảng cáo

Chia sẻ:

Có liên quan

  • Nền Dân Chủ Hoa Kỳ có thể xuất khẩu được không?
  • Khái niệm đảng chính trị là gì
  • Tháng Mười Hai 30, 2021
  • Trong "Lịch sử thế giới phương Tây"
  • Chung quanh vấn đề nhận thức và đánh giá Hồ Chí Minh hiện nay
  • Khái niệm đảng chính trị là gì
  • Tháng Năm 19, 2015
  • Trong "Lịch sử Việt Nam"
  • Việt gian bán nước trong Lịch Sử (bài 8)
  • Khái niệm đảng chính trị là gì
  • Tháng Sáu 26, 2015
  • Trong "Lịch sử Việt Nam"

Đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền: quan niệm và quan hệ

Ngày phát hành: 17/04/2020 Lượt xem 9495

Khái niệm đảng chính trị là gì

Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “Nghiên cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách cơ bản, toàn diện”[1]. Đại hội XI, trong phương hướng, giải pháp xây dựng Đảng những năm tới, Đảng ta tiếp tục xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”[2]. Đại hội XII, trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng đinh: “Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”. Nghiên cứu làm rõ các vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền trong giai đoạn hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết, làm cơ sở cho Đảng ta tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức lãnh đạo.

Đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo là phạm trù thuộc khoa học Chính trị. Mặc nhiên vậy, song tới nay không phải đã hết những ý kiến khác nhau thậm chí trái chiều nhau. Bài viết góp phần tạo nên sự thống nhất về nhận thức tạo cơ sở cho hành động đúng đắn và sáng tạo trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới.

1. Đảng chính trị (political party)

Trong lịch sử, sự ra đời của đảng chính trị (ĐCT) gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và sự hình thành nhà nước. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến giai đoạn cao, đấu tranh chính trị, đảng chính trị mới xuất hiện.Và, đương nhiên nó cũng chỉ tồn tại trong điều kiện xã hội còn giai cấp. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, ĐCT ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức quyền lực, thực hiện các hoạt động tập hợp, tổ chức lực lượng những người cùng chính kiến, quan điểm để đấu tranh vì mục tiêu giai cấp, giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó cho các lợi ích của giai cấp. Ngày nay, các đảng chính trị phát triển với nhiều hình thức, ở khắp các quốc gia trên thế giới. Tương ứng với cơ cấu giai cấp của nó, các đảng chính trị có thể là đảng tư sản, đảng vô sản, đảng nông dân, đảng địa chủ, đảng tiểu tư sản, cũng có thể là liên minh giai cấp (giữa tư sản và địa chủ…). Khái niệm ĐCT, tùy vào những cách tiếp cận khác nhau, có những quan niệm khác nhau.

Nhà Đảng học người Pháp M. Duverger, tiếp cận từ góc độ tranh cử, giành chính quyền, cho rằng đảng chính trị là tổ chức của những người tự nguyện, được lập ra để tranh cử vào các cơ quan công quyền[3]. Tác giả cuốn Từ điển Chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Jay M. Shafrits tiếp cận từ góc độ quyền lực công, cho rằng ĐCT là tổ chức tìm cách nắm quyền lực chính trị bằng cách bầu thành viên của mình vào các cơ quan nhà nước, nhờ đó tư tưởng chính trị của họ được phản ánh trong chính sách công cộng[4]

Từ điển Bách khoa Triết học Liên Xô, tiếp cận từ góc độ giai cấp, định nghĩa: ĐCT là một tổ chức chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp, hay một tổ chức xã hội, liên kết những đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới mục đích, lý tưởng nhất định.

Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: đảng là một nhóm người kết lại với nhau để hoạt động với những mục đích nhất định; là tổ chức chính trị đại diện và đấu tranh vì quyền lợi của một giai cấp, một tầng lớp xã hội[5].

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định ĐCT là đội tiên phong của một giai cấp (hay một tầng lớp) nào đó, được tổ chức dựa trên nền tảng hệ tư tưởng nhất định, hoạt động theo điều lệ, cương lĩnh, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng xác định.

Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu giai cấp, có thể có mô hình một đảng, hai đảng hoặc đa đảng, tuy nhiên về thực chất, ĐCT luôn mang bản chất giai cấp. Chính vì vậy, khi đánh giá về ĐCT, không nên chỉ căn cứ vào tên gọi hay cương lĩnh chính trị của nó mà phải nghiên cứu hành động thực tế của các đảng. Như Lênin đã chỉ rõ “Để nhận rõ được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thực sự của các đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc họ làm, chứ không phải những lời nói về bản thân họ, xem họ giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ họ như thế nào trong những vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp khác nhau trong xã hội: địa chủ, tư bản, nông dân, công nhân…”[6]

ĐCT là một dạng đặc biệt của tổ chức xã hội. Nó khác với các hiệp hội, liên đoàn hay các nghiệp đoàn xã hội ở cách thức tổ chức và đặc biệt là cách thức hoạt động và mục tiêu đậm tính chính trị- đoạt, sử dụng quyền lực chính trị, tập trung ở quyền lực nhà nước.

Trong xã hội đương đại, ĐCT không chỉ đơn thuần đấu tranh để tham gia vào việc thể hiện các quan điểm chính trị mà còn đấu tranh để giành quyền đại diện cho người dân, trước hết trong cơ quan lập pháp, quốc hội. Thông thường, các ĐCT đều giành quyền lực thông qua việc bỏ phiếu của người dân. Trách nhiệm của ĐCT đối với người dân thể hiện qua việc thực hiện các cam kết mà ĐCT đã đưa ra trong chiến dịch tranh cử. Ý chí của người bỏ phiếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với một ĐCT. Cũng với ý nghĩa này, có thể xem chính trị đảng phái là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng tranh giành quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước một cách hòa bình với nhau thông qua bầu cử. Trong các nước tư sản, hình thái chủ yếu của chính trị đảng phái là có chế độ nội các nghị viện và chế độ tổng thống. Để bảo đảm cho Quốc hội và các Đảng được điều hành ổn định, điều quan trọng là sự bảo đảm tự do về chính trị, ngôn luận, lập hội, bầu cử công bằng và giảm bớt những căng thẳng trong nội bộ xã hội. Các ĐCT luôn là trung tâm cho các cuộc thảo luận và tranh luận về việc đổi mới nền chính trị cũng như thực hiện các thay đổi chính trị. Các lợi ích cho chính thể sẽ được tìm thấy qua các quyết sách sáng suốt của ĐCT cầm quyền. Những lợi ích như vậy, không chỉ tìm thấy trong đảng cầm quyền mà còn ở trong các các ĐCT đối lập. Theo quan niệm của các nhà tư tưởng phương Tây, trong một thể chế dân chủ, đảng đối lập thường có chức năng như là một “cơ quan giám sát” đối với các chính sách của chính phủ hoặc cho các lựa chọn chính trị trong tương lai. Các ĐCT đối lập thường là đối thủ đáng ngại cho đảng cầm quyền, nhưng chính vì vậy, sự tồn tại của các đảng đối lập là hết sức cần thiết trong một thể chế dân chủ.

