Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn là gì

Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn là gì
Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật: 19006198

Đầu tư tài chính là việc sử dụng tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính được quy định cụ thể như thế nào?

Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn là gì
Bài viết được thực hiện bởi: Chuyên viên Nguyễn Tiến Dũng – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Dự phòng tổn thất các khoản đầu tư chứng khoán

Doanh nghiệp phải lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán riêng cho từng loại chứng khoán đầu tư, có biến động giảm giá tại thời điểm lập báo cáo tài chính và được tổng hợp vào bảng kê chi tiết dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư, làm căn cứ hạch toán vào chi phí tài chính của doanh nghiệp.

Đối tượng được lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán là các chứng khoán có đủ các điều kiện

Là các loại chứng khoán được doanh nghiệp đầu tư theo đúng quy định của pháp luật.

Được tự do mua bán trên thị trường mà tại thời điểm kiểm kê, lập báo cáo tài chính có giá thị trường giảm so với giá đang hạch toán trên sổ kế toán.

Mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán

Mức dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán = Số lượng chứng khoán bị giảm giá tại thời điểm lập báo cáo tài chính x Giá chứng khoán hạch toán trên sổ kế toán – Giá chứng khoán thực tế trên thị trường

Dự phòng đối với các khoản đầu tư tài chính dài hạn

Đối tượng được lập dự phòng đầu tư tài chính dài hạn

Khoản vốn đầu tư vào tổ chức kinh tế khác (bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần không đủ điều kiện để trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán, công ty liên doanh, công ty hợp danh). Các khoản vốn đầu tư này được đầu tư vào doanh nghiệp khác với 2 hình thức: góp vốn vào đơn vị khác và mua lại phần vốn góp tại đơn vị khác.

Các khoản đầu tư dài hạn khác phải trích lập dự phòng nếu tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp đang đầu tư bị lỗ (trừ trường hợp lỗ theo kế hoạch đã được xác định trong phương án kinh doanh trước khi đầu tư).

Việc trích lập dự phòng đầu tư dài hạn được thực hiện đối với các khoản đầu tư được trình bày theo phương pháp giá gốc, không áp dụng cho các khoản đầu tư trình bày theo phương pháp vốn chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

Doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện sau đây để được lập dự phòng đầu tư tài chính dài hạn

Tổng số vốn đầu tư thực tế của chủ sở hữu cao hơn tổng giá trị vốn chủ sở hữu thực có của tổ chức kinh tế được đầu tư.

Mức trích tối đa cho mỗi khoản đầu tư tài chính bằng số vốn đã đầu tư

Mức dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính = Vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế – Vốn chủ sở hữu thực có x (Số vốn đầu tư của mỗi bên / Tổng số vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế)

Xem thêm tại: Thời gian hưởng trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ?

Thời điểm lập dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính 

Cụ thể, thời điểm lập và hoàn nhập các khoản dự phòng là thời điểm cuối kỳ kế toán năm. Trường hợp doanh nghiệp áp dụng năm tài chính khác với năm dương lịch thì thời điểm lập và hoàn nhập các khoản dự phòng là ngày cuối cùng của năm tài chính.

Đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì được trích lập và hoàn nhập dự phòng ở cả thời điểm lập báo cáo tài chính giữa niên độ.

Việc trích lập hoặc hoàn nhập khoản dự phòng được thực hiện ở thời điểm lập Báo cáo tài chính theo nguyên tắc

Số dự phòng phải trích lập = số dư khoản dự phòng => không cần trích lập khoản dự phòng.

Số dự phòng phải trích lập > số dư khoản dự phòng => trích thêm phần chênh lệch vào chi phí tài chính của doanh nghiệp.

Số dự phòng phải trích lập < số dư khoản dự phòng => hoàn nhập phần chênh lệch và ghi giảm chi phí tài chính của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp phải thành lập Hội đồng để thẩm định mức trích lập các khoản dự phòng và xử lý tổn thất thực tế của các khoản đầu tư tài chính, trong đó thành phần Hội đồng gồm: Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc), Kế toán trưởng, các trưởng phòng, ban có liên quan và một số chuyên gia (nếu cần). Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) doanh nghiệp quyết định thành lập Hội đồng.

Khi doanh nghiệp trích lập dự phòng đầu tư tài chính thì cần phải có Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định và Quyết định của Hội đồng thẩm định về trích lập dự phòng đầu tư tài chính.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật lao động được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: .

Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn là gì


Tính đến thời điểm hiện nay, theo quy định của hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành có nhiều khoản dự phòng nhằm đáp ứng các yêu cầu về mặt quản lý cũng như dự tính bù đắp các khoản tổn thất của doanh nghiệp, đó là các khoản dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính (ngắn hạn, dài hạn); dự phòng phải thu; dự phòng giảm giá Hàng tồn kho; dự phòng trợ cấp mất việc làm; dự phòng phải trả và quỹ dự phòng tài chính.

