Hướng dẫn tội tiêu thụ tài sản

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 20 bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

STT

NỘI DUNG

TRANG

Bản án số 64/2022/HS-PT ngày 20/09/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Nội dung bản án:

Do không có nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài, Huỳnh Thanh P và Lê Văn T4 rủ nhau thực hiện các vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ án 1: Khoảng 00h30 ngày 28/9/2021, P và T4 phát hiện quán cà phê “The Magic” do Quách T6 làm chủ, không người trông coi, cả hai trèo rào đột nhập vào trong, dùng tua vít tháo gỡ vách phòng lấy 02 cây quạt đứng, 02 cây quạt treo tường, 02 cái bàn bằng kim loại màu trắng (Inox) và 01 bếp gas. Sau đó, P và T4 mang đi bán cho Âu Thị Lệ H3. Riêng 01 bếp gas do bị hỏng, không dùng được nên ném bỏ.

Vụ án 2: Khoảng 01h30, ngày 08/10/2021 P và T4, phát hiện bên trong hàng rào nhà Lý Nghiệp P5 có để nhiều bàn, ghế thấy không có người, P ở bên ngoài cảnh giới, T4 trèo rào vào trong lấy 04 cái bàn bằng kim loại màu trắng (Inox) và 08 cái ghế nhựa đưa ra ngoài cho P rồi cùng mang đi bán cho Trần Văn Đ.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 234, 236/KL-ĐG ngày 19/10/2021 ghi nhận: Tài sản trong vụ án 1 có trá trị tổng cộng 1.300.000 đồng. Tài sản trong vụ án 1 có trá trị tổng cộng 1.600.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 41/CT-VKSCĐ-HS ngày 21/5/2022 của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo Huỳnh Thanh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Trần Văn Đ về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HS-ST ngày 28/06/2022 đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thanh P 09 tháng tù. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ 06 tháng tù.

Ngày 04/07/2022, bị cáo Trần Văn Đ có đơn kháng cáo yêu cầu xem xét giảm hình phạt và cho hưởng án treo.

Nhận định của Tòa án:

Bị cáo Trần Văn Đ có 02 lần mua tài sản do Huỳnh Thanh P và Lê Văn T4 mang đến bán. Mặc dù không hứa hẹn trước nhưng bị cáo Trần Văn Đ biết rõ tài sản do Huỳnh Thanh P và Lê Văn T4 mang đến bán cho bị cáo là tài sản do P và T4 lấy trộm của người khác nhưng vì hám lợi, bị cáo vẫn mua với giá thấp hơn so với giá thực tế nhằm mục đích bán lại lấy lãi.

Do Huỳnh Thanh P đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, trong thời gian được xem là có tiền sự, nay tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản, nên xét xử Huỳnh Thanh P về tội cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội. Do hành vi của bị cáo Huỳnh Thanh P đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản”, nên hành vi của bị cáo Trần Văn Đ đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Về kháng cáo của bị cáo Đ:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là phạm tội 02 lần trở lên.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm h, o, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét bị cáo đã trên 70 tuổi, bị cáo không biết chữ nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế, tài sản phạm tội có giá trị không lớn, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn, hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét

giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Văn Đ; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HS-ST ngày 28/06/2022.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 04 tháng tù.

01 – 06

Bản án số 216/2022/HS-ST ngày 08/12/2022 của Tòa án nhân dân huyên Trảng Bom tỉnh Đồng Nai về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Nội dung bản án:

Vào khoảng 18 giờ ngày 19/5/2022, anh Trương Hữu N dựng xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 ở sân nhà. Đến khoảng 21h45 cùng ngày, anh N phát hiện xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 bị kẻ gian lấy trộm; lúc này, anh N dò theo định vị được gắn trên xe. Khi đến nơi thì anh N phát hiện Chu Quang H đang điều khiển xe mô tô này nhưng được gắn biển số 60B7 – 407.12 (biển số giả) nên trình báo Công an.

Bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 08/6/2022 kết luận: 01 xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 nhãn hiệu Honda Vario màu xám đen, đã qua sử dụng có trị giá là 27.800.000 đồng.