Từ tất cả sự phân tích trên có thể đưa ra một quan niệm chung về ĐCT như sau:Đảng chính trị (hay còn gọi là chính đảng), là một tổ chức chính trị đại diện của một giai cấp, một lực lượng xã hội, có (hoặc không có) tư cách pháp nhân, gồm những người có cùng chứng kiến, tự nguyện tham gia hoạt động liên tục, nhằm thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Nói cách khác, ĐCT là tổ chức chính trị bao gồm những người tự nguyện, có cùng chính kiến, đại diện và bảo vệ lợi ích của một giai cấp, một tầng lớp xã hội, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó nhằm thực hiện lý tưởng của giai cấp.

Trong các nền chính trị đa đảng, tuỳ theo tương quan lực lượng và năng lực chủ quan của mỗi đảng, các ĐCT có thể là đảng cầm quyền, liên minh cầm quyền hoặc ở vị trí đối lập (không cầm quyền), thậm chí ở vị trí bất hợp pháp.

Để thực hiện mục tiêu của mình nhất là với đảng cầm quyền, ĐCT phải thực hiện các hoạt động theo chức năng là tập hợp, giáo dục cử tri, người dân tham gia vào đời sống chính trị; lựa chọn để cung cấp nguồn nhân lực cho bộ máy chính quyền nhà nước và hoạch định đường lối, chính sách quốc gia nhằm duy trì sự thống trị về chính trị và thực hiện lợi ích của giai cấp.

ĐCT là vấn đề trọng tâm của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, quyền lực chính trị của ĐCT xét ở góc độ nào đó chỉ là “quyền lực tư” của giai cấp, nhóm xã hội, không phải là “quyền lực công”, không phải là quyền lực nhà nước. Chừng nào mà ĐCT trở thành đảng cầm quyền thì quyền lực của nó được chuyển hóa thành “quyền lực công” hay quyền lực nhà nước và có tính quyết định đối với toàn xã hội.

2. Đảng lãnh đạo(Party leadership)

Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức. Nói cách khác, lãnh đạo là việc đề ra mục tiêu, dẫn dắt, động viên, truyền cảm hứng cho mọi thành viên trong tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Nhiệm vụ lãnh đạo có thể thuộc một người hoặc một tổ chức.

- Đảng lãnh đạo là khái niệm chỉ chức năng, chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng, khác với chức năng quản lý (kiến tạo) của Nhà nước, hoặc chức năng tập hợp quần chúng của các đoàn thể chính trị- xã hội.

- Khái niệm Đảng lãnh đạo các nhà kinh điển Mác-Lênin nêu ra vào những năm cuối của thế kỷ XIX, khi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản đã chuyển sang giai đoạn “tự giác”, đấu tranh chính trị, đòi hỏi phải có lực lượng dẫn đường. Bởi vậy, khái niệm “Đảng lãnh đạo” được hiểu là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống áp bức bóc lột thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để có được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân lao động đối với Đảng của giai cấp công nhân. V.I.Lênin khẳng định: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để giành lấy sự đồng tình, để giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động không phải kết thúc khi giai cấp vô sản đã cướp được chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như trước, có điều là với hình thức khác mà thôi”[7]

Với Hồ Chí Minh, cùng với việc khẳng định vai trò quyết định của Đảng cách mạng, “Cách mạng trước hết phải Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”[8], Người còn chỉ rõ thực chất của sự lãnh đạo: : “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho tốt”[9]; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”[10]

Có thể hiểu khái niệm Đảng lãnh đạo như sau:

Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là một khái niệm chỉ chức năng của tổ chức đảng - chức năng lãnh đạo, đó là sự tác động, gây ảnh hưởng của Đảng (qua các tổ chức đảng và đảng viên) đối với quần chúng nhân dân và xã hội hướng quần chúng nhân dân đến việc thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đề ra.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo là một khái niệm chỉ phương thức hoạt động của một tổ chức chính trị tuyệt đối không sử dụng phương thức “cai trị” của tổ chức công quyền, dù tổ chức chính trị ở vị thế không cầm quyền hay cầm quyền.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo là khái niệm để chỉ một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị nhằm đoạt và sử dụng quyền lực nhà nước.

Thứ tư, Đảng lãnh đạo là khái niệm chỉ tất cả các cán bộ của Đảng ở bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân.

Để xác lập và duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng chính trị, đòi hỏi đảng phải là đội tiên phong cả cả về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt động tạo nên sức mạnh quyền uy của Đảng được nhân dân tôn vinh, tin tưởng, ủng hộ và đi theo. Và, khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải luôn xứng đáng với vị thế, tư cách cầm quyền một cách chính đáng.

3. Đảng cầm quyền (Ruling party)

Đảng cầm quyền là khái niệm chỉ vị thế, tư cách chính trị cầm quyền của Đảng chính trị sau khi giành được chính quyền nhà nước, thực hiện sự lãnh đạo chủ yếu bằng quyền lực của bộ máy công quyền để phục vụ cho lợi ích của nhân dân.

Thuật ngữ “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra từ trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, khi cho rằng: “bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm toàn bộ chính quyền”.

Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga, ngày 27-3-1922, lần đầu tiên V.I. Lê-nin đưa ra khái niệm “Đảng cộng sản cầm quyền” có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền được thực hiện theo Cương lĩnh chính trị của Đảng và phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Nói cách khác, Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo xã hội trong điều kiện có chính quyền, lãnh đạo chủ yếu bằng bộ máy công quyền để phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động.

Đảng cầm quyền là khái niệm dùng để phân biệt về vị thế, tư cách chính đảng của đảng chính trị đã nắm được chính quyền so với thời kỳ trước khi nắm chính quyền và so với các đảng khác chưa hoặc không nắm được chính quyền.