Về mặt bản chất có thể chia các khoản dự phòng ra làm 03 nhóm như sau:

Nhóm một: là nhóm dự phòng nhằm bù đắp tổn thất tài sản của doanh nghiệp, gồm có dự phòng giảm giá đầu tư tài chính (dài hạn và ngắn hạn); dự phòng nợ phải thu khó đòi; dự phòng giảm giá hàng tồn kho;

Nhóm hai: là nhóm dự phòng về khả năng phát sinh nợ phải trả của doanh nghiệp, gồm có dự phòng trợ cấp mất việc làm và dự phòng phải trả (như dự phòng về bảo hành sản phẩm, hàng hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp, dự phòng cho các hợp đồng có rủi ro lớn,…);

Nhóm ba: dự phòng quỹ thuộc vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Hiện nay có quỹ dự phòng tài chính. Đây là dự phòng về khả năng tổn thất vốn chủ sở hữu do những nguyên nhân khách quan.

Thứ nhất, về nguyên tắc hạch toán và xử lý các khoản dự phòng

Đối với nhóm dự phòng mang tính bù đắp tổn thất tài sản, dự phòng mang tính chất Nợ phải trả thì quy trình được xác định như sau:

+ Thời điểm trích lập lần đầu tiên (năm N): cuối kỳ kế toán, khi có dấu hiệu và bằng chứng về khoản tổn thất tài sản và khả năng phải thanh toán chi trả thì sẽ tính toán và trích lập khoản dự phòng cho kỳ kế toán tiếp theo bằng cách ghi tăng chi phí và ghi tăng các khoản dự phòng (Nợ TK chi phí/Có TK dự phòng), cụ thể đối với dự phòng các khoản đầu tư tài chính (TK 129, 229) thì ghi tăng chi phí tài chính, đối với dự phòng giảm giá hàng tồn kho (TK 159) thì ghi tăng giá vốn hàng bán, đối với dự phòng nợ phải thu khó đòi (TK 139) ghi tăng chi phí quản lý doanh nghiệp, đối với dự phòng trợ cấp mất việc làm (TK 351) ghi tăng chi phí quản lý doanh nghiệp, đối với dự phòng Nợ phải trả (TK 352) ghi tăng chi phí quản lý doanh nghiệp, ghi tăng chi phí bán hàng, ghi tăng chi phí sản xuất chung.

+ Sang kỳ kế toán tiếp theo (N+1): các khoản dự phòng sẽ được xử lý căn cứ vào các tình huống sau:

Tình huống 1 - nếu tổn thất xảy ra, sẽ dùng quỹ dự phòng đã trích lập để bù đắp. Tức là có sự đối chiếu giữa số đã trích lập và số tổn thất thực tế xảy ra, tức là ghi giảm số đã trích dự phòng và ghi giảm tổn thất (Nợ TK Dự phòng/Có TK các khoản bị tổn thất)

a) Nếu số đã tổn thất thực tế không vượt quá số dự phòng đã trích lập thì toàn bộ số tổn thất sẽ được bù đắp bằng số dự phòng đã trích lập bằng cách ghi Nợ TK Dự phòng/Có TK các khoản bị tổn thất.

b) Nếu số đã tổn thất thực tế vượt quá số dự phòng đã trích lập thì phần chênh lệch thiếu được ghi tăng vào chi phí của kỳ phát sinh: Nợ TK dự phòng, Nợ TK chi phí/Có các TK tổn thất.

Tình huống 2 - nếu tổn thất không xảy ra, do doanh nghiệp có phát sinh nghiệp vụ nhưng không tổn thất hoặc doanh nghiệp không phát sinh nghiệp vụ liên quan thì toàn bộ số dự phòng đã trích lập này có thể được sử dụng để cho năm sau.

+ Thời điểm cuối kỳ kế toán tiếp theo (N+1): cuối kỳ kế toán phải xác định lại số dự phòng cần trích lập cho kỳ kế toán tiếp theo. Sau khi xác định được số dự phòng cần trích lập của kỳ kế toán tiếp theo sẽ so sánh với số dự phòng đã trích lập của kỳ kế toán trước thì sẽ xảy ra 03 tình huống là bằng nhau (không xử lý), lớn hơn (cần trích lập bổ sung phần thiếu) và nhỏ hơn (hoàn nhập phần thừa). Trong trường hợp hoàn nhập sẽ ghi giảm chi phí bằng cách: Nợ TK dự phòng/Có các TK chi phí.

