Các nguyên tắc về phương pháp giáo dục thể chất

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. BÀI 4: CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT Nguyên tắc tập luyện TDTT là những nguyên tắc chuẩn mà mọi người tham gia tập luyện TDTT đều phải tuân thủ trong quá trình tập luyện. Nghĩa là những khái quát và những tổng kết kinh nghiệm tập luyện TDTT trong thời gian dài, nó cũng phản ánh quy luật khách quan của tập luyện TDTT. Thực tế tập luyện TDTT đã cho chúng ta thấy bất kể một hành vi tập luyện TDTT có hiệu quả sớm thường là kết quả của việc tự giác hay không tự giác tuân theo một số nguyên tắc tập luyện. Việc tập luyện TDTT không thể tách rời những nguyên tắc tập luyện đúng đắn, bắt buộc phải hiểu và nắm bắt cũng như tuân theo những nguyên tắc tập luyện TDTT. I. Nguyên tắc tự giác tích cực Tính tích cực của người tập TDTT thường thể hiện qua hoạt động tự giác, gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập, được bắt nguồn từ thái độ học tập tốt, cố gắng nắm được những kỹ năng, kỹ xảo cùng hiểu biết có liên quan, phát triển thể chất và tinh thần. Rõ ràng tính hiệu quả của quá trình sư phạm phụ thuộc rất nhiều vào sự tự giác, tích cực của sinh viên. Để phát huy được tính tự giác, tích cực của sinh viên phải đảm bảo các yêu cầu sau: 1. Giáo dục thái độ tự giác và hứng thú bền vững đối với mục đích tập luyện chung cũng nhƣ các nhiệm vụ cụ thể của buổi tập Động cơ tham gia hoạt động là tiền đề cần thiết để đảm bảo thái độ tự giác đối với hoạt động. Động cơ tham gia tập luyện rất đa dạng, ở mỗi lứa tuổi, mỗi người khác nhau. Vì vậy phải xây dựng động cơ đúng đắn cho sinh viên và người tập. Do đó người cán bộ phải biết cách làm cho người tập hiểu được ý nghĩa chân chính của hoạt động TDTT, hiểu được bản chất xã hội của TDTT như một phương tiện để phát triển cân đối toàn diện cơ thể, củng cố và nâng cao sức khỏe, chuẩn bị cho lao động sáng tạo và bảo vệ tổ quốc. Hứng thú là hình thức biểu hiện của động cơ – đó là sự tập trung tích cực sự chú ý và ý nghĩa về một đối tượng, một hoạt động nhất định. Hứng thú giữ vai trò quan trọng trong thái độ tích cực, tự giác học tập của sinh viên. Vì vậy, việc xây dựng hứng thú là cơ sở vững chắc phát huy tính tự giác tích cực cho sinh viên. Hứng thú được biểu hiện dưới 2 hình thức: + Hứng thú nhất thời: biểu hiện thái độ tích cực trong buổi tập khi có các hình thức tập luyện hợp lý, hấp dẫn. Xây dựng hứng thú nhất thời bằng các phương pháp sau: - Tiến hành buổi tập sinh động, có sức lôi cuốn bằng các hình thức buổi tập hợp lý. - Tăng cường các cuộc thi đấu nhỏ và sử dụng phương pháp trò chơi. - Sử dụng các hình thức mẫu trực quan, hợp lý, đẹp để tăng tính nghệ thật của động tác... + Hứng thú bền vững: là hứng thú biểu hiện trong suốt quá trình học tập. Vì vậy, trong quá trình GDTC phải xây dựng hứng thú bền vững cho sinh viên, tức là làm cho sinh viên hiểu được ý nghĩa, tác dụng của tập luyện TDTT. Điều đó sẽ tạo cho sinh viên cũng như người tập có thái độ tự giác, tích cực trong suốt quá trình tập luyện. 29
  2. 2. Kích thích việc phân tích một cách có ý thức việc kiểm tra và dùng sức hợp lý khi thực hiện các bài tập thể chất. Trong GDTC chỉ có thể lặp lại động tác một cách thường xuyên, liên tục, có phân tích chỉ rõ những ưu nhược điểm thì người tập mới nhanh chóng nắm được kỹ thuật động tác và mới nâng cao được hiệu quả của các lần thực hiện động tác. Ngoài vai trò chủ đạo của giảng viên trong đánh giá và uốn nắn hoạt động của người tập thì kết quả của việc tập luyện phụ thuộc vào sự tự đánh giá của người tập, kể cả năng lực tự đánh giá các thông số về không gian, thời gian và mức độ dùng sức trong quá trình thực hiện động tác. Do vậy, trong quá trình giảng dạy, để đạt được hiệu quả cao cần nâng cao khả năng tự kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng cách thông tin cấp tốc các thông số động tác, tập luyện bằng tư duy... 3. Phải giáo dục tính tự lập, chủ động, sáng tạo của sinh viên Tính tự lập, chủ động và sáng tạo là cơ sở để nâng cao hiệu quả vận động. Vì vậy phải giáo dục cho sinh viên những kỹ năng tự giải quyết các nhiệm vụ vận động và sử dụng hợp lý các phương tiện, phương pháp GDTC. Muốn vậy phải truyền thụ có hệ thống cho người tập các kiến thức nhất định trong GDTC, phải phát triển ở họ các kỹ xảo sư phạm cho dù là đơn giản nhất, cũng như kỹ xảo tự kiểm tra. II. Nguyên tắc trực quan 1. Khái niệm và bản chất 1.1. Khái niệm Trực quan là sự tác động trực tiếp của thế giới khách quan vào các giác quan của con người. Trực quan có 2 loại: Trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp. *Trực quan trực tiếp: là những tác động vào các giác quan làm cho ta có hình ảnh sống của hoạt động đó. Ví dụ: Giảng viên làm mẫu, thị phạm… *Trực quan gián tiếp: là những tác động vào các giác quan không phải là những hình ảnh sống. Ví dụ: quan sát tranh, phim, ảnh hay mô hình… Lời nói với ý nghĩa đầy đủ và phù hợp với kinh nghiệm vận động của người tập cũng thuộc về trực quan gián tiếp. Mối quan hệ giữa trực quan gián tiếp và trực quan trực tiếp: Mỗi loại trực quan trong quá trình GDTC đều có tầm quan trọng đặc biệt. Trực quan trực tiếp là cơ sở cho trực quan gián tiếp, trực quan gián tiếp bổ sung cho trực quan trực tiếp. Chính xác hơn, dễ hiểu hơn khi chi tiết và cấu trúc động tác mà thông qua trực quan trực tiếp khó quan sát hoặc hoàn toàn không nhìn thấy. Ví dụ: những chi tiết kỹ thuật động tác không thể nhìn thấy bằng mắt mà phải thông qua quan sát trên phim quay chậm. 1.2. Bản chất Muốn đảm bảo hiệu quả của GDTC thì nhất thiết phải sử dụng 2 loại trực quan để người tập có biểu tượng vận động đúng. 2. Cơ sở của nguyên tắc Căn cứ vào quy luật của quá trình nhận thức (trực quan - tư duy - thực tiễn). Xuất phát từ nhiệm vụ của quá trình GDTC là cần phải phát triển tất cả các giác quan. 30
  3. 3. Trực quan là tiền đề để tiếp thu động tác Muốn tiếp thu động tác phải xây dựng biểu tượng đúng về động tác đó. Biểu tượng động tác chỉ xuất hiện khi người tập được quan sát động tác (thông qua trực quan). Để các loại trực quan tạo ra tiền đề tiếp thu động tác người ta cần tiến hành theo 2 cách: - Học các loại động tác mới trên cơ sở tiếp thu tốt động tác cũ và tuân thủ trình tự giảng dạy hợp lý. - Sử dụng tổng hợp các loại trực quan khác nhau. 4. Trực quan là điều kiện để hoàn thành động tác Dạy học động tác ở giai đoạn đầu cần phải sử dụng trực quan để xây dựng kỹ thuật động tác. Sang giai đoạn sau vẫn phải sử dụng trực quan để hoàn thành chi tiết kỹ thuật động tác và xây dựng cảm giác chuyên môn của động tác. Ví dụ: đối với những động tác khó, khi người học được quan sát các hình ảnh qua phim quay chậm sẽ quan sát được các chi tiết kỹ thuật động tác, đặc biệt xây dựng nhanh chóng cảm giác chuyên môn trong quá trình hoàn thiện động tác. Trong giai đoạn hoàn thiện kỹ thuật động tác thì trực quan gián tiếp nổi lên hàng đầu vì trong giai đoạn này vai trò của cơ quan phân tích vận động và các cách thức đảm bảo trực quan lại tăng đáng kể. Các cơ quan cảm giác ngày càng phối hợp nhau chặt chẽ để điều khiển hoàn chỉnh động tác. Song sự tác động lên nhiều giác quan cùng một lúc trong điều kiện vận động phức tạp không phải lúc nào cũng tốt, có khi sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, trong thực tế cần phải hạn chế sự tác động vào nhiều giác quan cùng một lúc. 5. Những yêu cầu đảm bảo tính trực quan - Sử dụng phương tiện trực quan phải phù hợp với lứa tuổi. - Phải xác định rõ mục đích trực quan cho sinh viên. - Đảm bảo tính tích cực, tự giác tư duy của sinh viên. - Tỷ lệ giữa trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp phải phù hợp vời từng giai đoạn giảng dạy. - Hình ảnh trực quan phải tác động tốt vào các giác quan. III. Nguyên tắc thích hợp, cá biệt hóa 4. Bản chất Trong GDTC, khi đưa ra một yêu cầu nào đó thì phải tương ứng với khả năng người tập và phải tính toán đến đặc điểm cá nhân của người đó như: lứa tuổi, giới tính, trình độ chuẩn bị thể lực… thì mới mang lại hiệu quả. 5. Cơ sở của nguyên tắc Xuất phát từ nguyên tắc nâng cao sức khỏe. Yêu cầu phù hợp với người tậpđể phát huy được tính tự giác, tích cực của người tập nhằm mang lại hiệu quả trong quá trình GDTC. 6. Các yêu cầu của nguyên tắc * Lượng vận động phải vừa sức với người tập, nghĩa là LVĐ không quá cao và cũng không quá thấp có kích thích sự phát triển cho người tập. Muốn xác định được LVĐ vừa sức thì trong quá trình xây dựng nội dung học tập phải căn cứ vào chương trình chung và cần kiểm tra y học, kiểm tra sư phạm thường xuyên để xác định trạng thái chức năng cơ thể của người tập mà thay đổi LVĐ cho phù hợp. 31
  4. * Phải đảm bảo tính kế thừa giữa các buổi tập và trình tự động tác khác nhau. Buổi tập trước trở thành bậc thang cho buổi tập tiếp theo. * Phải tuân theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều, nghĩa là phải tăng từ từ các yêu cầu tập luyện bởi vì các chức phận của cở thể cần có thời gian để thích nghi. * Phải sử dụng nhiều các phương tiện chuyên môn: bài tập bổ trợ, bài tập dẫn dắt trong buổi học động tác tạo thuận lợi nhanh chóng đạt được hiệu quả trong quá trình GDTC. 4. GDTC phù hợp với các yêu cầu cá nhân Trong quá trình GDTC việc sử dụng các phương tiện, phương pháp, các điều kiện tiến hành tập luyện phải phù hợp với đặc điểm cá nhân để đảm bảo phát triển năng lực của họ ở mức cao nhất. Nếu LVĐ quá mức sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người tập hoặc yêu cầu quá cao trong quá trình tiếp thu động tác cũng không đạt hiệu quả trong việc trang bị những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết… Vấn đề cá biệt hóa trong GDTC thường tiến hành theo 2 hướng chính: + Chuẩn bị chung: Biểu hiện ở những yêu cầu tập luyện như nhau nhằm trang bị cho họ một số kỹ năng, kỹ xảo vận động quan trọng trong cuộc sống và những tri thức có liên quan, đồng thời phát triển tố chất thể lực. Trong quá trình đó cũng có những yêu cầu riêng để phù hợp với đặc điểm cá nhân hoặc có thể cá biệt hóa theo yêu cầu chung bằng con đường riêng. + Chuyên môn hóa: Biểu hiện ở những hoạt động lựa chọn làm nội dung chuyên môn hóa phải phù hợp với đặc điểm cá nhân. Ngay trong cùng một chuyên môn sâu, mức độ phấn đấu bằng những con đường thực hiện ở mỗi người cũng khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân từng người. Chú ý: - Bên cạnh việc GDTC phù hợp với đặc điểm cá nhân thì GDTC còn dựa vào quy luật chung nhất của giáo dục, không được đem sự đối xử cá biệt đối lập với những con đường chung của quá trình GDTC. - Quá trình GDTC không chỉ chạy theo đặc điểm cá nhân người tập mà còn phải chỉ đạo các đặc điểm cá nhân đó cho phù hợp với GDTC. IV. Nguyên tắc hệ thống 3. Tính thƣờng xuyên của các buổi tập và luân phiên hợp lý giữa tập luyện và nghỉ ngơi 1.1.Tính thường xuyên của các buổi tập Nếu tập luyện thường xuyên, liên tục thì có thể có những biến đổi về cấu trúc, chức năng, về hình thái KNKX vận động và phát triển các tố chất vận động. Chỉ cần ngừng tập luyện trong một thời gian ngắn là những mối liên hệ phản xạ có điều kiện vừa xuất hiện đã bắt đầu mờ tắt đi và các chức năng cơ thể vừa đạt được đã bị giảm… Do đó hoàn thiện thể chất chỉ có thể đạt được trong GDTC khi tập luyện thường xuyên. Tính thường xuyên được đảm bảo trong khoảng thời gian giữa 2 lần tập, 2 buổi tập, 2 chu kỳ tập luyện không được quá dài làm mất đi những biến đổi có lợi của những lần tập trước. Cụ thể của tính thường xuyên là một tuần tập 2-3 buổi đối với người thường, 10-12 buổi đối với VĐV có trình độ tập luyện cao. 1.2. Sự luân phiên giữa tập luyện và nghỉ ngơi 32
