Đề thi học sinh giỏi về Vợ nhặt

Đã có trọn bộ đề thi thử THPT Quốc Gia 2022 các môn: vip.dethihsg247.com
Hàng ngàn mã giảm giá shopee 0đ hôm nay cập nhật tại đây

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.

Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.

Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.

Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.

Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thaayscos một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

Xin chào các bạn và quý Thầy Cô. Hãy nhập từ khóa mình muốn vào ô tìm kiếm trên Website để tìm kiếm mọi thứ hoặc trên google các bạn hãy nhập từ khóa + dethihsg247.com để tìm kiếm các bài viết của chúng tôi nhé.

  • Hiện tại chúng tôi có hơn 25 nghìn bài văn mẫu các thể loại.
  • Kho tài liệu, đề thi học sinh giỏi các lớp vô cùng phong phú.
  • Mỗi ngày cập nhật hơn 100 đề thi chất lượng từ các website bán tài liệu lớn.

Tải đề thi VIP với giá siêu rẻ tại Vip.Dethihsg247.Com

  • phân tích tác phẩm vợ nhặt
  • vợ nhặt
  • Vợ Nhặt (Kim Lân) Ngữ Văn 12 Violet

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2013-2014 ĐỀ CHÍNH THỨC Môn: NGỮ VĂN THPT CHUYÊN Thời gian: 180 phút, không kể thời gian giao đề Ngày thi: 25/10/2013 Câu 1 (3,0 điểm) Niềm tự hào của số 0 Nhờ rất nhiều số 0 đi theo mà số 1 trở thành khổng lồ. Thành khổng lồ, những số 0 vinh dự và tự hào lắm, đi đâu cũng kể lể, vỗ ngực rằng: Ta là khổng lồ. ( Theo Ngụ ngôn chọn lọc - NXB Thanh niên, 2003) Suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa gợi ra từ câu chuyện trên. Câu 2 (7,0 điểm) Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng: Một tác phẩm văn học hay, theo tôi quan niệm, lõi phải dày, vỏ phải mỏng; mọi vấn đề đặt ra trong đó phải thẳng căng, những tình cảm phải được đẩy tới mức tột cùng. Đó là những điều kiện tất yếu để tạo ra những nhân vật có bộ mặt tinh thần hoàn toàn riêng biệt, những tình huống có chiều sâu triết học và tâm lí, những tư tưởng nhọn sắc. (Các nhà văn nói về văn, NXB Tác phẩm mới, 1985) Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết về truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân), hãy làm sáng tỏ quan niệm trên. ..Hết Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị không giải thích gì thêm. Họ và tên thí sinh: .................................................. Số báo danh: .................................... 1 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2013-2014 ĐỀ CHÍNH THỨC HƯỚNG DẪN CHẤM NGỮ VĂN - THPT CHUYÊN (gồm 04 trang) A. YÊU CẦU CHUNG - Giám khảo phải nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. - Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. - Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm. B. YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1 (3,0 điểm) a. Về kĩ năng: - Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. - Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b.Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: Ý Nội dung Điểm 1. Dẫn dắt và nêu vấn đề (0,25 điểm) 2. Phân tích truyện và rút ra ý nghĩa (1,0 điểm) - Số 0 nếu đứng riêng một mình thì chẳng có ý nghĩa gì, cũng có thể nói là vô nghĩa. Nghĩa bóng chỉ con người và sự vật không có giá trị. - Số 0 chỉ có ý nghĩa khi đứng sau số 1, như những cá nhân đứng trong một tập thể có người đứng đầu tài năng. - Con số 0 trong câu chuyện không hiểu điều này nên lại tự coi mình là con số khổng lồ, và đi đâu cũng vinh dự, tự hào, vỗ ngực khoe mình là khổng lồ. - Câu chuyện là một thông điệp: Trong cuộc sống, mỗi người cần nhận thức đúng về giá trị của bản thân trong mối quan hệ với những người xung quanh. Nếu không nhận thức đúng giá trị của mình và của những người khác, con người rất dễ trở nên ảo tưởng, 2 huênh hoang, tự đắc và kiêu ngạo một cách lố bịch. 3. Bình luận về ý nghĩa câu chuyện (1,0 điểm) Câu chuyện gợi ra cho ta nhiều suy nghĩ về lẽ sống và cách ứng xử ở đời: - Trong thực tế, nếu con số 0 đứng một mình sẽ trở thành vô nghĩa. Số 0 chỉ trở nên có giá trị khi nó đứng sau các số khác. Trong câu chuyện này, số 0 đã phạm sai lầm vì nó không tự nhận thức được giá trị của bản thân và cũng không thấy được giá trị của những con số đứng trước nó (dù nhỏ bé như con số 1). Cũng như vậy, trong cuộc sống, nhiều người không tự nhận thức được giá trị của bản thân và những giá trị của người khác. Họ quá đề cao mình và xem thường mọi người. Đó là một sai lầm và càng sai lầm hơn khi huênh hoang, kiêu ngạo, tự hào về những gì mình không có (dẫn chứng minh họa). - Ngược lại, nếu ý thức đúng về mình thì ngay cả số 0 cũng trở nên rất có ý nghĩa. Nó góp phần tạo nên sự vĩ đại. Con người cũng vậy, khi đứng trong một tập thể, dù bình thường, nhưng nếu ý thức được về bản thân và có người định hướng, dẫn dắt sẽ có cách sống, cách ứng xử giản dị, khiêm nhường, đúng mực góp phần tạo nên sức mạnh, giá trị lớn lao (dẫn chứng minh họa). 4. Mở rộng, nâng cao vấn đề (0,5 điểm) - Trong cuộc sống, giữa cá nhân và tập thể có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi cá nhân dù bình thường nhất cũng góp phần xây dựng nên sức mạnh tập thể và sức mạnh của tập thể được tạo nên từ mỗi cá nhân. - Thực tế, có những con người nhận thức đúng giá trị bản thân và biết trân trọng người khác, có ý thức xây dựng tập thể vững mạnh. Nhưng cũng có nhiều người quá đề cao bản thân, tự cho mình là nhất, không biết quý trọng giá trị của những người xung quanh. Những con người như thế sẽ không được mọi người yêu quý và tự đánh mất giá trị của chính mình. 5. Bài học nhận thức và hành động (0,25 điểm) Câu 2 (7,0 điểm) a. Về kĩ năng: - Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận. - Biết cách phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. - Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: 3 Ý Nội dung Điểm 1. Dẫn dắt và nêu vấn đề (0,5 điểm) 2. Giải thích (1,5 điểm) - Một tác phẩm hay trước hết lõi phải dày, vỏ phải mỏng: Lõi có thể hiểu là nội dung tư tưởng, là chiều sâu bên trong; còn vỏ là hình thức bề ngoài, là dung lượng câu chữ của tác phẩm. Một tác phẩm văn học hay phải mang tính hàm súc cao, có sức chứa lớn, ẩn giấu những tầng ngầm văn bản, những lớp nghĩa phong phú như một tảng băng trôi (Earnest Hemingway). Đó là cái tinh anh của nhà văn và tinh chất của tác phẩm. - Mọi vấn đề đặt ra trong đó phải thẳng căng, những tình cảm phải được đẩy tới mức tột cùng: Tác phẩm văn học là sáng tạo nghệ thuật, là kết tinh cái tâm, cái tài của nghệ sĩ mà trước hết là của tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, những tình cảm phải được đẩy đến mức tột cùng, phản ánh được những vấn đề thẳng căng quan trọng, cấp thiết của đời sống. Đó cũng là những điều kiện tất yếu để người nghệ sĩ có thể tạo ra được những nhân vật có bộ mặt tinh thần hoàn toàn riêng biệt, mang tính độc đáo; những