Cơ quan thi hành án là gì

Bạn là vừa thắng kiện trong một vụ tranh chấp ở Tòa án? Bạn muốn tổ chức Thừa phát lại thi hành bản án đó cho bạn? Dưới đây là một số nội dung cần biết về quá trình thi hành án tại tổ chức Thừa phát lại để bạn tham khảo

Cơ quan thi hành án là gì

 

1. Thi hành án là gì?
    Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án.
    Ngày nay, pháp luật cho phép Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền thi hành án tương tự như Chi cục thi hành án. Tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn dịch vụ thi hành án một cách tốt nhất để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình.

Thẩm quyền thi hành án của Văn phòng Thừa phát như sau:


    Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở tại quận, huyện nào thì có thẩm quyền Thi hành án tương tự Chi Cục Thi hành án dân sự Quận, huyện nơi văn phòng Thừa phát lại có trụ sở. Tức là, Văn phòng được quyền trực tiếp tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định: 
      a) Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực của Tòa án quận, huyện nơi văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở;
      b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án Quận, huyện nơi văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở;
      c) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp quận huyện.
      Thừa phát lại có thể tổ chức thi hành các vụ việc nói trên ngoài địa bàn quận, huyện nơi nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở nếu đương sự có tài sản, cư trú hay có các điều kiện khác ngoài quận, huyện nơi văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở

2. Để được thi hành án, khách hàng phải làm gì?


   Để yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án, khách hàng cần mang theo giấy tờ tùy thân và bản án của Tòa án đến Văn phòng Thừa phát lại hoặc chúng tôi sẽ đến với khách hàng theo yêu cầu. Đội ngũ chuyên gia về công tác thi hành án của chúng tôi sẽ hướng dẫn khách hàng biện pháp tốt nhất để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. 

3. Quy trình thực hiện


3.1 Tiếp nhận yêu cầu Thi hành án
    -   Khách hàng có nhu cầu thi hành án sẽ làm việc với thư ký nghiệp vụ. Thư ký nghiệp vụ tư vấn cho khách hàng về một số quy định pháp luật có liên quan đến thi hành án.
    -   Tại đây, khách hàng cung cấp bản án, quyết định của Tòa án, điền nội dung yêu cầu thi hành án vào Phiếu yêu cầu thi hành án (theo mẫu). Thư ký nghiệp vụ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp của nội dung yêu cầu thi hành án, thẩm quyền thi hành án của Văn phòng và trình Thừa phát lại quyết định.
    -   Thư ký nghiệp vụ đề nghị khách hàng điền vào Phiếu cung cấp thông tin (theo mẫu) những thông tin cần thiết liên quan đến việc thi hành án. Trong đó, xác định rõ việc yêu cầu Văn phòng xác minh điều kiện thi hành án của khách hàng.

3.2 Ký hợp đồng thi hành án 


    -   Khách hàng và Văn phòng Thừa phát lại tiến hành ký hợp đồng thi hành án. Trong đó, xác định rõ: ngày, tháng, năm yêu cầu thi hành án; các khoản yêu cầu thi hành theo bản án, quyết định; chi phí, phương thức thanh toán mức chi phí theo từng giai đoạn thi hành án gồm xác minh điều kiện thi hành án, thực hiện thi hành án, các trường hợp thanh lý hợp đồng.
    - Hợp đồng thi hành án được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản. Thư ký nghiệp vụ ghi vào sổ theo dõi hợp đồng thi hành án.

3.3 Mời đương sự đến thỏa thuận về việc thi hành án


    Thừa phát lại thụ lý vụ việc có trách nhiệm mời các bên liên quan đến việc thi hành án đến trụ sở Văn phòng để thỏa thuận về việc thi hành án. Nếu các bên thỏa thuận được với nhau toàn bộ hoặc từng phần về việc thi hành án thì tiến hành lập biên bản về thỏa thuận đó.

3.4 Xác minh điều kiện thi hành án của đương sự


    -   Trường hợp khách hàng yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án, thì Thừa phát lại tiến hành xác minh điều kiện thi hành án theo Quy định.
    -   Nếu khách hàng không yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án thì Thừa phát lại yêu cầu Khách hàng cung cấp kết quả xác minh điều kiện thi hành án và chịu trách nhiệm về kết quả xác minh do mình cung cấp.

3.5 Thanh lý hợp đồng thi hành án.


    -   Tiền, tài sản thu được từ thi hành án được chuyển cho khách hàng sau khi khấu trừ chi phí theo hợp đồng thi hành án.
    -   Sau khi hoàn tất thủ tục thi hành án, Văn phòng Thừa phát lại tiến hành thanh lý hợp đồng thi hành án với khách hàng. 

