Đánh giá vai trò của nhà nguyễn năm 2024

“Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới” là công trình nghiên cứu của các nhà sử học và nhiều nhà giáo giảng dạy lịch sử Việt Nam thời nhà Nguyễn (1802 - 1945). Sự tồn tại của vương triều Nguyễn suốt 143 năm trong dòng chảy lịch sử dân tộc đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới sử học nói riêng và giới khoa học xã hội Việt Nam nói chung. Từ cách tiếp cận khác nhau đã tạo ra cái nhìn và đánh giá vai trò của triều Nguyễn, công và tội của vương triều này đôi khi rất khác nhau. Chẳng hạn, vấn đề chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Nguyễn, một số nhà sử học cho rằng, đây là giai đoạn lịch sử đi xuống, nhà Nguyễn vẫn lấy tư tưởng Nho giáo, Khổng - Mạnh lỗi thời làm nền tảng. Đó là chế độ quân chủ chuyên chế, hà khắc, tham nhũng, thần phục phong kiến Trung Hoa lạc hậu nhưng lại “bế quan tỏa cảng” với thế giới phương Tây, đàn áp và cấm đạo. Vua quan thì bạc nhược, có tư tưởng đầu hàng dẫn tới mất nước. Ngược lại một số ý kiến cho rằng: dưới triều Nguyễn đã thống nhất hành chính chặc chẽ hơn trước nhiều, về dân trí đã mở mang thi cử, tuyển chọn người tài đều đặn, khai khẩn đất hoang ở phía Nam và lấn biển ở phía Bắc, v.v... Nhận định vai trò lịch sử của các vua nhà Nguyễn cũng là một vấn đề lịch sử của các vua nhà Nguyễn cũng là một vấn đề quan trọng và cần phải khách quan, vì tính lịch của họ đối với đất nước. Có vua nhà Nguyễn như Minh Mệnh đàn áp phong trào khởi nghĩa dữ dội, nhưng ông thực sự củng cố được đất nước, mở mang bờ cõi. Tự Đức có chính sách bạc nhược. Nhà Nguyễn cũng có những vị vua quyết tâm chống giặc ngoại xâm giữ gìn đất nước như Hàm Nghi, Duy Tân.. .và cả những ông vua sẵn sang làm trâu ngựa cho thực dân Pháp như Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại. 143 năm tồn tại của triều đại nhà Nguyễn là một phần quan trọng của lịch sử nước nhà, được giảng dạy ở cấp phổ thong, cao đẳng và đại học, nên cần phải sớm đi tới những nhận định nhất quán.

Để khắc phục sự bất cập trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời kỳ này, điều trước nhất là cần có một phương pháp luận sử học bắt nguồn từ khoa học lịch sử mácxit, coi “công minh lịch sử” là điều kiện tiên quyết cho việc xem xét, đánh giá lịch sử. Muốn thế, cần phải nhìn nhận vấn đề theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử. Điều này sẽ giúp cho việc nghiên cứu và giảng dạy bộ môn lịch sử có được tính khoa học và nhất quán.

“Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới” gồm 3 phần:

Phần I: Một số yêu cầu về phương pháp luận trong nghiên cứu và dạy học lịch sử thời Nguyễn

Phần II: Một số vần đề lịch sử thời Nguyễn

Phần III: Về phương pháp dạy học lịch sử thời Nguyễn.

Tháng 10/2002 cuộc hội thảo khoa học quốc gia về “Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở Đại học, Cao đẳng sư phạm và phổ thong ” do Khoa lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức đã thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử và giảng dạy lịch sử tham gia. Một số báo cáo phù hợp với tiêu chí và nội dung của “Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới” đã được đưa vào sách này.

Nhà xuất bản Đại học Sư phạm hy vọng “Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới” góp phần giúp bạn dọc có cái nhìn khách quan về lịch sử thời Nguyễn, tránh những bất cập trong đánh giá lịch sử thời kỳ này.

“Tất cả các nền văn hóa từng tồn tại trên lãnh thổ VN đều là di sản của văn hóa VN, đều là bộ phận tạo thành của văn hóa VN"

GS Phan Huy Lê

GS Phan Huy Lê đã nêu những thành tựu nổi bật mới trong nghiên cứu suốt chiều dài lịch sử VN. Theo đó, bên cạnh văn hóa Đông Sơn thì việc nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Óc Eo đã đạt được nhiều thành tựu. Ba nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo tồn tại ở ba miền Bắc, Trung, Nam đều phát triển rực rỡ và bổ sung cho nhau.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, đã có thêm những cơ sở để khẳng định cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan kéo dài gần tròn 10 năm (713-722) chứ không phải chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, bùng nổ và thất bại trong năm 722. Điều đặc biệt, cuộc khởi nghĩa không chỉ quy tụ nhân dân trong nước mà còn liên kết với nhiều quốc gia xung quanh như Chân Lạp, Chăm Pa...