Khái niệm Đảng cầm quyền được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng(cầm quyền tuyệt đối, nắm được toàn bộ nhà nước) là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn xã hội, làm cho xã hội vận động theo quỹ đạo mà Đảng chính trị mong muốn; theo nghĩa hẹp (cầm quyền không tuyệt đối, chỉ nắm được cơ quan hành pháp) là Đảng chính trị trực tiếp nắm giữ được cơ quan hành pháp để duy trì, áp đặt ý đồ chính trị của Đảng đối với xã hội.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và củng cố Đảng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và của mỗi đảng viên chân chính. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là hệ thống các quan điểm lý luận mang bản chất cách mạng, khoa học và sáng tạo về Đảng và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt…Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mục đích của Đảng cầm quyền: “không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ quốc và của nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, là Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng phải hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.

Trong bản Di chúc lịch sử, Người đã khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Và Người cũng đã căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng được Đại hội X của Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”. Khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vị thế, tư cách chính đáng của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội chủ yếu bằng quyền lực của bộ máy công quyền và bằng sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Thuật ngữ “đảng cầm quyền” được sử dụng tương đồng với các thuật ngữ như “đảng chấp chính” hay “đảng nắm chính quyền”…

Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.

Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên..

Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo, can thiệp vào chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và bằng sức mạnh của quyền lực công (công quyền, không phải quyền lực riêng của Đảng- tư quyền) tổ chức, tập hợp, hướng dẫn, tạo động lực cho nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng cầm quyền đã đề ra. Nghĩa là Đảng can thiệp về phương diện chính trị một cách chính đáng vào Nhà nước, để Nhà nước được tổ chức và vận hành vì mục đích của Đảng cầm quyền, thống nhất với lợi ích của nhân dân.

Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo, sau khi nắm chính quyền, Đảng có nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.

Trong xã hội dân chủ, đảng cầm quyền là đảng giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh; đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt trong hệ thống quyền lực nhà nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi chính sách công; đảng lãnh đạo những người của đảng trong hệ thống quyền lực nhà nước thực hiện mục tiêu của đảng thông qua chính sách của nhà nước.

Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, Đảng cầm quyền là đảng đã giành được chính quyền và thực hiện quyền lãnh đạo về mặt chính trị đối với nhà nước và xã hội, chủ yếu bằng sức mạnh của quyền lực công thực hiện Cương lĩnh phát triển đất nước của đảng cầm quyền, phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền và vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà đảng cầm quyền và nhà nước đó đại diện.

Đảng cầm quyền là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị và là hệ quả hoạt động tất yếu của các lực lượng chính trị ở các quốc gia và theo đó, nó là hiện tượng phổ biến trên thế giới hiện nay. Tại không ít các nước trên thế giới, các chính đảng - nhờ có chiến lược, phương thức hoạt động phù hợp - đã là đảng cầm quyền trong thời gian khá dài, đồng thời đã đóng góp quan trọng trong việc chấn hưng đất nước.

Tuy có sự khác biệt giữa đảng cầm quyền trong một hệ thống chính trị đa đảng với đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị có một đảng duy nhất cầm quyền, song giữa hai hệ thống cầm quyền vẫn có điểm chung đó là đảng cầm quyền phải có năng lực cầm quyền. Theo các tác giả của đề tài cấp nhà nước Mã số: KX.10.04, do GS.TS Đỗ Hoài Nam làm chủ nhiệm cho rằng, năng lực cầm quyền của Đảng cầm quyền được thể ở 3 yếu tố quan trọng nhất:

1) Có lý luận cầm quyền đúng.

2) Có Cương lĩnh cầm quyền phù hợp, được số đông trong xã hội ủng hộ và thực hiện.

3) Có bộ máy cầm quyền và đội ngũ cán bộ cầm quyền giỏi. Tất nhiên, vẫn còn những ý kiến khác nhau, song đã là đảng cầm quyền tất yếu phải bảo đảm cầm quyền một cách chính đáng có khả năng tạo dựng niềm tin của Đảng đối với quần chúng nhân dân bằng cả lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động, từ đó tạo nên sức mạnh quyền uy của Đảng được nhân dân ủng hộ và đi theo.

Trong một xã hội có nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, có thể có nhiều đảng phái, trong đó có đảng cầm quyền, đảng không cầm quyền. Ở mỗi nước, căn cứ vào những điều kiện lịch sử cụ thể, trong từng giai đoạn nhất định, tùy theo tương quan lực lượng mà có thể một đảng cầm quyền hay liên minh hai hoặc nhiều đảng cầm quyền. Đối với các nước theo chế độ đa đảng, khái niệm đảng cầm quyền gồm hai trường hợp.

Thứ nhất: một đảng duy nhất cầm quyền khi đảng đó chiếm đa số trong nghị viện, có quyền lập chính phủ (trong nhiệm kỳ của Quốc hội, nghị viện).

Thứ hai: một số đảng liên minh cầm quyền lập nên chính phủ liên hợp với một đảng làm nòng cốt.

Các nước XHCN đều có một đảng cộng sản cầm quyền mặc dù có nước vẫn duy trì chế độ đa đảng như Trung Quốc, ngoài Đảng cộng sản là Đảng chấp chính còn có 8 đảng phái dân chủ tham chính nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.Việt Nam, Cu Ba hiện nay chỉ có một Đảng cộng sản duy nhất là đảng cầm quyền. Dù ở các nước theo chế độ một đảng hay đa đảng thì đảng cầm quyền vẫn là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối chính quyền, chủ yếu bằng sức mạnh của quyền lực công để lãnh đạo toàn xã hội, làm cho các hoạt động của bộ máy chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối của đảng, phục vụ cho giai cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện.

4. Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền

Về thực chất, quan hệ giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền, như trên đã phân tích được phân biệt ở vị thế, tư cách, nội dung và phương thức lãnh đạo

- Về vị thế, Đảng cầm quyền là khái niệm để phân biệt với đảng chưa hoặc không cầm quyền; đồng thời để phân biệt với chính đảng cầm quyền ở giai đoạn chưa cầm quyền. Trong các nước thực hiện chế độ đa đảng; vị thế của đảng cầm quyền khác hẳn với đảng không cầm quyền hoặc đảng đối lập. Đảng cầm quyền được “áp đặt” chủ trương, đường lối, tất nhiên là chính đáng buộc nhà nước phải tuân thủ. Đảng cầm quyền được sử dụng sức mạnh của bộ công quyền, trong đó công quyền và cả sức mạnh của “tư quyền- quyền lực của đảng” để thực hiện chủ trương, đường lối chính trị. Ngược lại, đảng không cầm quyền chỉ với tư cách là đảng chính trị gây áp lực đối với đảng cầm quyền để điều chỉnh chủ trương, chính sách hoặc phương thức hiện thực hóa chủ trương chính sách và chỉ có tư cách bình đẳng một cách tương đối trong cạnh tranh bầu cử.