4. Chi phí thi hành án:


    văn phòng Thừa phát lại được thu chi phí theo mức phí thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về phí thi hành án dân sự.
    Những vụ việc phức tạp, tùy theo tính chất của vụ việc, văn phòng Thừa phát lại và khách hàng có thể thỏa thuận về mức chi phí thực hiện công việc.
    Chi phí cho từng loại vụ việc cụ thể được thực hiện theo danh mục biểu phí của Văn phòng.



Các dịch vụ khác :

Quan niệm truyền thống cho rằng, thi hành án hình sự, cùng với điều tra, truy tố và xét xử đều là những giai đoạn của tố tụng hình sự. Có quan điểm lại cho rằng, thi hành án hình sự là một hoạt động bổ trợ tư pháp, cũng có quan điểm lại cho rằng thi hành án hình sự thuần túy chỉ là một hoạt động mang tính hành chính. Vậy, trong thời điểm hiện nay, đâu mới là quan điểm hợp lý? Hãy cùng tác giả đi sâu phân tích.

Thi hành án hình sự là gì?

Thi hành án hình sự là một hoạt động Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm thực thi các bản án, quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật; việc thi hành đuợc bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ; tất cả các cơ quan, tổ chức và công dân đều phải tôn trọng; tổ chức và cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành.

Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của thi hành án hình sự như sau:

Thứ nhất, thi hành án hình sự là một dạng hoạt động của Nhà nước, nhằm thực hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện, bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án bằng các biện pháp Nhà nước. Như chúng ta đã biết, một thể chế chính trị - một Nhà nước có 03 loại quyền lực cơ bản: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong đó, quyền hành pháp là quyền thi hành pháp luật. Quyền hành pháp không xuất hiện trong mọi chế độ của xã hội loài người mà nó chỉ xuất hiện khi có sự ra đời của Nhà nước và pháp luật.

Tuy ra đời cùng với Nhà nước và pháp luật nhưng không phải ở mọi thời kỳ quyền hành pháp đều được quan niệm giống nhau, mà có sự phát triển theo thời gian. Đa số các nước xã hội chủ nghĩa quyền lực Nhà nước không được phân chia theo cơ chế phân quyền mà được tổ chức theo cơ chế tập quyền. Trong cơ cấu quyền lực Nhà nước quyền hành pháp là một khái niệm chung dùng để chỉ một bộ phận quyền lực - quyền thi hành pháp luật, phản ánh mối quan hệ quyền lực giữa các bộ phận hợp thành của quyền lực Nhà nước.

Ở Việt Nam, một trong những đặc trưng của quyền hành pháp chính là tính chấp hành (tính thi hành pháp luật). Tính chấp hành của hành pháp là khả năng làm cho pháp luật được thực hiện trên thực tế bằng sức mạnh của Nhà nước, hay nói một cách khác là khả năng đưa pháp luật vào đời sống của các cơ quan nắm giữ quyền hành pháp. Có thể thấy rằng thi hành án hình sự chính là một trong những hoạt động mang tính thi hành pháp luật. Các cơ quan có thẩm quyền thi hành án hình sự (được quy định tại Điều 11, Luật Thi hành án hình sự năm 2019) có trách nhiệm thi hành bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan thi hành án có nghĩa vụ phải bảo đảm bản án hình sự được thực thi một cách nghiêm túc. Do vậy, hoạt động thi hành án hình sự mang những đặc điểm tiêu biểu của một hoạt động hành pháp. Tuy nhiên, chủ thể duy nhất có thẩm quyền tuyên một bản án hình sự có hiệu lực pháp luật là Tòa án - Cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cho nên việc thi hành bản án đó không phải là một hoạt động mang tính hành pháp thông thường, vì chủ thể tuyên án không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước. Hay nói một cách khác, thi hành án hình sự là một hoạt động hành chính – tư pháp, nó thể hiện mối liên hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Thứ hai, thi hành án hình sự được tiến hành theo trật tự do pháp luật quy định, với những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Toàn bộ quá trình thi hành các loại bản án, quyết định và các quan hệ liên quan đến việc thi hành được quy định cụ thể, rõ ràng. Trình tự thủ tục thi hành án hình sự hiện nay đã được quy định cụ thể trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cùng hệ thống những văn bản hướng dẫn.