Tại cáo trạng số 211/CT-VKS-TB ngày 02/11/2022 của Viện kiểm sát đã truy tố Chu Quang H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nhận định của Tòa án:

Vào lúc 20h50 ngày 19/5/2022, tại khu vực ngã 3 Yên Thế, Chu Quang H mặc dù không hứa hẹn trước và biết rõ xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 nhãn hiệu Honda Vario màu xám đen (đã được thay bằng biển số 60B7 – 407.12) là tài sản do đối tượng “Thảo Chuối” phạm tội mà có nhưng H vẫn đồng ý mua lại với mục đích để bán kiếm lời. Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Chu Quang H đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm .

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố bị cáo Chu Quang H phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Chu Quang H 07 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của tội đang bị xét xử với hình phạt 01 năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 334/2022/HS-PT ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 năm 07 tháng tù.

07 – 11

Bản án số 210/2022/HS-PT ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Nội dung bản án:

Khoảng 08 giờ ngày 01/5/2022, L1 gọi điện thoại cho L rồi hỏi “Hôm nay có nghỉ không, lên làm cho anh 01 bữa, chạy xe cho anh rồi anh chỉ đường vô điểm giao nhận xe”. L nhận thức rõ “chạy xe” là đi vận chuyển xe mô tô do người khác phạm tội mà có. Thỏa thuận vận chuyển từ chân cầu B về cầu M để tiêu thụ, mỗi chuyến

vận chuyển sẽ nhận được 500.000 đồng, giao xe xong sẽ nhận được tiền công. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên L đồng ý. Sau đó, L đến nhận xe, L theo hướng dẫn chạy về hướng cầu M. Đến 09h30 cùng ngày, khi L đang điều khiển xe về đến đoạn đường ĐT839 thuộc Ấp 2, xã B, huyện Đ, tỉnh Long An thì bị lực lượng Công an chốt chặn bắt quả tang người cùng tang vật.

Bản kết luận định giá số 15/KL-TCKH ngày 04/5/2022 xác định xe mô tô có giá 9.550.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 28/07/2022 đã xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L 09 tháng tù.

Ngày 08/8/2022, bị cáo Nguyễn Tấn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Nhận định của Tòa án:

Khoảng 08 giờ ngày 01/5/2022, Nguyễn Tấn L nhận lời vận chuyển xe do người khác phạm tội mà có cho một người tên L1. Qua định giá tài sản xe môtô có tổng giá trị là 9.550.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng quy định pháp luật, không oan cho bị cáo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2022/HS-ST ngày 28/07/2022

của Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm trong đó có bà Lê Thị Hà Giang là Hội thẩm nhân dân. Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:… 2. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó…”. Như vậy, bà Lê Thị Hà Giang phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi do đã tham gia với tư cách là người định giá tài sản trong cùng vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 28/07/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xét xử lại theo thủ tục tố tụng hình sự.

12 – 16

Bản án số 15/2023/HS-ST ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Nội dung bản án:

Khoảng tháng 03/2015, Nguyễn Phương T biết được tiệm sửa xe “Tấn P” do Lê Quốc P làm chủ có nhận tháo rã phụ tùng xe mô tô, gắn máy để hưởng tiền công. T thỏa thuận với P khi nào có xe Mô tô, gắn máy do phạm tội mà có sẽ giao cho P tháo rã thành phụ tùng rời rồi giao lại cho T và sẽ trả tiền công của động cơ xe chạy bằng số là 300.000đồng/xe và động cơ xe chạy bằng tay ga là 500.000đồng/xe. Sau đó, P nói cho Đào Trọng T2 và Ngô Thành V là thợ làm công cho P biết. Ngày 30/6/2015 T trực tiếp đem xe Mô tô số 73C1-310.84 đến tiệm Tấn P giao cho P thảo rã. Khoảng 15 giờ ngày 01/7/2015, T đến tiệm “Tấn P” bảo T2 đi theo T sang Quận 6 nhận xe. Khi đến quán cà phê gần khu vực vòng xoay Phú Lâm thuộc Phường 13, Quận 6, T gặp một người tên Tèo và nhận xe Mô tô hiệu honda Wave biển số 68T1-194.29. Sau đó, T giao cho T2 điều khiển xe chạy về tiệm sửa xe Tấn P. Khi T2 điều khiển xe Mô tô đến ngã ba đường số 10 thì bị Công an Quận 6 kiểm tra bắt giữ.