  5. * Kết quả trực tiếp của tập luyện sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi, năng lực hoạt động bị giảm xuống, nghỉ ngơi sau tập luyện thì năng lực vận động được phục hồi và hồi phục vượt mức. Nếu sau từng buổi tập mà nghỉ quá lâu thì hiệu quả của tập luyện sẽ bị giảm bớt và dần trở về mức độ ban đầu. * Điểm then chốt của nguyên tắc hệ thống trong quá trình GDTC là không cho phép nghỉ đến mức mất hiệu quả tốt đã có qua tập luyện. Vì vậy, về nguyên tắc buổi tập sau được tiến hành trên “dấu vết” của buổi tập trước, đồng thời củng cố sâu thêm các dấu vết đó (tạo hiệu quả tích lũy). * Về nguyên tắc buổi tập sau được tiến hành khi cơ thể đã hồi phục vượt mức sau lần tập luyện trước do nghỉ ngơi. Thông thường được bố trí vào 1 trong 3 thời điểm sau: - Tiến hành khi năng lực vận động chưa trở lại trạng thái hồi phục. Thường dùng cho VĐV có trình độ cao trong huấn luyện sức bền. - Tiến hành khi năng lực vận động đã hồi phục và hồi phục vượt mức ban đầu. Thường dùng trong huấn luyện và giáo dục sức nhanh, sức mạnh. - Tiến hành khi năng lực vận động đã hồi phục vượt mức, thường dùng cho người mới tập và huấn luyện kỹ thuật động tác và giáo dục sức mạnh, sức nhanh. Trong quá trình GDTC, căn cứ vào các yếu tố, giai đoạn tập luyện, mục đích, nhiệm vụ giáo dục các tố chất thể lực, căn cứ vào trình độ VĐV và đối tượng tập luyện mà sắp xếp buổi tập sau vào các thời điểm hợp lý. 4. Sự phối hợp giữa tập luyện lặp lại và tập luyện biến dạng Trong quá trình tập luyện, muốn hình thành được kỹ năng, kỹ xảo vận động và phát triển các tố chất thể lực thì phải tiến hành lặp lại nhiều lần một hoạt động nào đó. Có thể tiến hành lặp lại toàn bộ động tác, cũng có thể lặp lại một nội dung nào đó trong buổi tập, cũng có thể lặp lại tuần tự các buổi tập trong 1 tuần, 1 tháng… việc lặp lại các hoạt động này phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Đặc điểm kỹ thuật động tác. - Phương hướng, nội dung của buổi tập và các giai đoạn tập luyện. - Đặc điểm khả năng của người tập. - Tính chất, ảnh hưởng việc thực hiện LVĐ. Nếu tiến hành tập luyện lặp lại quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến KNKX vận động mới và ảnh hưởng tới sự phát triển các tố chất thể lực. Vì vậy trong tập luyện phải được biến dạng, đó là sự biến dạng rộng rãi các bài tập và các điều kiện thực hiện chúng, thay đổi LVĐ một cách linh hoạt, thay đổi nội dung và hình thức tập luyện… 3. Tuần tự các buổi tập và mối liên hệ lẫn nhau giữa các mặt khác nhau trong nội dung các buổi tập Trong quá trình GDTC có nhiều nội dung và trong mỗi một buổi tập người ta nhằm giải quyết 1 nội dung nhất định. Việc sắp xếp tuần tự các buổi tập căn cứ vào các yếu tố sau: - Căn cứ vào nhiệm vụ chính của buổi tập. - Đảm bảo tính dễ tiếp thu. - Sắp xếp các buổi tập theo quy tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đã biết đến chưa biết, từ LVĐ thấp đến LVĐ cao. - Đối với quá trình GDTC tiến hành từ theo xu hướng chung rộng rãi đến 33
  6. chuyên môn hóa sâu. - Đối với quá trình phát triển các tố chất thể lực phải phát triển khả năng phối hợp vận động sau đó đến phát triển các tố chất: Nhanh, mạnh, bền… Khi sắp xếp các nội dung học trong một buổi tập, một tuần tập cần phải chú ý đến sự chuyển tốt các kỹ xảo vận động và tố chất thể lực, hạn chế sự chuyển xấu giữa chúng. V. Nguyên tắc tăng dần các yêu cầu (nguyên tắc tăng tiến) 1. Sự cần thiết phải tăng LVĐ một cách từ từ Muốn tăng vốn KNKX vận động, muốn phát triển các tố chất thể lực thì cần phải tăng LVĐ. Để tiếp thu được kỹ thuật động