+ Trong các kỳ kế toán tiếp theo: xử lý giống như kỳ N+1

Đối với nhóm dự phòng mang tính quỹ thuộc vốn chủ sở hữu thì quy trình được xác định như sau:

+ Tạm trích lập: ghi nhận giảm Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối năm nay và tăng quỹ dự phòng tài chính. Căn cứ vào các nghiệp vụ phát sinh trong năm liên quan đến tổn thất và căn cứ vào quy chế tài chính sẽ dùng quỹ dự phòng tài chính để bù đắp bằng cách ghi giảm quỹ dự phòng tài chính và giảm tổn thất.

+ Khi quyết toán được duyệt, căn cứ vào quyết định về số trích lập quỹ dự phòng chính thức sẽ đối chiếu với số đã tạm trích lập để ghi nhận. Nếu trích lập bổ sung sẽ ghi giảm Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối năm trước và tăng quỹ dự phòng tài chính; nếu số trích lập ít hơn sẽ hoàn nhập bằng cách ghi tăng lợi nhuận sau thuế chưa phân phối năm trước và ghi giảm quỹ dự phòng tài chính.

Như vậy, các khoản dự phòng về tổn thất tài sản và dự phòng về Nợ phải trả thì các doanh nghiệp phải được tính toán và ghi nhận vào chi phí một cách bắt buộc. Việc tính toán xác định mức dự phòng chỉ là các ước tính kế toán và nó mang nặng tính chủ quan của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến các thông tin mà kế toán cung cấp đặc biệt là thông tin trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Còn khoản dự phòng về quỹ thuộc vốn chủ sở hữu trích lập là bao nhiêu thì tùy theo từng chủ sở hữu, nó không hề ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong Báo cáo tài chính. Do vậy khoản trích lập quỹ này không nên có quy định bắt buộc với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên dù là khoản dự phòng nào xét cho cùng cũng đều nhằm mục đính làm giảm thiểu những rủi ro về tài chính của doanh nghiệp khi thiệt hại thực tế xảy ra, cho nên các doanh nghiệp  nên thực hiện một cách đầy đủ và kịp thời.

Thứ hai, cách ghi nhận và xử lý các khoản dự phòng theo quy định hiện hành:

Theo quy định hiện hành có cách tính toán, ghi nhận theo quy định của kế toán (chuẩn mực kế toán số 18 - các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, chế độ kế toán ban hành theo quyết định 15/2006/QĐ - BTC và Thông tư 244/2009/TT - BTC) và cách tính toán, ghi nhận theo quy định của chính sách tài chính (Thông tư 228/2009/TT - BTC và Thông tư 89/2013/TT - BTC), có những điểm khác biệt:

+ Với chính sách tài chính thì nguyên tắc là khi trích lập ghi tăng chi phí/tăng quỹ dự phòng nhưng khi hoàn nhập ghi giảm chi phí và giảm quỹ dự phòng; còn kế toán khi trích lập giống chính sách tài chính, khi hoàn nhập ghi giảm quỹ dự phòng và giảm chi phí (trừ dự phòng bảo hành công trình xây lắp được ghi vào thu nhập khác). Bên cạnh đó, các khoản dự phòng mang tính chất Nợ phải trả (tái cơ cấu doanh nghiệp, hợp đồng có rủi ro lớn, bảo hành công trình, sản phẩm) thì chưa có quy định cụ thể về phương pháp, cách thức tính toán.

+ Với khoản trích lập dự phòng mang tính chất quỹ, như quỹ dự phòng tài chính thì thuộc sự điều chỉnh của cơ chế tài chính khác mà không thuộc quy định về dự phòng này.

Với quy định cách xử lý khác nhau này dẫn đến những người làm công tác kế toán không biết nên áp dụng như thế nào. Về việc trích lập lần đầu, trích lập bổ sung thêm đều tính vào chi phí thì cơ bản đã thống nhất, nhưng về việc hoàn nhập thì còn có sự khác biệt. Đi sâu về bản chất, ta thấy dù theo phương pháp xử lý hoàn nhập nào (ghi giảm chi phí hay tăng thu nhập) đều làm cho kết quả trong kỳ tăng lên. Nhưng thực tế vẫn cần phải có sự thống nhất giữa hai quy định này? Hơn nữa, những khoản dự phòng mà Thông tư 228 và Thông tư 89 chưa quy định mà doanh nghiệp vẫn tiến hành trích lập thì có được coi là khoản chi phí hợp lý của doanh nghiệp hay không? Đây là những vấn đề cần thiết phải được làm rõ thêm.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài chính, Quyết định số 15/2006/QĐ - BTC

2. Bộ Tài chính, Thông tư số 244/2009/TT - BTC

3. Bộ Tài chính, Thông tư số 228/2009/TT - BTC

4. Bộ Tài chính, Thông tư số 89/2013/TT - BTC

5. Bộ Tài chính, Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18 – Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng.

Theo Tạp chí Kế toán & Kiểm toán – Bài của ThS Đặng Thế Hưng_Học viện Tài chính

Xem thêm