Thứ ba, căn cứ vào nội dung của thi hành án hình sự chính là các nội dung cụ thể trong các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là điểm thể hiện rõ nhất tính tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của thi hành án. Thi hành án hình sự mang tính thực hiện quyền lực Nhà nước bởi lẽ nó thực hiện theo những nội dung quy định trong bản án đã có hiệu lực pháp luật, một văn bản của một cơ quan Nhà nước, là những phán quyết bắt buộc phải thi hành đối với một hoặc một số chủ thể nhất định. Thi hành án hình sự được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp, công cụ của Nhà nước. Trong đó, một đặc điểm quan trọng thể hiện tính quyền lực Nhà nước trong hoạt động thi hành án hình sự, đó là nó có thể sử dụng mọi biện pháp, cách thức để bắt bị án phải phục tùng, trong đó có cả biện pháp sử dụng bạo lực có tổ chức. Thi hành án hình sự cũng được thực hiện bởi lực lượng có tính chất, nhiệm vụ cưỡng chế chuyên nghiệp – quân đội và cảnh sát.

Thứ tư, thi hành án hình sự là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, có thể tước bỏ hoặc hạn chế nhất định những quyền và lợi ích về vật chất, tinh thần của người bị kết án. Khi nhận được quyết định thi hành án phạt tù, nếu đang được tại ngoại, trong thời hạn 07 ngày bị án phải đến cơ quan thi hành án được chỉ định để thi hành án, nếu không sẽ bị áp giải. Trong trường hợp bị án bỏ trốn, sẽ tiến hành truy nã và tổ chức vây bắt (Điều 23, Luật Thi hành án hình sự năm 2019). Quy định này cho thấy tính cưỡng chế vô cùng nghiêm khắc của thi hành án hình sự, bằng mọi cách phải cưỡng chế bị án đi thi hành án, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục cũng như trừng phạt bị án, và bảo vệ trật tự an toàn xã hội.

Khi thi hành án hình sự, quyền công dân của phạm nhân cơ bản bị xoá bỏ, phạm nhân chỉ được thực hiện một số quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 27, Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Đây chính là điểm mới của Luật Thi hành án hình sự năm 2019, theo đó phạm nhân được đảm bảo những quyền con người cơ bản, nhằm đáp ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế, cũng như tư duy lập pháp của Nhà nước ta. Thi hành án hình sự là một hoạt động phức tạp, đa dạng (từ việc thi hành các hình phạt chính cho đến việc thi hành các hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp) do nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện và tham gia thực hiện nhằm mục đích kết hợp trừng trị và giáo dục, giúp đỡ người bị kết án sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội.

Thứ năm, thi hành án hình sự mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh một thực tế nó không phải là hoạt động tiến hành tố tụng thuần tuý.

Hoạt động hành chính tư pháp

Vậy, bản chất của thi hành án hình sự là gì? Quan điểm của tác giả cho rằng thi hành án hình sự là hoạt động hành chính tư pháp, vì những lẽ sau:

- Tính chất hành chính - tư pháp phản ánh mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong thi hành án hình sự và thi hành án hình sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử. Với tính chất là một hoạt động chấp hành, căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của Tòa án. Toàn bộ quá trình thi hành án hình sự với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm thực hiện nội dung quyết định của bản án, quyết định của Tòa án.

- Thi hành án hình sự là dạng hoạt động quản lý vì trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án phải tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án, để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, giáo dục họ ý thức tôn trọng  pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người công dân có ích với xã hội.

- Thủ tục thi hành án hình sự không phải là thủ tục tố tụng mà là thủ tục hành chính của hoạt động chấp hành. Thủ tục thi hành án hình sự chỉ là trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, nó khác với thủ tục tố tụng – thủ tục nhằm đấu tranh tìm ra sự thật của vụ án. Thi hành án hình sự mang tính chấp hành, khác với tố tụng hình sự mang tính tranh tụng.

- Các nguyên tắc thi hành án hình sự không giống với các nguyên tắc tố tụng. Các nguyên tắc trong thi hành án hình sự đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 4, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 với những mục tiêu cơ bản là bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, đảm bảo sự công bằng bình đẳng trước pháp luật, kết hợp giữa trừng phạt và giáo dục, nhằm giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã dành ra Chương II để quy định những nguyên tắc trong tố tụng hình sự, với mục tiêu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người và tìm ra sự thật khách quan của vụ án, xét xử đúng người đúng tội, đảm bảo tính độc lập khách quan trong xét xử,... Vì mục tiêu của tố tụng hình sự và thi hành án hình sự khác nhau, nên sẽ có những nguyên tắc khác nhau.

- Cơ quan thi hành án hình sự không phải là cơ quan tiến hành tố tụng. Hệ thống các cơ quan thi hành án được ghi nhận tại Điều 11, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 gồm hệ thống cơ quan thi hành án hình sự (trại giam, cơ quan thi hành án hình sự) thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng, trại tạm giam thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng, UBND cấp xã và đơn vị quân đội cấp trung đoàn trở lên. Đặc biệt, Tòa án cũng có một số nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác thi hành án hình sự (Điều 21, Luật Thi hành án hình sự năm 2019). Tuy nhiên, nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự chỉ dừng lại ở việc ra các quyết định chỉ đạo việc thi hành án, giao nhận bản án theo quy định, chứ không trực tiếp tiến hành hoạt động thi hành án hình sự. Vì vậy, có thể thấy các cơ quan thi hành án hình sự không phải là những cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra hình sự, VKS và Tòa án).