tác, tránh tập luyện quá sức, tránh cảm giác sợ hãi thì phải tăng từ từ. Cơ thể thích nghi với một LVĐ nào đó không phải ngay lập tức, trong cùng một lúc, mà cần phải có thời gian nhất định để cho kịp xảy ra các biến đổi thích nghi. Các khoảng thời gian thích nghi phụ thuộc vào độ lớn của LVĐ, trình độ tập luyện, giới tính… nếu các điều kiện khác nhau thì LVĐ càng lớn thời gian cần để cơ thể người tập thích nghi với LVĐ đó càng dài. Như vậy, có thể kết luận rằng đặc điểm tiêu biểu của diễn biến LVĐ là tính tuần tự. 2. Các hình thức tăng LVĐ Có 3 hình thức tăng LVĐ: tăng theo đường thẳng; tăng theo bậc thang và tăng theo làn sóng. * Hình thức tăng theo đường thẳng: LVĐ sau lớn hơn LVĐ trước và tăng từ từ. Hình thức này thường áp dụng trong 1 tuần. * Hình thức bậc thang: Tăng nhanh LVĐ rồi ổn định LVĐ đó trong một số buổi tập nhất định rồi lại tiếp tục tăng, thường sử dụng trong 1 tuần, 1 tháng. * Hình thức tăng theo làn sóng: Phối hợp tăng từ từ đến đỉnh cao rồi lại giảm dần và chuyển sang sóng khác ở mức cao hơn. Ưu điểm: - Đáp ứng được nhu cầu hồi phục chậm. - Phù hợp với nhịp sinh học (cũng theo làn sóng). - Giải quyết mâu thuẫn giữa cường độ vận động và khối lượng vận động. 3. Những điều kiện nâng cao LVĐ LVĐ phải dễ tiếp thu, đảm bảo LVĐ vừa sức với người tập, đảm bảo tính tuần tự khi tăng tiến các yêu cầu, đảm bảo tính thường xuyên và sự luân phiên hợp lý giữa tập luyện và nghỉ ngơi để đảm bảo tính bền vững kỹ xảo vận động và củng cố vững chắc những biến đổi chức năng của cơ thể do bài tập trước để lại. 34
  7. BÀI 5: GIÁO DỤC CÁC TỐ CHẤT THỂ LỰC Bên cạnh các yếu tố hiểu biết, đạo đức, ý chí, kỹ thuật và chiến thuật, thể lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả hoạt động của con người, trong đó có thể dục TT. Hơn nữa rèn luyện (phát triển) thể lực lại là một trong hai đặc điểm cơ bản, nổi bật của quá trình GDTC. Bởi vậy, những người thường xuyên tập luyện thể dục TT rất cần có những hiểu biết về bản chất, các quy luật và phương pháp rèn luyện chúng. Trong lý luận và phương pháp thể dục TT, tố chất thể lực (tố chất vận động) là những đặc điểm, mặt, phần tương đối riêng biệt trong thể lực của con người và thường được chia thành năm loại cơ bản: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khả năng phối hợp động tác và độ dẻo. Do các hoạt động, nghề nghiệp, các môn TT ngày càng phức tạp, đa dạng và tinh vi nên cấu trúc và yêu cầu về thể lực cũng rất khác nhau. Dưới đây chúng tôi chỉ trình bầy những cơ sở chung ban đầu về các khái niệm, nhiệm vụ và các phương tiện rèn luyện sức mạnh. I. Các phƣơng pháp giáo dục sức mạnh 1. Khái niệm sức mạnh: Là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng sức mạnh cơ bắp, nói cách khác, sức mạnh của con người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp. 2. Nhiệm vụ và phƣơng tiện rèn luyện sức mạnh: Nhiệm vụ chung của quá trình rèn luyện sức mạnh nhiều năm là phát triển toàn diện và đảm bảo khả năng phát huy cao sức mạnh trong các hình thức hoạt động vận động khác nhau. Nhiệm vụ cụ thể của rèn luyện sức mạnh là: - Tiếp thu và hoàn thiện các khả năng thực hiện các hình thức sức mạnh cơ bản: Sức mạnh tĩnh lực và động lực, sức mạnh đơn thuần và sức mạnh tốc độ, sức mạnh khắc phục và sức mạnh nhượng bộ. - Phát triển cân đối sức mạnh của tất cả các nhóm cơ của hệ vận động. - Phát triển năng lực sử dụng hợp lý sức mạnh trong các điều kiện khác nhau. Ngoài ra tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi hoạt động mà đề ra các nhiệm vụ rèn luyện sức mạnh chuyên môn. Để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng các bài tập sức mạnh, tức là các động tác với lực đối kháng. Căn cứ vào tính chất lực đối kháng, các bài tập sức mạnh được chia thành hai nhóm. + Các bài tập với lực đối kháng bên ngoài: Các bài tập với dụng cụ nặng. Các bài tập với lực đối kháng của người cùng tập. Các bài tập với lực đàn hồi. Các bài tập với lực đối kháng của môi trường bên ngoài (chạy trên cát, trên mùn cưa…). + Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể. Ngoài ra, trong rèn luyện sức mạnh, người ta còn sử dụng rộng rãi các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể cộng thêm với trọng lượng của vật thể bên ngoài. 35