tình huống có chiều sâu triết học và tâm lí, góp phần thể hiện nhận thức và cách lí giải mang tính phát hiện mới mẻ, nhọn sắc của nhà văn về con người và đời sống. - Đây là một quan niệm đúng đắn, sâu sắc với tác phẩm văn học nói chung và càng xác đáng hơn với thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn thường ít nhân vật, sự kiện, thường hướng tới một vài mảnh nhỏ của đời sống, ghi lại những khoảnh khắc trong cuộc đời con người nhưng vẫn có khả năng khái quát những vấn đề lớn lao, thể hiện những tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Quan niệm trên của Nguyễn Khải đã đặt ra yêu cầu, bài học cho người sáng tác cũng như người tiếp nhận. 3. Chứng minh qua tác phẩm Vợ nhặt (4,5 điểm) a. Vợ nhặt là tác phẩm hay, có lõi dày, vỏ mỏng, giản dị, ngắn gọn, cách kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn, nhưng đã đặt ra những vấn đề nóng bỏng nhất về hiện thực lịch sử và đời sống của người nông dân những năm trước Cách mạng tháng Tám với một tình cảm chân thành, sâu sắc, mãnh liệt. b. Trong tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân đã tạo ra những nhân vật có bộ mặt tinh thần hoàn toàn riêng biệt, những tình huống có chiều sâu triết học và tâm lí, những tư tưởng nhọn sắc: - Về tình huống truyện: Vợ nhặt xây dựng được tình huống độc đáo, kì lạ, éo le vừa 4 bi thảm vừa thấm đẫm tình người. + Chỉ ra và lí giải sự độc đáo, éo le của tình huống truyện. + Phân tích ý nghĩa, giá trị của tình huống - Về nhân vật: Kim Lân đã xây dựng được những nhân vật có bộ mặt tinh thần riêng biệt; trong đó, mỗi nhân vật là một cá tính sinh động, mang một vẻ đẹp riêng: + Vẻ đẹp của nhân vật Tràng. + Vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt. + Vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ. - Về tư tưởng: Thông qua hệ thống nhân vật, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, tư tưởng nhọn sắc của Kim Lân được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc: + Chọn bối cảnh của truyện là khung cảnh xóm ngụ cư trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, không cần đến những lời kết tội to tát, Kim Lân tố cáo tội ác dã man của bọn thực dân, phát xít và tay sai đã đẩy con người vào vòng đói khổ, biến con người thành bèo bọt, rơm rác. + Song, người lao động dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù cận kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin ở sự sống, vẫn hi vọng ở tương lai. Kim Lân đã thể hiện niềm tin vào phẩm giá con người, vào sức sống tiềm tàng của những người khốn khổ. + Qua tác phẩm, Kim Lân còn nêu lên một quan niệm có ý nghĩa nhân sinh và triết học sâu sắc: sự sống chẳng bao giờ chán nản, sự sống mạnh hơn cái chết. Vì thế, có thể coi Vợ nhặt là bài ca sự sống. 3. Đánh giá nâng cao vấn đề (0,5 điểm) - Để tạo nên một tác phẩm văn học hay, nhà văn phải gắn bó với đời sống, đồng cảm sâu sắc với số phận, cuộc đời con người, trân trọng ước mơ, khát vọng của họ; đồng thời phải có tài năng, tâm huyết mới có thể tạo ra được những nhân vật có bộ mặt tinh thần hoàn toàn riêng biệt, những tình huống độc đáo và tư tưởng sâu sắc. - Vợ nhặt là một tác phẩm xuất sắc, kết tinh tài năng và tâm huyết của nhà văn một lòng đi về với đất với người, với thuần hậu nguyên thủy (Nguyên Hồng); đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một tác phẩm hay theo quan niệm của Nguyễn Khải. ..................Hết................