Hướng dẫn xét xử về mức cấp dưỡng cho con năm 2024

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) Tối cao đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Nghị quyết hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình, trong đó có đề xuất mới về tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn. Đây là một trong những vấn đề thực tế được khá nhiều người quan tâm, nhất là khi nó ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ em. Trên thực tế, nếu một bên phải cấp dưỡng không thỏa thuận được, phải để tòa án xét xử thì số tiền tuyên cấp dưỡng thường rất thấp, mức tối thiểu chỉ bằng 1/2 mức lương cơ sở, tức là chỉ khoản 745.000 đồng/tháng.

Nhiều người phụ nữ sau phiên tòa xử ly hôn của mình, cứ thẫn thờ khi nhìn vào số tiền tòa án tuyên cấp dưỡng nuôi con. Chị T.L.N cười chua chát: “Chỉ chưa tới 800.000 đồng/tháng, với 1 đứa bé 2 - 3 tuổi, thì làm được gì? Tiền mua sữa cho con uống thôi còn không đủ, đừng nói đến ăn mặc, chăm sóc…”. Không phải chồng chị N. không có khả năng chu cấp, nhưng vì người này không tự nguyện cấp dưỡng, trong khi lại không có thu nhập cố định từ lương, do làm chung với gia đình, cha mẹ… nên khó tính được thu nhập. Trên cơ sở lời khai của người chồng, tòa án chỉ đành dựa theo mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng để tính mức tiền cấp dưỡng. Đây cũng chính là một trong những bất cập liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tiền cấp dưỡng nuôi con trên thực tế.

Hướng dẫn xét xử về mức cấp dưỡng cho con năm 2024

Ảnh minh họa: Internet

Điều 116, Luật Hôn nhân và gia đình, quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Khi phải nhờ tòa án giải quyết thì tại hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao “mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”. Chính vì có hướng dẫn này, nên nhiều tòa án khi xét xử đã áp luôn mức 1/2 mức lương tối thiểu (đây là mức thấp nhất) để buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo mức này mà cấp dưỡng nuôi con, thật sự không đảm bảo các chi phí nuôi con trên thực tế hiện nay.

Từ thực tiễn này, mới đây tại dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao quy định, tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở. Theo đó, tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 6 tháng liền kề.

Anh T.N.T (Phường 2, TP. Bạc Liêu) dù đã ly hôn, nhưng mỗi tháng anh vẫn gửi vợ cũ tiền cấp dưỡng nuôi con là 3 triệu đồng. Ngoài ra, anh thường xuyên mua sắm đồ đạc, sữa, phụ vợ cũ đóng tiền học cho con. Nói về mức tiền trợ cấp nuôi con chỉ 2/3 mức lương tối thiểu như dự thảo, anh T. cho rằng, quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế cuộc sống. Những người tự nguyện đóng góp thì không nói làm gì. Còn đối với những người, nuôi con mình mà còn cò kè “bớt một thêm hai” đề nghị, luật phải quy định theo nguyên tắc: không tự nguyện thỏa thuận thì mức đóng cao hơn, ví dụ: 1 lần hoặc 1,5 lần mức lương cơ sở. Bên cạnh đó, việc quy định mức cấp dưỡng nuôi con cần quy định cụ thể, rõ ràng trong luật, để tránh tình trạng tùy nghi khi áp dụng và cũng là để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em.

- Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà cả hai có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên.

+ Ngoải ra, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn túng thiếu cũng sẽ được cấp dưỡng.

- Như vậy, tiền cấp dưỡng cho con có thể được coi là số tiền mà người cha hoặc người mẹ khi ly hôn mà không trực tiếp nuôi con phải chu cấp cho con chưa đủ 18 tuổi hoặc con đã đủ 18 tuổi nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

+ Con chưa thành niên: con chưa đủ 18 tuổi. Pháp luật quy định trường hợp cha, mẹ ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con về tài sản cho đến khi con trưởng thành.

+ Con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình: con đủ 18 tuổi trở lên nhưng bị tâm thần, bị khiếm khuyết về thể chất không có khả năng lao động và đặc biệt phải kèm theo điều kiện là không có tài sản để tự nuôi mình.

Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha, mẹ ly hôn được pháp luật quy định như thế nào?

- Căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn quy định rằng cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

- Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền:

+ Yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

+ Yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Như vậy, từ những quy định trên, cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ mà người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện theo thỏa thuận giữa vợ chồng khi ly hôn hoặc theo Bản án/quyết định của Tòa án.

Theo đó, người được giao nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình.

Hướng dẫn xét xử về mức cấp dưỡng cho con năm 2024

Thủ tục đòi tiền cấp dưỡng cho con như thế nào? Mẫu đơn khởi kiện cấp dưỡng nuôi con mới nhất? (Hình internet)

Đòi tiền cấp dưỡng cho con theo thủ tục nào? Mẫu đơn khởi kiện cấp dưỡng nuôi con mới nhất?

*Hồ sơ khởi kiện: khi khởi kiện về vấn đề yêu cầu tiền cấp dưỡng cho con thì cần chuẩn bị hồ sơ như sau:

- Đơn khởi kiện về việc đòi tiền cấp dưỡng

- Chứng minh thư nhân dân/căn cước công dân (có chứng thực hoặc công chứng)

- Bản án, quyết định ly hôn

- Chứng cứ chứng minh thu nhập của vợ, chồng

- Bản sao có chứng thực giấy khai sinh của con

- Tài liệu khác có liên quan.

* Thủ tục khởi kiện: Căn cứ Điều 190, Điều 191, Điều 195, Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 53, Điều 54 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Điều 16 Nghị quyết 04/2016/NQ-HĐTP thì thủ tục khởi kiện như sau:

- Bước 1: Nộp hồ sơ khởi kiện về việc đòi tiền cấp dưỡng tại Tòa án có thẩm quyền

- Bước 2: Nhận kết quả xử lý đơn

- Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và thụ lý vụ án

- Bước 4: Tòa án sẽ triệu tập lấy lời khai, hòa giải và tiến hành thủ tục theo quy định pháp luật Tố tụng dân sự

- Bước 5: Trong trường hợp, Tòa án không chấp nhận yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, người yêu cầu có quyền kháng cáo để Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm theo quy định pháp luật.

- Tải mẫu đơn khởi kiện bấm vào Tải về - Mẫu số 23-DS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP)

Hướng dẫn xét xử về mức cấp dưỡng cho con năm 2024

Mức phạt nào với trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là bao nhiêu?

Tùy thuộc vào mức độ vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng mà người trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sẽ đối mặt với các hình thức xử phạt sau:

- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng khi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn (điểm b khoản 1 Điều 57 Nghị định 144/2021/NĐ-CP);

- Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án nhưng trì hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.. ( điểm c khoản 3 Điều 64 Nghị định 82/2020/NĐ-CP)

- Bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) nếu có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng; sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo; phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.