Đề bài văn so sánh tác phẩm việt bắc

Show

Giới thiệu các bài văn mẫu về tác phẩm Việt Bắc bao gồm các bài phân tích, cảm nhận, liên hệ so sánh hay nhất bám sát chương trình học

Xem lời giải

Các dạng đề thi bài Việt Bắc của Tố Hữu

Dạng 1. Cảm nhận về đoạn thơ: Bài này quá dài nên sẽ không thể thi cả tác phẩm Việt Bắc, do

đó các em lưu ý mấy đoạn trọng tâm sau:

 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc

 Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu...

 Chày đêm nện cối đều đều suối xa

 Đoạn Bức tranh tứ bình: Ta về mình có nhớ ta. thuỷ chung

 Phân tích 3 khổ thơđầu bài Việt Bắc (bản tình ca về Việt Bắc)

 Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến: Những đường Việt Bắc của ta...đèo De núi Hồng

Dạng 2. Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ Việt Bắc, chứng minh nhận định về bài Việt Bắc, Cảm

nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc, Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của

Tố Hữu

Dạng 3. Đề so sánh văn học: so sánh đoạn thơ trong bài Việt Bắc với đoạn thơ trong bài Tây Tiến,

đây thôn Vĩ Dạ, Sóng,....

Dạng 4 : Cảm nhận về 1 phương diện trong nội dụng hoặc nghệ thuật của tác phẩm. Ví dụ: Tính

dân tộc trong bài thơ Việt Bắc, nghệ thuật của cách xưng hô “Mình – Ta” trong “Việt Bắc”, “Bài

thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con

người kháng chiến”...

Cách mở bài tác phẩm Việt Bắc

Biêlinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và

hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí

quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Tố Hữu chính là một đại biểu

xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối

trong cuộc đời mình ông đều gắn bó với con đường cách mạng giải phóng dân tộc, là nhà thơ của

lí tưởng cộng sản. Con đường thơ của ông luôn gắn bó, song hành và phản ánh chân thật các

chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt

Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dễ

đi vào lòng người, trở thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ “Việt Bắc” được đánh

giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của

thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954.

Phân tích một số đoạn thơ Việt Bắc

Đoạn thơ “Mình về mình có... nói gì hôm nay”

Cảm nhận về đoạn thơ “Mình về... nói gì hôm nay” trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố

Hữu:

– Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr)
I. MỞ BÀI

 Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tham khảo phần mở bài chung

 Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1. Hoàn cảnh sáng tác
  • Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử
mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan
của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì
xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ
núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào
tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường
lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến
cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
1. Kết cấu bài thơ:
  • Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca
dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những
người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho
bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng
nghĩa tình.
  • Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm
của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
1. Đề tài:
  • Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa
nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch
với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày
mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ ..à đến “Việt Bắc” của
Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi
với người Việt Bắc.
  • Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
“Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
  • Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca.
Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một
nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân
Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự
đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm
gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã
vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng –
đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.
2. Bốn câu thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại
  • Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay
nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại
thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” và Mình
về mình có nhớ không”, hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra
về hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li
biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình – ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở
giữa là cụm từ “mình có nhớ” thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại.
  • Cụm từ “mình có nhớ” được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi
nhớ da diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy
cám dỗ sẽ không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. “Việt Bắc” là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi
vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách
mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn được nhà thơ
Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông có nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
  • Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm
hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim
Trọng:
Những là dày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân
dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm
1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu
Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng
khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và rồi
là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về xuôi. Mười lăm năm “Mình
đây ta có đắng cay ngọt bùi”, mười lăm năm “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, ..àm sao kể
xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật
thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là
cách để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không
thể nào quên những ngày tháng ấy.
  • Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như
cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ
đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội
nguồn cách mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc
kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ
“Uống nước nhớ nguồn”. Phải chăng người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở
Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi
đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội
nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó
nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi
cho ta hình hài.
\=> Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của
người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi
nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.
2. Bốn câu thơ: Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Tiếng lòng của người ra đi
*Hai câu đầu:
  • Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câu hỏi
của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ tình
đầy sâu lắng. Đại từ “ai” tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi, thân thương và chỉ người ở lại.
Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên
giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng
cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương,
quyến luyến... Bởi vậy, đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.
  • Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và
bồn chồn.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản
dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể
hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, hoán
dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy
chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt
Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở
thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