  8. 3. Các khuynh hƣớng, phƣơng pháp cơ bản trong rèn luyện sức mạnh: Như trên đã nêu, trong rèn luyện sức mạnh là tạo ra kích thích lớn đối với hoạt động của cơ. Trong thực tế, thường có 3 cách tạo căng cơ tối đa: - Lặp lại cực hạn lượng đối kháng chưa tới mức tối đa. - Sử dụng lượng đối kháng tối đa. - Sử dụng trọng lượng chưa tới mức tối đa với tốc độ cực đại 3.1. Sử dụng lượng đối kháng tới mức tối đa với số lần lặp lại cực hạn. Phương pháp nỗ lực lặp lại có những ưu điểm sau: + Tăng sức mạnh cùng với sự phì đại cơ bắp. Khối lượng vận động lớn tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ trong quá trình trao đổi chất. + Tăng thiết diện cơ nhờ tập luyện gọi là phì đại vận động. Nói chung các sợi cơ không phân chia. Trong trường hợp đặc biệt mới thấy một số rất ít sợi cơ bị phân chia nhỏ. Với sự phì đại quá lớn, có thể dẫn tới hiện tượng tách cơ theo chiều dọc một cách cơ học, nhưng chúng vẫn có chung dây chằng. + Sử dụng lượng đối kháng chưa tới mức tối đa sẽ hạn chế được hiện tượng ép khí lồng ngực. + Bài tập với lượng đối kháng chưa tới mức tối đa tạo khả năng kiểm tra kỹ thuật tốt hơn. + Đối với người mới tập sử dụng phương pháp nỗ lực lặp lại hạn chế được chấn thương. + Tiêu hao năng lượng tương đối lớn cũng có lợi với buổi tập theo xu hướng sức khoẻ. Phương pháp nỗ lực lặp lại có những nhược điểm sau: + Không có lợi thế về mặt năng lượng. + Hiệu quả của phương pháp thấp hơn so với sử dụng lượng đối kháng tối đa. 3.2. Sử dụng lượng đối kháng tối đa và gần tối đa: Trong trường hợp cần tăng sức mạnh cơ bắp nhưng hạn chế được hiện tượng tăng khối lượng của nó, người ta thường tập luyện theo xu hướng thứ 2 – xu hướng sử dụng lượng đối kháng tối đa và gần tối đa. 3.3. Sử dụng các bài tập tĩnh trong rèn luyện sức mạnh. II. Các phƣơng pháp giáo dục sức nhanh 1. Khái niệm sức nhanh Là một tổ hợp thuộc tính chức năng của con người, nó quy định chủ yếu và trực tiếp đặc tính tốc độ động tác cũng như thời gian phản ứng vận động. 2. Phƣơng pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động. 2.1. Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản. Phương pháp phổ biến nhất trong rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản là tập lặp lại phản ứng với các tín hiệu xuất hiện đột ngột. VD: Lặp lại nhiều lần với tiếng súng lệnh, chạy đổi hướng theo tín hiệu. Đối với người mới tập, phương pháp lặp lại nhanh chóng đem lại kết quả tốt, sau đó sức nhanh phản ứng ổn định và rất khó có thể phát triển thêm. 2.2. Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động phức tạp. Phản ứng vận động phức tạp thường gặp trong TT gồm hai loại: Phản ứng đối với vật thể di động và phản ứng lựa chọn. 36
  9. Trong phản ứng đối với vật thể di động thì kỹ năng quan sát giữ vai trò cơ bản. Để phát triển kỹ năng quan sát, người ta sử dụng các bài tập phản ứng đối với vật di động, yêu cầu tập luyện được gia tăng thông qua tốc độ vật thể, tăng tính bất ngờ và rút ngắn cự ly.VD: Trò chơi vận động với bóng nhỏ. Phản ứng lựa chọn xảy ra khi cần chọn một trong số những động tác có thể để đáp lại sự thay đổi hành vi của đối phương hoặc sự biến đổi tình huống. VD: VĐV đấu kiếm khi phòng thủ có thể lựa chọn một trong những động tác có thể sử dụng tuỳ theo động tác tấn công của đối phương. Tính phức tạp của phản ứng lựa chọn phụ thuộc vào tình huống cụ thể. 