Hồ Hoàn Kiếm hay còn gọi là Hồ Gươm, là một hồ nước ngọt tự nhiên của thành phố Hà Nội. Trước kia hồ có các tên gọi như hồ Lục Thủy (nước có màu xanh quanh năm), hồ Thủy Quân (nơi duyệt thủy binh), hồ Tả Vọng và Hữu Vọng (thời Lê mạt)[3]. Tên gọi hồ Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỷ 15, gắn với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả lại gươm báu cho Rùa thần. Tên hồ được đặt cho một quận của Hà Nội, là quận Hoàn Kiếm Vị trí Hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Là vị trí kết nối giữa khu phố cổ như Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Lương Văn Can, Lò Sũ... với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch thực hiện cách đây hơn một thế kỷ là Bảo Khánh, Nhà Thờ, Tràng Thi, Hàng Bài, Đinh Tiên Hoàng, Tràng Tiền, Hàng Khay, Bà Triệu... Liễu rủ hồ Gươm Cầu Thê Húc Lịch sử Hồ Hoàn Kiếm với Tháp Rùa Cách đây khoảng 6 thế kỷ, dựa theo bản đồ thời Hồng Đức thì phần lớn xung quanh kinh thành khi ấy là nước, hồ Hoàn Kiếm là một phân lưu sông Hồng chảy qua vị trí của các phố ngày nay như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối, tiếp đó lại đổ ra nhánh chính của sông Hồng [4]. Nơi rộng nhất phân lưu này hình thành nên hồ Hoàn Kiếm hiện nay. Thời Lê Trung hưng (thế kỷ 16), khi chúa Trịnh cho chỉnh trang Hoàng thành Thăng Long để vua Lê ở, đã đồng thời xây dựng phủ chúa riêng bên ngoài Hoàng thành và trở thành cơ quan trung ương thời bấy giờ với những công trình kiến trúc xa hoa như lầu Ngũ Long (dùng để duyệt quân) nằm ở bờ Đông hồ Hoàn Kiếm, đình Tả Vọng trên đảo Ngọc Sơn [5]. Năm 1728 Trịnh Giang cho đào hầm ở vị trí phía Nam hồ để xây dựng cung điện ngầm gọi là Thưởng Trì cung Hồ Gươm sáng sớm Chúa Trịnh cho ngăn hồ lớn thành hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng, hồ Hữu Vọng được dùng làm nơi để duyệt quân thuỷ chiến của triều đình. Đến đời Tự Đức (1847-1883), hồ Hữu Vọng có tên là hồ Thủy Quân, còn hồ Tả Vọng chính là hồ Hoàn Kiếm. Từ năm 1884, nhà nước bảo hộ Pháp cho lấp hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang Hà Nội . Hồ được đổi thành tên Hoàn Kiếm vào thế kỷ 15. Gắn liền với truyền thuyết Rùa thần đòi gươm. Ghi lại một dấu ấn thắng lợi trong cuộc chiến tranh dân tộc chống quân Minh (1417-1427) do Lê Lợi lãnh đạo. Truyền thuyết kể rằng, khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá) đã tình cờ tìm được một lưỡi gươm, sau đó lại nhặt được một chuôi gươm ở ruộng cày. Ngài ghép lại thành một thanh gươm rồi đặt tên là Thuận Thiên. Thanh gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc ngoại bang cho đến ngày thắng lợi. Khi lên ngôi và đóng đô ở Thăng Long, một lần vua Lê Lợi dạo chơi bằng thuyền trên hồ thì bất chợt gặp rùa lớn nổi lên và bơi về phía ngài. Nhà vua rút kiếm ra để đuổi rùa. Rùa liền đớp lấy thanh kiếm rồi lặn xuống nước. Từ đó hồ được đặt tên là Hoàn Kiếm. Tháp Rùa xưa
Tháp Rùa về đêm Truyền thuyết Tượng Lê Lợi với thanh kiếm Thuận Thiên Tháp Rùa: nằm ở trung tâm hồ, được xây dựng trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886, trên gò Rùa và chịu ảnh hưởng kiến trúc Pháp. Tháp hình chữ nhật. Tầng một: chiều dài 6,28 mét (của 2 mặt hướng Đông và Tây), mỗi mặt có 3 cửa. Chiều rộng 4,54 mét, mỗi mặt có 2 cửa. Các cửa đều được xây cuốn, đỉnh thuôn nhọn. Tầng hai: chiều dài 4,8 mét, rộng 3,64 mét và có kiến trúc giống như tầng một. Tầng ba: chiều dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét. Tầng này chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, đường kính 0,68 mét, phía trên cửa có 3 chữ Quy Sơn tháp (tháp Núi Rùa). Tầng đỉnh có nét giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét. Đảo Ngọc Sơn: nằm ở phía Bắc hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ (tai voi). Vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng khi dời đô ra Thăng Long và đến đời Trần thì đảo được đổi tên là Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra đền Ngọc Sơn trên nền cung Thuỵ Khánh cũ (bị Lê Chiêu Thống cho người đốt năm 1787 để trả thù các chúa Trịnh)[9]. Đền Ngọc Sơn thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo. Cầu Thê Húc: dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" Tháp Bút: trên bờ hướng Đông Bắc hồ, được xây dựng từ năm 1865, bao gồm bảy tầng. Trên đỉnh là tượng trưng cho một ngòi bút đối lên trời, phần thân có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên (viết lên trời xanh), thân tầng thứ ba của tháp có khắc một bài Bút Tháp Chí. Đài Nghiên: trên bờ hướng Đông Bắc hồ, được xây dựng từ năm 1865, là phần không thể thiếu của Tháp bút. Ba chân kê nghiên là hình tượng ba con cóc. Trên thân nghiên khắc một bài Minh, gồm 64 chữ Hán. Tháp Hoà Phong: trên bờ hướng Đông hồ, là di vật còn sót lại của chùa Báo Ân (bị dỡ bỏ năm 1898) [10]. Tháp cao ba tầng, cửa theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, có các chữ Hán như: Báo Đức môn, Báo Ân môn, Hoà Phong tháp, Báo Thiên tháp, ứng với mỗi cửa của tháp. Tầng một to và cao hơn hai tầng trên cùng. Bốn mặt của tầng hai hình Bát quái. Tầng ba ghi "Hòa Phong Tháp". Đền Bà Kiệu: trên bờ hướng Đông Bắc hồ, được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng, là một di tích hoàn chỉnh nhưng do việc mở đường nên đã tách làm hai phần, Tam quan ở sát bờ hồ, còn Đền thờ ở về phía bên này đường. Toạ lạc theo hướng Nam. Tam quan và Đền thờ (Nhà đại bái) đều có kiến trúc ba gian xây gạch, lợp mái ngói ta. Ngôi đền thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc Nữ. Nhà Thuỷ Tạ: trên mặt bờ hồ hướng Tây Bắc, là một loại hình kiến trúc quan trọng và đặc sắc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, là địa điểm diễn ra các lễ của Hoàng triều hoặc thờ cúng Thần linh hay các vị Hoàng đế. Ngoài ra, Nhà Tạ còn là chốn phục vụ nhu cầu ăn chơi cho tầng lớp thống trị, hậu cung, ly cung, biệt cung... có kiến trúc tương đối đơn giản, được xây dựng bên bờ mặt nước như hồ, ao, sông, suối. Quang cảnh kiến trúc Toàn cảnh Hồ Hoàn Kiếm vào buổi tối với Tháp Rùa ở trung tâm và Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc ở bên phải Hồ Hoàn Kiếm được coi là hòn ngọc của Hà Nội. Ngắm nhìn từ trên cao, vào đầu mùa hạ quang cảnh hồ giống như bức tranh đầy màu sắc và nên thơ, xung quanh bờ là những cây bằng lăng tím xen giữa những cây phượng hoa đỏ và cơm nguội vàng rực rỡ. Mùa thu đẹp với những rặng liễu rủ soi bóng nước hồ biếc xanh màu ngọc lấp lánh ánh nắng vàng. Những con đường chạy quanh hồ còn là nơi để nhân dân thủ đô lui tới xem pháo hoa vào những ngày hội lớn trong năm của dân tộc. Các di tích lịch sử như tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, đền Bà Kiệu, chùa Bà Đá, tượng đài vua Lý Thái Tổ... cùng những công trình kiến trúc mới được xây dựng đã đảm bảo sự hài hòa cảnh quan cho hồ. Đặc biệt ở các vị trí gần hồ không có công trình xây dựng cao tầng gây
mất cảm quan và tầm nhìn bao quát toàn khu vực hồ và cây xanh. Hệ sinh vật hồ Tiêu bản sinh vật (Rùa Hồ Gươm) được lưu trữ ở Đền Ngọc Sơn Rùa Rùa hồ Gươm có tên khoa học là Rafetus ???, họ Ba Ba (Trionychidae) trong bộ Rùa (Testudies), lớp Sauropsida (Mặt thằn lằn). Rùa hồ Gươm gồm có bốn cá thể, trong đó một cá thể còn sống trong hồ và ba cá
thể đã chết (một được lưu trong đền Ngọc Sơn, một lưu trong kho của Bảo tàng Hà Nội và một đã bị giết thịt năm 1962 - 1963 khi bò lên vườn hoa Chí Linh) . Cảm hứng nghệ thuật Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. |