Đoạn thơ “Mình đi có nhớ... mái đình cây đa”

Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr)
I. MỞ BÀI
  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
  • Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1. Hoàn cảnh sáng tác
  • Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử
mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan
của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì
xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ
núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào
tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường
lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến
cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
1. Kết cấu bài thơ:
  • Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca
dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những
người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho
bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng
nghĩa tình.
  • Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm
của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
1. Đề tài:
  • Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay.
Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với
Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn
nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ ..à đến “Việt Bắc” của Tố
Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với
người Việt Bắc.
  • Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
“Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
(Chinh phụ ngâm)
Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong
ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi
đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn,
tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những
cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán
bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến
trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”
2. Phân tích đoạn thơ: Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách
mạng tháng Tám
2. Giới thiệu đoạn thơ
  • Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người
ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ
tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Những ngày tháng gian khổ
  • Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa
nguồn, suối lũ, mây mù. Núi rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận
bão rừng đá nghiêng, cây đổ, những con suối róc rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ
cuốn phăng tất cả, rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó rất cao so với mực nước
biển. Cảnh sương mù ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện
trong “Tây Tiến” để nói về những khó khăn, gian khổ của người lính:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách
với người cán bộ cách mạng. Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ
miền xuôi chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian
khổ. Nhưng cũng từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng khổ, gắn bó chia
sẻ cùng nhau.
  • Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và
nhân dân Việt Bắc còn phải sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ.
Thiếu thốn nên chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn
trám, ăn măng, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui. Mặc dù khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn
cùng nhau vượt qua bởi cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ
có tác dụng vật chất hóa, cụ thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và
bán nước. Nghệ thuật đối lập giữa miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng
cao tầm vóc con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, người
Việt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng quân thù.
2. Bốn câu thơ: Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Những ngày tháng nghĩa tình
*Hai câu thơ đầu:
  • Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những
người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau
hơn. Bởi vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình
sâu nặng nên khi phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm nổi lòng mình mà
cất lên lời giãi bày, thổ lộ tình cảm.
  • Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết
qua hai hình thức gián tiếp và trực tiếp:
+ Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình
ảnh thiên nhiên như rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm
đầy ý nhị, khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học được từ ca dao:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ
“rừng núi” chỉ Việt Bắc và người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn
tả trong cuộc chia tay này, dường như cả thiên nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ
người cán bộ về xuôi.
Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành, mộc mạc của mình qua hình ảnh trám
bùi, măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật của cán bộ
kháng chiến, cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán
bộ. Vì thế bài thơ mới có những câu thơ tuyệt bút:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà
không hề gợi cảm giác lẻ loi, đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về
xuôi trám và măng không có người thu hái nên để trám rụng, măng già.
\=> Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình
cảm nhớ thương, cảm giác lẻ loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về ta
nhớ và nỗi lòng của con người lan tỏa cả ra thiên nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như
cũng ngẩn ngơ, trống trải, buồn bã đến lạ thường.
*Hai câu thơ sau:
  • Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây
vẫn là những hình ảnh được sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia
tay. Từ láy”hắt hiu” kết hợp với màu lau xám càng làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn
sơ, buồn bã của cảnh vật.
  • Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết
được tình cảm sâu nặng nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng
định trực tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là “đậm đà lòng son”. “Lòng son” là từ ngữ rất đắt để
thể hiện tình cảm sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy “đậm đà” cùng nghệ thuật đối
cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách
mạng, cội nguồn chiến thắng.

Đoạn thơ “Ta với mình... đều đều suối xa”

Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
  • Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr,111)
I. MỞ BÀI
  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
  • Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1. Hoàn cảnh sáng tác
  • Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử
mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan
của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì
xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ
núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào
tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường
lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến
cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
1. Đề tài:
  • Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay.
Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với
Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn
nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ ..à đến “Việt Bắc” của Tố
Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với
người Việt Bắc.
  • Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
“Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
(Chinh phụ ngâm)
Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong
ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi
đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn,
tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những
cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán
bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến
trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”
2. Phân tích đoạn thơ: Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó
2. Giới thiệu đoạn thơ
  • Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người
ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ
tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã
sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người
về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.
  • Cặp từ mình – ta: Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là
cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.
  • Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên
như:
Ta với mình tuy hai mà một
Mình với ta tuy một mà hai
“Đinh ninh” là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở
đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc nào
cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không thay lòng đổi dạ.
  • Câu thơ “Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng
bào Việt Bắc “Mình đi mình có nhớ mình”. Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng vẫn
nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm chất đạo
đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng.
  • Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định
một lần nữa sự chung thuỷ son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt
Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa trên hình ảnh ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận không
bao giờ cạn. “Bao nhiêu” thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô tận khác.
Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về
trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những người cách mạng về xuôi
với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn.
2. Câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”
Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa:
  • Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi
nhớ người yêu, một mối quan hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi liền
với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Thơ ca xưa
nay viết về nỗi nhớ trong tình yêu rất nhiều. Ca dao cũng có những câu như:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Hoặc:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai
Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt:
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi
Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi có khi bồn chồn, bối rối, bổi
hổi, bồi hồi, mãnh liệt và thường trực... Nỗi nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc phải chăng hàm chứa
mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu
đậm của người đi bởi có nỗi nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt hơn nỗi nhớ trong tình
yêu.
  • Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết
khôn nguôi. Cuộc đời mỗi con người đều không tránh được chuyện đi và ở, hội ngộ và chia li.
Những mảnh đất đã từng qua, ngững con người đã từng gắn bó đều để lại niềm thương và nỗi
nhớ như nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên trong giờ
phút chia tay tất cả kỉ niệm trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với những ấn tượng, tình
cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu được bày tỏ nỗi lòng.
2. Đoạn thơ: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng
  • Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là Việt Bắc
vào những đêm trăng. “Trăng lên đầu núi” là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp
và lãng mạn. Khung cảnh Việt Bắc có ánh trăng chiếu rọi rất nên thơ còn được nhà thơ Tố Hữu
miêu tả một lần nữa trong bài thơ:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
“Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng dịu
nhẹ trải vàng cả núi rừng và nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiên nhiên thơ mộng
ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những khoảnh khắc đẹp, gợi những đêm trăng hò
hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy.
  • Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn được thể hiện
qua hình ảnh người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây có lẽ là
một trong những hình ảnh in đậm nhất trong lòng người ra đi. Người mẹ địu con lên nương rẫy
trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để vừa trông nom, che chở cho đứa con thơ bên mình vừa
kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối lập giữa cái dữ
dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần cù, chịu thương
chịu khó, giàu đức hi sinh của người mẹ dân tộc. Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu
trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên
lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”
Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình cảm
cách mạng thiêng liêng đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành những
nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại.
2. Đoạn thơ:
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui
  • Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng vừa
làm cách mạng vừa diệt giặc dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi cực,
tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số nhân dân mù chữ. Muốn làm cách mạng phải
dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ “đồng khuya đuốc sáng”
cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên một sức
sống mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ “những giờ liên hoan” trong câu thơ cho thấy lớp
học tuy có những vất vả gian khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là trong
những giờ liên hoan sôi nổi.
  • Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưng với
tinh thần lạc quan cách mạng người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ
vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền
thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ rõ ràng. Tinh
thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát huy cao
độ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin để ta có đủ
sức mạnh đi đến chiến thắng.
  • Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, thân thương là
âm thanh tiếng mõ tiếng chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi chiều trở
về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại gợi mở bức
họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng.
Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Những âm thanh
của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý, nhớ nhung, nhưng
khi xa rồi thì những âm thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến, thổn thức. Lời thơ dứt
mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Từ láy “đều đều”
không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các buổi chiều và vào ban
đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều đều, êm ả thanh bình
trên chiến khu.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị,
quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện
qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu
đối.. nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên, con
người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy
chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm trong
lòng nhà thơ cũng như bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu biểu cho phong cách thơ
Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc.

Cảm nhận về đoạn thơ “Ta về mình có... ân tình thuỷ

chung”

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr)
I. MỞ BÀI
  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
  • Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1. Hoàn cảnh sáng tác
  • Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử
mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan
của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì
xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ
núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào
tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường
lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến
cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
1. Đề tài:
  • Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay.
Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với
Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn
nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ ..à đến “Việt Bắc” của Tố
Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với
người Việt Bắc.