- Về tư cách, đảng cầm quyền có đủ tư cách để can thiệp vào bộ máy công quyền để buộc bộ máy công quyền thực hiện định hướng chính trị thông qua cơ chế “pháp luật hóa và chính sách hóa”. Còn đảng không nắm quyền chỉ có thể gây áp lực trong khuôn khổ pháp luật có tư cách bình đẳng trong tranh cử. Tất nhiên trong chế độ đa đảng, trừ đảng liên minh, còn các đảng khác được xem là đảng đối lập thì tư cách của các đảng đối lập là thuộc loại “yếu thế”

- Về nội dung lãnh đạo, đảng cầm quyền thực hiện lãnh đạo trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại, nói chung là thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, còn đảng không cầm quyền, kể cả đảng cầm quyền ở giai đoạn trước cầm quyền thì chỉ được lãnh đạo nội dung chính trị và chừng mực gây áp lực trên các lĩnh vực khác.

- Về phương thức lãnh đạo, đảng cầm quyền sử dụng tất cả sức mạnh có thể để thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, trong đó sức mạnh của quyền lực công, công quyền, quyền lực nhà nước; còn đảng không cầm quyền chỉ được sử dụng “quyền lực tư, quyền lực của đảng đối với đội ngũ đảng viên” để thực hiện sự lãnh đạo. Tất nhiên, giữa đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo, không cầm quyền đều được sử dụng “quyền lực tư” những chỉ có đảng cầm quyền mới được sử dụng và chủ yếu sử dụng quyền lực công, quyền lực nhà nước, quyền lực đối với toàn xã hội để thực hiện sự lãnh đạo. Đương nhiên hiệu quả và khả năng sử dụng công quyền đến đâu còn tùy thuộc vào tính chính đáng vào năng lực cầm quyền của đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của đảng cầm quyền lại tùy thuộc vào khả năng tạo dựng niềm tin của Đảng đối với quần chúng nhân dân bằng lý luận tiên phong và thực tiễn tổ chức và hoạt động khoa học, sáng tạo, tuân thủ pháp luật vì hạnh phúc của nhân dân, từ đó tạo nên sức mạnh quyền uy của Đảng được nhân dân ủng hộ và đi theo./.

GS,TS. Dương Xuân Ngọc

Nguyên Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 306.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 255

[3] Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), Đảng Cộng sản cầm quyền, nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb CTQG, H. tr.25.

[4] Sdd tr26

[5]Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa – Thông tin, H, tr. 586

[6] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 1 tr.355

[7] 3. V.I.Lênin: Toàn tập, t. 39, NXB Tiến bộ, Mat-xcơ-va, 1979, tr. 251.

[8] Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2000, tập 2, tr.267-268.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 12, tr. 222.

[10] . Hồ Chí Minh. Sđd, t. 10, tr. 323

Định nghĩa chính trị là gì?

Chính trị là toàn bộ hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa các dân tộc, giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Mà vấn đề cốt lõi là giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nội dung,nhiệm vụ hoạt động của Nhà nước;sự tham gia vào công việc của Nhà nước.

Chính trị liên quan đến quyền lợi của nhà nước và giai cấp. Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng gồm: hệ tư tưởng nhà nước, chính trị, đảng phái chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Chính trị còn tồn tại khi nào còn nhà nước,còn giai cấp.

Trong điều kiện xây dựng CNXH ở Việt Nam, chính trị trước hết bảo đảm vai trò lãnh đạo của hiệu lực quản lí của Nhà nước, Đảng Cộng sản, quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hệ thống chính trị là gì?

Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị và chính trị – xã hội gồm có = Nhà nước, đảng chính trị, nhữngtổ chức chính trị – xã hội hợp pháp được liên kết với nhau. Nhằm mục đích tác động vào quá trình đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với các lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.

Hệ thống chính trị xuất hiện cùng lúc với sự thống trị của nhà nước, giai cấp. Thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Vì thế hệ thống chính trị mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam, giai cấp nhân dân lao động và nhân dân chính là chủ thể của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị tại đây sẽ là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thể chế chính trị là gì?

Thể chế chính trị là hệ thống các định chế hợp lại thành một chế độ chính trị. Là hình thức thể hiện các thành phần của hệ thống chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng trong xã hội. Chúng gồm có: mặt trận Tổ quốc, nhà nước;đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội khác. Có vai trò và sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng trong hệ thống chính trị.

Khái niệm đảng chính trị là gì
Tổ chức chính trị xã hội

BÀI 3: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thứ ba - 21/07/2020 08:28 376.393 0
Khái niệm đảng chính trị là gì


I. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái quát về hệ thống chính trị
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị


Chính trị hiểu theo nghĩa chung nhất là một lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ giữa các chủ thể trong đời sống xã hội liên quan đến việc nhận diện và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội, nhất là những vấn đề có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ biến trong các mối quan hệ xã hội. Để có thể giải quyết được các vấn đề trên, một quyền lực chung được thiết lập có sức mạnh cưỡng chế nhằm duy trì trật tự, hòa bình và công lý trong xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của công dân. Nhà nước được tổ chức để thực thi quyền lực này. Do vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từNhân dân.

Trong các xã hội có giai cấp, các giai cấp tùy vào khả năng và tương quan lực lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực nhà nước để hiện thực hóa lợi ích của giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh thực hiện mục tiêu chung của xã hội. Chính vì vậy, ở cách tiếp cận này,chính trị được khái quát là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lựcnhà nước.

Từ đó có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng với các cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực chính trị.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
Trong xã hội có giai cấp, các chủ thể chính trị được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền, đồng thời thực hiện lợi ích của các chủ thể khác ở mức độ nhất định.

- Tính quyền lực: Hệ thống chính trị của bất kỳ chế độ, xã hội nào cũng là hệ thống tổ chức phân bổ và thực thi quyền lực chính trị của các chủ thể, lực lượng trong xã hội. Chẳng hạn, bên cạnh chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước, còn có các chủ thể khác tham gia, tác động đến việc thực thi quyền lực nhà nước theo những cách thức nhất định, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của mình trong xã hội.

- Tính vượt trội:Hệ thống chính trị được xác lập và hoạt động theo các thể chế, luật lệ và cơ chế nhằm tạo ra sức mạnh, tính vượt trội của hệ thống. Theo đó, những tương tác có hại làm triệt tiêu động lực và kết quả hoạt động của nhau sẽ bị hạn chế, ngăn chặn, đồng thời cho phép và khuyến khích những tương tác mang tính hỗ trợ, hợp tác nhằm đạt được kết quả tốt nhất cho các bên và cho xã hội.