Căn cứ Công văn số 1495/HĐĐG-TTHS ngày 12/8/2015 và số 44/HĐĐGTTHS ngày 13/1/2016 của Hội đồng định giá tài sản xác định xe Mô tô biển số 68T1-194.29 giá là 14.441.500 đồng và xe Mô tô biển số: 73C1-310.84 trị giá là 2.548.500 đồng.

Theo bản Cáo trạng số 03/CT–VKS ngày 12/12/2022 của Viện

kiểm sát đã truy tố bị cáo Nguyễn Phương T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Nhận định của Tòa án:

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Phương T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào năm 2015 lúc mà Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn còn hiệu lực nên áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xét xử bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phương T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 12 tháng tù.

17 – 21

Bản án số 68/2023/HS-PT ngày 31/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Nội dung bản án:

Năm 2017, bị cáo T biết Nguyễn Quang L và Nguyễn Quang Đ có thuê xưởng gỗ của ông Nguyễn Quang N là bố đẻ của T để làm nơi chứa chấp xe máy do phạm tội mà có. Khoảng tháng 07/2017, Quách Văn A quen biết với ông N (bố đẻ của T) nên A đã nhờ T tìm mua giúp 01 chiếc xe máy tay ga không giấy tờ (xe do phạm tội mà có). T biết Đ đang có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH mode màu đen, khi T hỏi mua của Đ và được Đ đồng ý bán với giá 15.000.000 đồng. Sau đó T bán lại cho A với giá 16.500.000 đồng. A sử dụng xe máy đến ngày 08/6/2022 thì bị Cơ quan tra, Công an thành phố Hà Nội thu giữ.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 202/KLĐGTS ngày 20/6/2022 kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH mode, biển kiêm soát 20H1-165.62, số máy F51E0012996, số khung RLHJF5106DY012935, có trị giá là 35.000.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 207/2022/HSST ngày 18/11/2022 quyết định: xử phạt: Nguyễn Quang T 15 tháng tù, về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; xử phạt: Quách Văn A 12 tháng tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Ngày 22/11/2022, bị cáo Nguyễn Quang T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Nhận định của Tòa án:

Để có tiền tiêu xài, bị cáo Nguyễn Quang T đã tìm mua xe máy do trộm cắp được mà có để bán kiếm lời. Quách Văn A do không có nhiều tiền nên có nhờ T tìm mua xe không có giấy tờ, xe do trộm cắp. Khoảng tháng 7/2017, bị cáo T đã mua 01 chiếc xe máy của Nguyễn Quang Đ với giá 15.000.000 đồng rồi bán cho Quách Văn A với giá 16.500.000 đồng. Chiếc xe máy này được đăng ký biển kiểm soát 20H1-165.62 của anh Nguyễn Văn H bị trộm cắp ngày 16/6/2017 tại xã Đ, thị xã P, tỉnh T có giá trị 35.000.000 đồng. Với hành vi trên, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét thấy bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; tài sản đã được thu hồi trả bị hại, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, bố mẹ già yếu bị bệnh nặng. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 207/2022/HSST ngày 18/11/2022. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Quang T 12 tháng tù, thời hạn tù T từ ngày 11/6/2022.

22 – 27

Bản án số 29/2023/HS-PT ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Nội dung bản án:

Vào khoảng 03 giờ ngày 28/6/2020 Hoàng Minh H có hành vi dùng dao khống chế, uy hiếp tinh thần chị Phạm Thị H chiếm đoạt số tiền 1.800.000đ và 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG J3.

Sau đó đưa điện thoại này cho Đinh Ngọc Lê Hoàng A, mặc dù biết tài sản trên do H phạm tội mà có nhưng Hoàng A vẫn đồng ý lấy. Sau đó A đưa 01 điện thoại này cho H nhờ H đi bẻ khóa mặc dù biết điện thoại do H phạm tội mà có nhưng bị cáo H vẫn đồng ý mang đi bẻ khóa

Sau khi lấy tài sản bị cáo H đưa cho Phạm Minh H số tiền 100.000 đồng, mặc dù biết tài sản trên do H phạm tội mà có nhưng bị cáo H vẫn đồng ý lấy và sử dụng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 96/2022/HS-ST ngày 17/08/2022. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 09 tháng tù. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 năm 06 tháng tù.

Ngày 30/8/2022, bị cáo Phạm Minh H kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Nhận định của Tòa án:

Bị cáo Phạm Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm mô tả. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về các tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Hữu T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Xử phạt: Trần Hữu T 09 (Chín) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.