2.3. Phương pháp rèn luyện tốc độ Tốc độ tối đa mà con người có thể phát huy trong động tác nào đó không chỉ phụ thuộc vào sức nhanh mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như sức mạnh động lực, độ linh hoạt khớp, mức hoàn thiện kỹ thuật. Vì vậy, rèn luyện sức nhanh động tác cần kết hợp chặt chẽ với rèn luyện các tố chất thể lực khác và hoàn thiện kỹ thuật. Từ đó có thể tách biệt hai xu hướng trong rèn luyện tốc độ. - Nâng cao tần số động tác. - Hoàn thiện các nhân tố ảnh hưởng tới tốc độ tối đa. III. Các phƣơng pháp giáo dục sức bền 1. Khái niệm sức bền Là khả năng thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước, hay là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được. 2. Các phƣơng pháp phát triển sức bền 2.1. Những nhiệm vụ và yêu cầu Sức bền trong vận động thể lực bị chi phối bởi rất nhiều nhân tố. Do đó để phát triển sức bền, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm hoàn thiện và nâng cao những nhân tố đó. Trong số những nhân tố chi phối sức bền phải kể đến: Kỹ thuật TT hợp lý, bảo đảm phát huy được hiệu quả và đồng thời tiết kiệm được năng lượng trong khi vận động. Năng lực duy trì trong thời gian dài trạng thái hưng phấn của các trung tâm thần kinh. Khả năng hoạt động cao của hệ tuần hoàn và hô hấp. Tính tiết kiệm của các quá trình trao đổi chất. Cơ thể có nguồn năng lượng lớn. Sự phối hợp hài hoà trong hoạt động của các chức năng sinh lý. Khả năng chịu đựng chống lại cảm giác mệt mỏi nhờ nỗ lực ý chí. Nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm cho cơ thể thích nghi dần dần với lượng vận động ngày càng lớn. điều này đòi hỏi người tập phải có ý chí kiên trì, chịu đựng những cảm giác mệt mỏi đôi khi rất nặng nề và cảm giác nhàm chán do tính đơn điệu của bài tập. Mặt khác, đòi hỏi có sự tích luỹ, thích nghi dần dần và kéo dài liên tục trong nhiều năm. Những ý đồ nôn nóng, gò ép, đốt cháy giai đoạn chẳng những không đem lại kết quả, mà còn có hại đối với người tập. Nâng cao sức bền chung là cơ sở để nâng cao sức bền chuyên môn và nâng cao năng lực vận động của cơ thể nói chung. Tập luyện có hệ thống sẽ nâng cao 37
  10. được sức bền một cách đáng kể. 2.2. Các yếu tố lượng vận động trong tập luyện nâng cao sức bền. Tất cả các phương pháp tập luyện nâng cao sức bền trong các môn TT có chu kỳ đều dựa trên sự kết hợp của 5 yếu tố cơ bản của lượng vận động. Đó là: tốc độ hay cường độ bài tập; thời gian thực hiện bài tập; thời gian nghỉ giữa quãng; tính chất nghỉ ngơi giữa quãng; số lần lặp lại. 2.3. Phương pháp nâng cao khả năng ưa khí. Khả năng ưa khí của cơ thể là khả năng tạo ra nguồn năng lượng cho hoạt động cơ bắp thông qua quá trình O2 hoá các hợp chất giàu năng lượng trong cơ thể. Để nâng cao khả năng ưa khí cần giải quyết 3 nhiệm vụ: Nâng cao khả năng hấp thụ O2 tối đa, nâng cao khả năng kéo dài thời gian mức hấp thụ O2 tối đa, làm cho hệ thống tuần hoàn và hô hấp nhanh chóng đạt được mức hoạt động với hiệu xuất cao. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nâng cao khả năng ưa khí của cơ thể là phương pháp đồng đều liên tục, phương pháp biến đổi và phương pháp lặp lại. 2.4. Phương pháp nâng cao khả năng yếm khí. Khả năng yếm khí là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng phóng năng lượng không có sự tham gia của O2). Nâng cao khả năng ưa khí cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao khả năng yếm khí tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những hoạt động yếm khí. Tuy nhiên nhiệm vụ chính ở đây là tăng cường khả năng giải phóng năng lượng nhờ các phản ứng phân huỷ photphocreatin và phân huỷ glucôza, đồng thời nâng cao khả năng chịu đựng trạng thái nợ O2 ở mức cao. Các bài tập nhằm hoàn thiện cơ chế giải phóng năng lượng từ Photphocrêatin có những đặc điểm