1.1.3. Cấu trúc của hệ thống chính trị

- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị (hợp pháp) thực thi những chức năng nhất định trong xã hội, gồm có:
+ Đảng chính trị: Đảng cầm quyền là lực lượng chủ yếu thực thi quyền lực nhà nước, quyết định chính sách quốc gia. Các đảng khác (trong mô hình hệ thống chính trị có nhiều đảng) đóng vai trò hợp tác, tham gia phản biện, giám sát, kể cả tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động của đảng cầm quyền nhằm bảo vệ lợi ích của đảng mình.

+ Nhà nước: được cấu thành bởi 3 cơ quanlập pháp,hành pháp vàtư pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khác với quyền lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng chế hợp pháp”.

+ Các tổ chức chính trị - xã hội: là những tổ chức của công dân được lập ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực hiện quyền lực của Đảng cầm quyền,Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình và lợi ích của các thành viên.Mức độsự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả năng, nguồn lực của tổ chức đó trong xã hội.

- Sự tương tác của các thể chế chính trị

Sự tương tác của các thểchếchính trị theo các cơ chế và mối quan hệ đã được xác lập, chủ yếu trên cơ sở của luật pháp. Theo đó, các tổ chức này có sự liên kết tương hỗ, hỗ trợ hoặc đối trọng, ngăn cản nhau trong các quá trình nhất định nhằm thực thi quyền lực chính trị, đạt được mục đích chung của hệ thống và xã hội cũng như lợi ích của các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị.

Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị, các đảng chính trị thường đề ra cương lĩnh, mục tiêu, đường lối phát triển đất nước để vận động, thuyết phụcNhân dân ủng hộ, bỏ phiếu nhằm giành được đủ phiếu bầu trở thành đảng cầm quyền hoặc đảng đối lập có vị trí trong bộ máy nhà nước.

Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cầm quyền sẽ thể chế hóa cương lĩnh, mục tiêu, đường lối chính trị của đảng thành luật pháp, chương trình, dự án, chính sách và tổ chức thực hiện. Các đảng đối lập và các tổ chức chính trị - xã hội, phương tiện truyền thông có thể tham gia vào quá trình này để giám sát, phản biện chính sách của đảng cầm quyền tùy theo vị trí, nguồn lực mà họ có, nhằm làm tăng tính cẩn trọng, hợp lý của chính sách được ban hành hoặc phản đối, ngăn cản chính sách nhằm bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người dân và xã hội theo quan điểm của họ.

1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
1.2.1. Các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam


Hệ thống chính trị Việt Nam gồm có:

- Đảng Cộng sản Việt Nam

- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có: Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.

Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989). Việc chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị” có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống chính trị - xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả năng thích nghi của hệ thống với những thay đổi của môi trường xã hội.

1.2.2. Vị trí,chức năng, nhiệm vụ của các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam

* Đảng Cộng sản Việt Nam:

Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhânViệt Nam, đại biểu trung thành lợi íchcủagiai cấp công nhân,Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị.

Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược,chủ trương phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức và xã hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng.

Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viênưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

* Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân[1]. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị Việt Nam. Nhà nước gồm các có các cơ quan trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương.

Quốc hộilà cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Quốc hội được toàn thểNhân dân bầu ra theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồngQuốc phòng và an ninh, Hội đồngBầu cử quốc gia.

Quốc hộilà cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Chủ tịch nướclà người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

Chính phủlà cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy banThường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ gồm Thủ tướng chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên chính phủ do Quốc hội quyết định.

Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra là người đứng đầuChính phủ. Chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động củaChính phủ và những nhiệm vụ được giao.

Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp, “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy banThường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”, thống nhất quản lý về các lĩnh vực, ngành và nền hành chính quốc gia.

Tòa án nhân dânlà cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Tòa án gồmTòa án nhân dân được thành lập từ cấptrung ương đến cấp huyện và các tòa án khác do luật định.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Viện kiểm sát nhân dânthực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chính quyền địa phương

Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dânvàỦy ban nhân dânđược tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định.

- “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyềnlực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”[2]. Nhiệm kỳ củaHội đồng nhân dânlà05 năm.

Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản là: (1) quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; (2) giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

- “Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệmtrước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”[3].

Ủy ban nhân dân có 3 chức năng chính: (1) Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; (2) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân; (3) Thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có tên gọi ban đầu là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930.

Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cùng trải qua các thời kỳ hoạt động cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là tổ chức tập hợp, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc của Việt Nam - một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Kế tục và phát huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam các thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nayvẫn tiếp tục đại diện cho lợi ích, tiếng nói rộng rãi của các nhóm xã hội, các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tạo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, huy động nguồn lực, sức mạnh của toàn thể nhân dân vào xây dựng đảng, chính quyền, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tập hợp, thu hút các tầng lớpNhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội; tuyên truyền động viênNhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị củaNhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền với lợi ích chính đáng củaNhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữaNhân dân Việt Nam vớiNhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niêncộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên, tổ chức của mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”[4].

Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng củaNhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ củaNhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận.

- Công đoàn Việt Nam

Công đoàn Việt Namđượcthành lập ngày 28/7/1929. Trải qua quá trình hình thành và phát triển,tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Hiến pháp 2013 quy định:“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người dân lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội: tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[5].

Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

-Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam(thành lập ngày 20/10/1930) là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển, tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực, quan trọng vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. HộiLiên hiệpPhụ nữ Việt Nam đã có sự phát triển mạnh trong việc tổ chức, thu hút hội viên; có những mô hình liên kết, hỗ trợ thiết thực, sáng tạo cho sự phát triển của các hội viên, tham gia xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế gia đình và đặc biệt đóng góp những ý kiến phản biện, đề xuất chính sách cho Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và thực hiện những hoạt động cho sự phát triển, bình đẳng giới của phụ nữ Việt Nam

- Hội Nông dân Việt Nam

Hội Nông dân Việt Nam (thành lập ngày 14/10/1930) là tổ chức chính trị - xã hội của nông dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện nay, mục đích của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, tạo diễn đàn chia sẻ thông tin và tri thức trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo sự kết nối, hỗ trợ giữa các hội viên, đồng thời đại diện và bảo vệ cho quyền, lợi ích chính đáng của hội viên trong quan hệ với các chủ thể khác của đời sống xã hội. Từ đó, tạo sự đồng thuận, sức mạnh của tổ chức, xứng đáng là lực lượng đồng minh tin cậy trong khối liên minh công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới.

- Hội Cựu chiến binh Việt Nam

Hội Cựu chiến binh Việt Nam (thành lập ngày06/12/1989) là một tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.

Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ Cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quảcách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp củacựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

-ĐoànThanh niêncộng sản Hồ Chí Minh

Đoàn Thanh niêncộng sản Hồ Chí Minh (thành lập ngày 26/3/1931) là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đoàn Thanh niêncộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật củanước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hoá đường lối, chủtrươngcủa Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật,chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành.Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội.

Đoàn giữ vai trò nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của HộiLiên hiệpthanh niên Việt Nam, HộiSinh viên Việt Nam và các thành viên khác của hội. Đối với ĐộiThiếu niên tiền phong,Đoàn giữ vai trò là người phụ trách xây dựng tổ chứcĐội.

Tóm lại, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ sau:

1) Thực hiện Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ, Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; các chương trình phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên với cơ quan nhà nước cùng cấp có liên quan.

2) Tập hợp ý kiến, kiến nghị của thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên,Nhân dân và kết quả thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành động gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.

3) Tuyên truyền, vận động thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên,Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4) Vận động các thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

5)Giám sát, phản biện xã hội.

6) Đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ những tổ chức, cá nhân chưa gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng có tinh thần hưởng ứng, ủng hộ, thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

7) Tham gia thực hiện các nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1.2.3. Mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị

Các quan hệ trong hệ thống chính trị Việt Nam, các quan hệ chính trị được xác lập theo một cơ chế chủ đạo là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội củaNhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò, chức năng lãnh đạo đối với toàn xã hội, nhằm phát huy và thực hiện quyền làm chủ củaNhân dân.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực củaNhân dân giao cho để phục vụNhân dân. Nhà nước thể chế hóa đường lối, mục tiêu, chủ trương lãnh đạo của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích rộng rãi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của toàn thểNhân dân lao động và yêu nước Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hộihoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, các tổ chức vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; đồng thời chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Mọi hành vi lợi dụng dân chủ, lợi dụng quyền lập hội để chống phá Đảng, chính quyền nhân dân, đi ngược lại lợi ích củaNhân dân và dân tộcđều vi phạm pháp luật Việt Nam và bị xử lý theo pháp luật.

Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương tôn trọng tính tự chủ, tự nguyện, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động tích cực, sáng tạo đóng góp cho Đảng, chính quyền và đất nước, mang lại lợi ích choNhân dân. Đảng, chính quyền lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Trong hệ thống chính trị, các bộ phận cấu thành đều có chung một mục đích là duy trì và đại diện cho quyền lực và lợi ích của giai cấp và dân tộc. Cả hệ thống chính trị Việt Nam đều có chung mộtmụctiêu là phấn đấu vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội góp phần quan trọng trong việc thực hiện cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng chính trị của Đảng cầm quyền và Nhà nướcxã hội chủ nghĩa.Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội góp phần bảo đảm sức mạnh của hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quyết định việc tập hợp lực lượngnhân dân, tổ chức các phong trào nhân dân và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Cơ chế và các nguyên tắc vận hành
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo,Nhà nước quản lý,Nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của hệ thống chính trị nói chung như: nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện và có thời hạn; nguyên tắc pháp quyền. Ngoài ra hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc riêng như: tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, không phân chia, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quannhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

1.2.4. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam

Hệ thống chính trị Việt Nam cũng được tổ chức theo những mô hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Mặt khác hệ thống chính trị Việt Nam cũng có những đặc điểm riêng.

Thứ nhất,hệ thống chính trị Việt Nam do duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Không tồn tại các đảng chính trị đối lập. Đặc điểm này thể hiện tính phổ biến của hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính đặc thù xuất phát từ điều kiện thực tế cụ thể ở Việt Nam. Bởi vì, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được sự tín nhiệm củaNhân dân, đượcNhân dân ủng hộ, tôn vinh ở vị trí lãnh đạo và thực tế Đảng đã xứng đáng với vị trí được tôn vinh này[6].

Thứ hai,hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta xác định“Chủ nghĩa Mác-Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.

Thứ ba,do lịch sử hình thành gắn với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên do Đảng thành lập và lãnh đạo, có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với Đảng và Nhà nước. Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập: Nhà nước là hình thức tổ chức quyền lực củaNhân dân - do Đảng lập ra. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng sáng lập có nhiệm vụ chính trị là tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng.

Thứ tư,hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống mang tính thống nhất và tập trung quyền lực. Tính thống nhất của hệ thống chính trị xuất phát từ nguồn gốc quyền lực của nhân nhân ủy quyền cho Đảng,Nhà nước để thực hiện mục đích chung. Mục đích chính trị của toàn bộ hệ thống là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và mục tiêu cụ thể được xác định là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm,trong hệ thống chính trị Việt Nam, các thành viên có địa vị pháp lý vững chắc. Do vị trí, chức năng của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên…

II. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - THÀNH TỐ HẠT NHÂN VÀ LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

2.1. Vai trò hạt nhân và yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam

Vai trò hạt nhân lãnh đạo

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Vai trò lãnh đạo đó xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được hình thành từ 3 yếu tố quan trọng.Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng chính trị hiện có (đảng tư sản) ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người.Thứ hai,Đảng Cộng sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội.Thứ ba,Đảng Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của nhân loại.

Chính vì có “chất cộng sản” trên, Đảng luôn có được sự ủng hộ của Nhân dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành lại quyền lực nhà nước từ tay giai cấp thống trị, lập nên Nhà nước, lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Lãnh đạo Nhân dân và xã hội thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp, phát triển - xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.

Đảng có vai trò lãnh đạoNhà nước và xã hội nhưng mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đây là nguyên tắc hiến định đảm bảo nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị:

Thứ nhất,sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tính chất của một Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản khác với các đảng chính trị khác ở 03 tiền đề quan trọng: (1) là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng tập hợp những con người tiêu biểu của xã hội; (2) là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc. Việc ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua đã biểu hiện rõ tính chất nêu trên. Đảng là đảng của cả dân tộc, tức của mọi giai tầng trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”[1]. Ngoài lợi ích đại diện cho dân, cho nước, Đảng không có lợi ích nào khác; (3) tiêu biểu về trí tuệ, Đảng tập hợp, thu hút được những người tài giỏi nhất của giai cấp và các tầng lớp Nhân dân vào trong tổ chức của mình. Ba tiền đề trên chính là yếu tố tạo nên sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng và sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân.

Thứ hai,việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường phát triển này luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản - Đảng luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân và của dân tộc trong tổ chức và thực thi quyền lực của Nhân dân. Theo đó, Đảng vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản của mình sẽ là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành chính quyền, giành lại quyền lực nhà nước về tay Nhân dân và tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực thi vì mục đích, lợi ích của Nhân dân và xã hội.