Ghi nhận công lao nhà Nguyễn

GS Lê nhấn mạnh: “Một trong những công lao rất lớn của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn là mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, khai phá đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1757 chúa Nguyễn đã định hình được lãnh thổ VN mà về cơ bản gần giống như lãnh thổ VN hiện nay từ phía Bắc vào Cà Mau, từ Tây nguyên ra biển, bao gồm cả vùng biển, các đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Nhà Nguyễn có công rất lớn trong việc hình thành và định hình một nhà nước thống nhất và xác lập lãnh thổ - không gian sinh tồn của nước VN. Công lao nhà Nguyễn về phương diện này không thể chối cãi. Đã đến lúc cần nhìn rõ công, tội của nhà Nguyễn”.

Tuy nhiên, GS Lê cũng nhắc lại hai tội lớn của nhà Nguyễn là để mất nước vào tay quân Pháp và quá bảo thủ, từ chối tất cả các đề nghị canh tân đất nước của nhiều nhà trí thức tiến bộ.

“Nhìn nhận về lịch sử phải hết sức khách quan và cái gì khách quan của lịch sử mới tồn tại lâu dài được. Còn cái gì mà trong một tình thế thời sự nào đó ta phải tôn vinh hoặc hạ thấp thì nó chỉ tồn tại trong một điều kiện nhất định nào đó. Sử học đành rằng phải làm tròn trách nhiệm công dân nhưng sứ mạng cao cả nhất của sử học là làm thế nào để tạo nên được những trang sử bằng cứ liệu lịch sử khách quan, trung thực”.

Những khoảng trống lịch sử

Phần thứ hai của bài thuyết trình, GS Phan Huy Lê thẳng thắn chỉ ra nhiều khoảng trống lịch sử nguy hiểm trong tư duy, nhận thức về lịch sử VN hiện nay.

Ông cho rằng nhận thức về lịch sử VN hiện nay vẫn xuất phát từ truyền thống thời quân chủ, đó chủ yếu là lịch sử của các vương triều, của nhà vua, các triều thần, còn lịch sử nhân dân rất mờ nhạt. Lịch sử của các dân tộc thiểu số không được nhắc đến. Sử học hiện đại VN trong một thời gian dài cũng chỉ trình bày nặng về lịch sử người Việt.

“Vì vậy, trên cả nước thì chỉ có lịch sử miền Bắc là được trình bày có ngọn nguồn từ thời nguyên thủy đến thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Bắc thuộc đến thời phong kiến, cận đại, hiện đại. Còn lịch sử của Nam Trung bộ chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ 16, lịch sử Nam bộ chỉ bắt đầu từ thế kỷ 17.

Trước đó lịch sử ở hai vùng đất này ra sao thì chúng ta bỏ trống. Đó là một khoảng trống lịch sử cực kỳ nguy hiểm. Vì từ khoảng trống này đã làm nảy sinh nhiều nhận thức tùy tiện, bất lợi cho chủ quyền lãnh thổ VN hiện nay.

Tôi nhớ mãi là sau năm 1975 khi chúng tôi vào miền Nam, nhiều trí thức trong đó đã nói rằng họ rất băn khoăn khi nhân dân hỏi thì không biết trả lời thế nào về lịch sử Nam bộ trước khi người Việt vào khai phá. Nếu lấy từ thế kỷ 17 người Việt vào khai phá Nam bộ thì người ta sẽ đặt câu hỏi ngược lại vậy lịch sử của Nam bộ, của Sài Gòn trước đó thế nào? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Rõ ràng đây là nhận thức phiến diện tạo thành một khoảng trống lịch sử.

Vì sao nước ta có 54 dân tộc mà chỉ có tôn vinh lịch sử của người Việt, gạt bỏ các dân tộc khác ra ngoài?” - ông Lê trăn trở.

Xác lập quan điểm lịch sử mới

Lời giải mà GS Phan Huy Lê đưa ra để san lấp các khoảng trống lịch sử đó là cần phải xác lập một quan điểm, nhận thức mới về lịch sử VN. “Một quan điểm tuy không được đưa vào các văn kiện của Liên Hiệp Quốc nhưng gần như tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới đều thừa nhận, đó là lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc nào cũng đều xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử.