- Trong thi hành án, để thực hiện các hoạt động chấp hành và quản lý nói trên, phương pháp thuyết phục giáo dục có ý nghĩa quan trọng, nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành có tính chất đặc thù (trong thi hành án hình sự đó là phương pháp chủ yếu và có tính tiên quyết). Điều này xuất phát từ tính chất của thi hành án như đã nêu ở trên. Ngay cả trong trường hợp người phải thi hành án tự nguyện thực thi hành nghĩa vụ của mình thì cũng là vì họ hiểu rằng Tòa án đã phán xét, sự thực đã được làm sáng tỏ (nghĩa là trước đó họ đã không tự nguyện) và nếu không thi hành thì họ sẽ phải chịu các biện pháp cưỡng chế của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Quá trình thi hành một số loại án hình sự, các chủ thể có nghĩa vụ thi hành án có thể tự thoả thuận với người được thi hành án để tự thi hành hoặc thi hành dưới sự giám sát của cơ quan thi hành án.

- Thi hành án hình sự là hoạt động của cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hoá hoạt động này. Đây là điểm khác so với hoạt động tố tụng. Hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp tuyệt đối và không thể thực hiện xã hội hoá. Xã hội hoá thi hành án đúng đắn chắc chắn sẽ mang lại nhiều lợi ích như giảm nhẹ bộ máy tổ chức, biên chế. Phát huy vai trò và sức mạnh của các tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc giáo dục, thuyết phục, cảm hoá người bị thi hành án tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình. Giảm nhẹ sức ép về tâm lí và tạo điều kiện thuận lợi để gắn công tác thi hành án với việc giải quyết các vấn đề xã hội... Tuy nhiên, đây cũng là những vấn đề rất khó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cơ bản, toàn diện cả về mặt lí luận và thực tiễn.

Bản chất của tố tụng hình sự chính là trình tự, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Hiểu một cách khái quát nhất, tố tụng hình sự là việc Tòa án – Cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, xem xét những lập luận, chứng cứ buộc tội một thể nhân (hoặc một pháp nhân) từ những cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố (Cơ quan điều tra hình sự, Viện Kiểm sát,...) cũng như những lập luận, chứng cứ gỡ tội từ những chủ thể có thẩm quyền theo luật định (Luật sư, đại diện hợp pháp của pháp nhân,...). Sau đó phân tích, đánh giá theo quy định của pháp luật và đưa ra một phán quyết cuối cùng, mang tính chất quyết định chung – bản án hình sự.

Giáo dục phạm nhân

Như vậy, tố tụng hình sự đã kết thúc khi bản án do Tòa án đưa ra có hiệu lực pháp luật. Quá trình thi hành bản án đó chỉ là một hoạt động hành chính – tư pháp bình thường (hoạt động quản lí Nhà nước mang tính chất chấp hành, điều hành đối với lĩnh vực tư pháp). Vì vậy, quan điểm truyền thống cho rằng thi hành án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự là không hợp lý, cần phải được loại bỏ. Vấn đề này đã được nhận thức đúng đắn và được nội luật hoá một cách cụ thể.

Nếu như trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thi hành án hình sự được coi là một giai đoạn của tố tụng, và được ghi nhận tại Phần thứ năm: Thi hành bản án và quyết định của Tòa án (chương XXV đến chương XXIX), thì sang đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, phần thi hành án hình sự đã được cắt bỏ hoàn toàn, chỉ còn một số nội dung về thi hành án tử hình, tha tù trước thời hạn có điều kiện và xoá án tích được ghi nhận tại Chương XXIV. Mọi vấn đề liên quan đến thi hành án hình sự đều được ghi nhận tại Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cùng những văn bản hướng dẫn.

Khoa học pháp lý ngày càng phát triển, đòi hỏi các cơ quan làm công tác pháp luật phải hiểu rõ và áp dụng linh hoạt những quan điểm mới trong hoạt động chuyên môn. Hiểu rõ bản chất của thi hành án hình sự mới có thể tiến hành hoạt động thi hành án một cách hiệu quả, hoàn thành được mục tiêu sâu xa nhất mà hoạt động này mang lại: giáo dục phạm nhân trở thành con người lương thiện, đủ điều kiện, khả năng tái hoà nhập xã hội.

Theo lsvn.vn

Phạm nhân lao động cải tạo - Ảnh: MH