Thứ ba,xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Trong hệ thống chính trị một Đảng Cộng sản cầm quyền, không thể có một tổ chức hay lực lượng nào khác trong tương quan so sánh có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân thực hiện được những mục đích tốt đẹp như Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện.Trong Điều lệ Đảng chỉ rõ mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm này cho thấy rằng, đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng củaNhân dân. Đây là cơ sở quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay.

Trong sự lãnh đạo của mình, Đảng đề cao nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, tổ chức quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đảng lãnh đạo xã hội được xác định là chủ yếu bằng Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”[2].

Tuy nhiên, khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn bộ xã hội trong thời kỳ hòa bình, Đảng phải luôn đề phòng khả năng chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền. Việc phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý củaNhà nước hiện nay làm cho sự lãnh đạo của Đảng trên thực tế có thể dẫn tới hai khuynh hướng:hoặc bao biện làm thay các công việc củaNhà nước, can thiệp trực tiếp vào các công việc củaNhà nước hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình đổi mới hệ thống chính trị trong thời gian qua đã có sự phân định ngày càng rõ hơn chức năng, mối quan hệ của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Theo đó, ngoài việc xác định rõ nội dung lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, tạo sự thống nhất, thông suốt trong hoạt động của hệ thống chính trị.

2.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để thực hiện chức năng lãnh đạo, cần có các nội dung lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo của Đảng là những vấn đề, nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra và chủ yếu được xác định ở mục tiêu trong các đường lối, chủ chương, chính sách nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Nội dung lãnh đạo của Đảng bao gồm tất cả các vấn đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.

Về nguyên tắc: Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, toàn xã hội; Đảng lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối trên các lĩnh vực như cán bộ, công tác đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Những nội dung lãnh đạo của Đảng:

Một là,Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành các luật lệ, quy định, chính sách và tổ chức thực hiện, Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dựa trên đường lối của Đảng, luật pháp, chương trình, kế hoạch của công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức, Đảng không quyết định những vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức khác, Đảng tôn trọng tính độc lập của từng tổ chức.

Hai là,Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân. Việc xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành từng bước phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo đó, ngoài việc lãnh đạoQuốc hội tập trung vào việc xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, Đảng lãnh đạoNhà nước thực hiện cải cách quy trình lập pháp, cải cách nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội đủ sức tập hợp rộng rãi quần chúngNhân dân và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của họ trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, các nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức; đề cao tính tự chủ, chủ động của các tổ chức. Đảng không can thiệp vào công việc tổ chức cụ thể của các thành viên khác trong hệ thống chính trị.

Ba là,Đảng xác định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ thông qua việc hoạch định chủ trương, chính sách cán bộ. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ, thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá và sử dụng cán bộ. Trực tiếp bố trí và quyết định nhân sự chủ chốt của hệ thống chính trị, nhất là ở các cấp cao, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín, năng lực, trung thành với Đảng, dân tộc choNhân dân lựa chọn, bầu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Bốn là,Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra chủ yếu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm trướcNhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, vừa tổ chức sự phối hợp hoạt động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra Nhà nước, điều tra củaViệnKiểm sát và kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội khác. Thông qua kiểm tra, phát hiện những việc làm đúng, những sai sót trong tổ chức thực hiện, qua đó tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật củaNhà nước. Từ đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực,hiệu quả củaNhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Như vậy,nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Phương thức lãnh đạo của Đảng chính là cách thức tác động của Đảng đối với những đối tượng lãnh đạo nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

- Chủ thể tác động: Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Đối tượng tác động: Nhà nước, các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân.

- Phương thức tác động: thông qua hệ thống những cách thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác của Đảng.

- Mục đích: nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo qua đó thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

Phương thức lãnh đạo của Đảng:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội bằng:

- Cư­ơng lĩnh, chiến l­ược, các định h­ướng về chính sách và chủ tr­ương lớn của Đảng, được thể hiện trong cương lĩnh, văn kiện, các nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở những quan điểm đường lối, chính sách lớn của Đảng,Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.

- Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động: đây là một phương thức lãnh đạo chủ yếu và quan trọng của Đảng. Đường lối, mục tiêu, chủ trương, chính sách củaĐảng dù có đúng đắn và khoa học vì dân, nhưng nếu không có sự tuyên truyền, thuyết phục, vận động thì chúng cũng khó đến được với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị, khó tạo được sự thống nhất về tư tưởng, và hành động. Phương thức lãnh đạo này mang tính dân chủ, góp phần tạo sự đồng thuận và huy động sức mạnh của hệ thống, xã hội.

- Công tác tổ chức, cán bộ,Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực vàphẩmchất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

- Công tác kiểm tra, giám sát được coi là một phương thức lãnh đạo củaĐảng. Lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì coi như là không lãnh đạo. Việc kiểm tra, giám sát của Đảng giúp cho việc nhận diện việc nắm bắt và thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đã đúng chưa, có những vướng mắc, bất cập gì trong thực tế và cần phải hoàn thiện chính sách hay khắc phục như thế nào.

- Sự gư­ơng mẫu của đảng viên, nhất là những người đứng đầu các tổ chức, cơ quan của Đảng. Sự gương mẫu của mỗi đảng viên, nhất là của những người đứng đầu ở các vị trí cao của hệ thống chính trị luôn có sức lay động và cảm hóa mạnh mẽ đối vớiNhân dân.

- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Thông qua tính kỷ luật và thống nhất trong Đảng, cácđảng viên và tổ chứcđảng sẽ là người tuân thủ, thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách củaĐảng. Đồng thời họ cũng là người có vai trò phổ biến, vận động, thuyết phục đối với các thành viên khác của xã hội nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vàNhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.

II. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - THÀNH TỐ HẠT NHÂN VÀ LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

2.1. Vai trò hạt nhân và yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam

Vai trò hạt nhân lãnh đạo

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Vai trò lãnh đạo đó xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được hình thành từ 3 yếu tố quan trọng.Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng chính trị hiện có (đảng tư sản) ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người.Thứ hai,Đảng Cộng sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội.Thứ ba,Đảng Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của nhân loại.

Chính vì có “chất cộng sản” trên, Đảng luôn có được sự ủng hộ của Nhân dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành lại quyền lực nhà nước từ tay giai cấp thống trị, lập nên Nhà nước, lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Lãnh đạo Nhân dân và xã hội thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp, phát triển - xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.