Tất cả những gì diễn ra trên không gian địa lý, lãnh thổ đó đều thuộc về chủ quyền khai thác, bảo quản và nghiên cứu của chính quốc gia đang làm chủ đó, dù trước đó có những dân tộc đã từng có nhà nước riêng.

Tất cả các tầng lớp cư dân, cộng đồng, tộc người hay các vương quốc từng tồn tại trên các không gian lãnh thổ đó đều thuộc về lịch sử và văn hóa của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh thổ đó”.

GS Lê lấy ví dụ Trung Quốc trước đây cũng viết lịch sử đất nước chủ yếu là của người Hán, nhưng bước sang đầu thế kỷ 21 thì quan điểm đó đã thay đổi, bây giờ họ trình bày lịch sử của Trung Hoa bao gồm nhiều tộc người như người Hán, người Mãn Thanh, người Mông và cả các vương triều phi Hán như nhà Nguyên, nhà Thanh...

Nếu xác lập quan điểm lịch sử mới này, chúng ta sẽ tìm được giải pháp xuyên suốt cho vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vấn đề Nam bộ.

“Lãnh thổ VN hiện nay đã được nhiều tổ chức quốc tế công nhận - tức là một lãnh thổ hợp pháp, nên tất cả những gì diễn ra trên lãnh thổ này, kể cả đất liền, hải đảo và hải phận đều là một bộ phận của lịch sử và văn hóa VN.

Như vậy, lịch sử VN không chỉ là lịch sử của một bộ phận người Việt mà là lịch sử của tất cả các dân tộc nằm trong đại gia đình các dân tộc VN, trong đó bao gồm cả các dân tộc trước đây đã từng có nhà nước riêng như người Chăm, người Khmer... Tất cả các nền văn hóa từng tồn tại trên lãnh thổ VN đều là di sản của văn hóa VN, đều là bộ phận tạo thành của văn hóa VN” - GS Lê nêu quan điểm mới về nhận thức lịch sử VN.

Cũng từ nguyên tắc này, với cuộc kháng chiến chống Pháp thì cần nghiên cứu trình bày cả vùng chiếm đóng của Pháp, trong đó bao gồm cả Hà Nội thời kỳ Pháp chiếm đóng, cả quốc gia Việt Nam thời Bảo Đại.

Tương tự, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) cũng cần nghiên cứu sâu hơn về những vùng tạm chiếm ở miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn, và cả lịch sử của VN cộng hòa. GS nói rõ hơn: “Trước đây ta vạch ra ranh giới của địch và ta và chỉ trình bày phía ta đã làm mất đi căn cứ pháp lý trọng yếu để khẳng định chủ quyền với lãnh thổ VN. Quan điểm lịch sử mới này vừa là thực tế lịch sử vừa là bộ phận có tính chất khách quan trung thực và là căn cứ pháp lý trọng yếu để khẳng định chủ quyền VN trên bộ, đặc biệt là trên biển, hải đảo”.

GS.TS sử học Nguyễn Quang Ngọc cũng cho rằng việc trình bày lịch sử ở từng khu vực trong lãnh thổ VN không nhất thiết cứ phải dựa trên mối quan hệ là sự đoàn kết mà có khi sự mâu thuẫn, đối lập, chiến tranh... trong từng giai đoạn lịch sử cũng là những mối quan hệ cần trình bày khách quan.

“Nói về VN mà lại không có các vương triều phía Nam thì không đảm bảo tính toàn vẹn. Không thể nói vấn đề các vương quốc phía Nam là vấn đề “nhạy cảm”, không nên nói. Vua Gia Long với sự cố gắng hết sức của mình đã đem lại sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ chúng ta như hôm nay thì sao không đưa ông ấy vào lịch sử?” - GS Ngọc đặt câu hỏi.

PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên viện trưởng Viện Sử học, còn trăn trở thêm là chúng ta chưa được đọc các công trình viết một cách kỹ lưỡng về nhiều vấn đề thời hiện đại như cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, hợp tác hóa nông nghiệp...

“Chúng tôi viết khách quan trung thực về những sự kiện lịch sử đã xảy ra nhưng xuyên suốt vẫn vì lợi ích của dân tộc, đất nước” - PGS.TS Trần Đức Cường khẳng định.

Nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học bảo vệ đất nước

Ông Võ Văn Thưởng - ủy viên Bộ Chính trị, trưởng Ban Tuyên giáo trung ương - chia sẻ những vấn đề mà các nhà sử học băn khoăn, trăn trở cũng là những vấn đề mà những người làm công tác tuyên giáo đang phải đối mặt và tìm cách giải quyết. Dù lịch sử có liên quan rất lớn với chính trị, nhưng các cơ quan lãnh đạo luôn nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học về xây dựng, bảo vệ đất nước.