Đảng có vai trò lãnh đạoNhà nước và xã hội nhưng mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đây là nguyên tắc hiến định đảm bảo nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị:

Thứ nhất,sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tính chất của một Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản khác với các đảng chính trị khác ở 03 tiền đề quan trọng: (1) là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng tập hợp những con người tiêu biểu của xã hội; (2) là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc. Việc ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua đã biểu hiện rõ tính chất nêu trên. Đảng là đảng của cả dân tộc, tức của mọi giai tầng trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”[1]. Ngoài lợi ích đại diện cho dân, cho nước, Đảng không có lợi ích nào khác; (3) tiêu biểu về trí tuệ, Đảng tập hợp, thu hút được những người tài giỏi nhất của giai cấp và các tầng lớp Nhân dân vào trong tổ chức của mình. Ba tiền đề trên chính là yếu tố tạo nên sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng và sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân.

Thứ hai,việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường phát triển này luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản - Đảng luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân và của dân tộc trong tổ chức và thực thi quyền lực của Nhân dân. Theo đó, Đảng vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản của mình sẽ là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành chính quyền, giành lại quyền lực nhà nước về tay Nhân dân và tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực thi vì mục đích, lợi ích của Nhân dân và xã hội.

Thứ ba,xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Trong hệ thống chính trị một Đảng Cộng sản cầm quyền, không thể có một tổ chức hay lực lượng nào khác trong tương quan so sánh có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân thực hiện được những mục đích tốt đẹp như Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện.Trong Điều lệ Đảng chỉ rõ mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm này cho thấy rằng, đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng củaNhân dân. Đây là cơ sở quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay.

Trong sự lãnh đạo của mình, Đảng đề cao nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, tổ chức quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đảng lãnh đạo xã hội được xác định là chủ yếu bằng Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”[2].

Tuy nhiên, khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn bộ xã hội trong thời kỳ hòa bình, Đảng phải luôn đề phòng khả năng chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền. Việc phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý củaNhà nước hiện nay làm cho sự lãnh đạo của Đảng trên thực tế có thể dẫn tới hai khuynh hướng:hoặc bao biện làm thay các công việc củaNhà nước, can thiệp trực tiếp vào các công việc củaNhà nước hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình đổi mới hệ thống chính trị trong thời gian qua đã có sự phân định ngày càng rõ hơn chức năng, mối quan hệ của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Theo đó, ngoài việc xác định rõ nội dung lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, tạo sự thống nhất, thông suốt trong hoạt động của hệ thống chính trị.

2.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để thực hiện chức năng lãnh đạo, cần có các nội dung lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo của Đảng là những vấn đề, nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra và chủ yếu được xác định ở mục tiêu trong các đường lối, chủ chương, chính sách nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Nội dung lãnh đạo của Đảng bao gồm tất cả các vấn đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.

Về nguyên tắc: Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, toàn xã hội; Đảng lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối trên các lĩnh vực như cán bộ, công tác đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Những nội dung lãnh đạo của Đảng:

Một là,Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành các luật lệ, quy định, chính sách và tổ chức thực hiện, Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dựa trên đường lối của Đảng, luật pháp, chương trình, kế hoạch của công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức, Đảng không quyết định những vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức khác, Đảng tôn trọng tính độc lập của từng tổ chức.

Hai là,Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân. Việc xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành từng bước phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo đó, ngoài việc lãnh đạoQuốc hội tập trung vào việc xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, Đảng lãnh đạoNhà nước thực hiện cải cách quy trình lập pháp, cải cách nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội đủ sức tập hợp rộng rãi quần chúngNhân dân và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của họ trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, các nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức; đề cao tính tự chủ, chủ động của các tổ chức. Đảng không can thiệp vào công việc tổ chức cụ thể của các thành viên khác trong hệ thống chính trị.

Ba là,Đảng xác định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ thông qua việc hoạch định chủ trương, chính sách cán bộ. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ, thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá và sử dụng cán bộ. Trực tiếp bố trí và quyết định nhân sự chủ chốt của hệ thống chính trị, nhất là ở các cấp cao, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín, năng lực, trung thành với Đảng, dân tộc choNhân dân lựa chọn, bầu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Bốn là,Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra chủ yếu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm trướcNhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, vừa tổ chức sự phối hợp hoạt động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra Nhà nước, điều tra củaViệnKiểm sát và kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội khác. Thông qua kiểm tra, phát hiện những việc làm đúng, những sai sót trong tổ chức thực hiện, qua đó tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật củaNhà nước. Từ đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực,hiệu quả củaNhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Như vậy,nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Phương thức lãnh đạo của Đảng chính là cách thức tác động của Đảng đối với những đối tượng lãnh đạo nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

- Chủ thể tác động: Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Đối tượng tác động: Nhà nước, các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân.

- Phương thức tác động: thông qua hệ thống những cách thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác của Đảng.

- Mục đích: nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo qua đó thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

Phương thức lãnh đạo của Đảng:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội bằng:

- Cư­ơng lĩnh, chiến l­ược, các định h­ướng về chính sách và chủ tr­ương lớn của Đảng, được thể hiện trong cương lĩnh, văn kiện, các nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở những quan điểm đường lối, chính sách lớn của Đảng,Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.

- Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động: đây là một phương thức lãnh đạo chủ yếu và quan trọng của Đảng. Đường lối, mục tiêu, chủ trương, chính sách củaĐảng dù có đúng đắn và khoa học vì dân, nhưng nếu không có sự tuyên truyền, thuyết phục, vận động thì chúng cũng khó đến được với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị, khó tạo được sự thống nhất về tư tưởng, và hành động. Phương thức lãnh đạo này mang tính dân chủ, góp phần tạo sự đồng thuận và huy động sức mạnh của hệ thống, xã hội.

- Công tác tổ chức, cán bộ,Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực vàphẩmchất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

- Công tác kiểm tra, giám sát được coi là một phương thức lãnh đạo củaĐảng. Lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì coi như là không lãnh đạo. Việc kiểm tra, giám sát của Đảng giúp cho việc nhận diện việc nắm bắt và thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đã đúng chưa, có những vướng mắc, bất cập gì trong thực tế và cần phải hoàn thiện chính sách hay khắc phục như thế nào.

- Sự gư­ơng mẫu của đảng viên, nhất là những người đứng đầu các tổ chức, cơ quan của Đảng. Sự gương mẫu của mỗi đảng viên, nhất là của những người đứng đầu ở các vị trí cao của hệ thống chính trị luôn có sức lay động và cảm hóa mạnh mẽ đối vớiNhân dân.

- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Thông qua tính kỷ luật và thống nhất trong Đảng, cácđảng viên và tổ chứcđảng sẽ là người tuân thủ, thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách củaĐảng. Đồng thời họ cũng là người có vai trò phổ biến, vận động, thuyết phục đối với các thành viên khác của xã hội nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vàNhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.