sau: - Cường độ hoạt động gần tới mức tối đa hoặc thấp hơn một chút. - Thời gian nghĩ giữa quãng từ 2 - 3 phút. - Sử dụng hình thức nghỉ ngơi tích cực. - Số lần lặp lại tuỳ thuộc vào trình độ tập luyện của người tập, sao cho tốc độ không bị giảm. Để hoàn thiện cơ chế glucô phân (tức nâng cao khả năng yếm khí của cơ thể) cần áp dụng những bài tập có những đặc điểm sau đây. - Cường độ vận động (tốc độ di chuyển) xấp xỉ tối đa. - Thời gian mỗi lần lặp lại có thể từ 20 giây đến 2 phút (các cự ly bơi 200m, các cự ly chạy từ 200m – 600m). - Khoảng cách nghỉ ngơi nên giảm dần sau mỗi lần lặp lại. VD Giữa lần thứ nhất và thứ hai nghỉ 5-8phút, lần thứ hai và lần thứ 3 từ 3-4phút. - Tính chất nghỉ ngơi trong trường hợp này không cần phải là nghỉ ngơi tích cực, nhưng cũng cần tránh trạng thái hoàn toàn là yên tĩnh.. - Số lần lặp lại trong hoạt động có quãng nghỉ giảm dần thường không quá 3- 4 lần. Trên đây đã trình bày các phương pháp tác động có chọn lọc đến những cơ 38
  11. chế yếm khí riêng biệt. Trong thực tế, các phương pháp được áp dụng thường mang tính tổng hợp hơn; Kết hợp những tác động nhằm nâng cao khả năng ưa khí với khả năng yếm khí. Bởi vì khả năng ưa khí là cơ sở để phát triển những khả năng yếm khí, còn cơ chế glucô phân là cơ sở để phát triển cơ chế phôtphocrêatin. Đồng thời các phản ứng yếm khí là nhân tố quan trọng để kích thích phát triển khả năng ưa khí. 3. Vấn đề “Cực điểm” và “hô hấp lần hai” trong giáo dục sức bền Trong khi chạy ở các cự ly trung bình và dài thường xuất hiện sau khi chạy một thời gian không lâu hiện tượng tức ngực, khó thở, cảm giác chân nặng, động tác không còn nhịp nhàng…hiện tượng này gọi là “Cực điểm”. “Cực điểm” xuất hiện là do khi cơ thể chuyển đổi từ trạng thái tương đối ổn định sang trạng thái hoạt động kịch liệt, chức năng của trạng thái vận động đã chuyển hoá sang trạng thái làm việc, nhưng các cơ quan nội tạng (VD hệ thống hô hâp, hệ tuần hoàn…) tính ỳ vẫn cao trong thời gian ngắn không thể phát huy chức năng hoạt động ở mức độ cao nhất, khiến cho cơ thể thiếu O2, một lượng lớn axit lactic và CO2 được tích tụ làm cho mối quan hệ giữa trung khu thần kinh thực vật và tủy sống bị thay đổi về nhịp điệu phối hợp, gặp phải tình trạng dừng tạm thời, do vậy mà xuất hiện “Cực điểm”. Sau khi xuất hiện “Cực điểm” chỉ cần giảm tốc độ chạy thích hợp, hít thở sâu, kiên trì với động tác chạy về trước thì những cảm giác không tốt do “Cực điểm” tạo ra sẽ mất đi, động tác sẽ nhịp nhàng, nhẹ nhàng có lực trở lại, năng lực làm việc lại bắt đầu được nâng lên, hiện tượng này được gọi là “Hô hấp lần hai”. IV. Giáo dục năng lực phối hợp vận động 1. Đặc điểm của năng lực phối hợp vận động Nếu như các năng lực sức mạnh, sức nhanh, sức bền dựa trên cơ sở của hệ thống thích ứng về mặt năng lượng thì năng lực phối vận động (NLPHVĐ) lại phụ thuộc chủ yếu vào các quá trình điều khiển hành động vận động. Việc xác định năng lực phối hợp vận động về cơ bản dựa trên cơ sở lý luận của tâm lý học hiện đại về khái niệm năng lực và dựa trên cơ sở học thuyết vận động. Theo quan điểm này NLPHVĐ là một phức hợp các tiền đề của người tập (cần thiết ít hoặc nhiều) để thực hiện thắng lợi một hoạt động TT nhất định. Năng lực này được xác định trước hết thông qua các quá trình điều khiển (các quá trình thông tin) và được người tập hình thành và phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận động có quan hệ chặt chẽ với các phẩm chất tâm lý và năng lực khác như SN,SM,SB. Năng lực phối hợp của người tập được thể hiện ở mức độ tiếp thu nhanh chóng và có chất lượng cũng như việc hoàn thiện củng cố và vận dụng các kỹ xảo về kỹ thuật TT. Tuy nhiên, giữa NLPHVĐ và kỹ xảo về kỹ thuật TT có điểm khác nhau cơ bản. Trong khi kỹ xảo về kỹ thuật TT chỉ nhằm giải quyết một nhiệm vụ vận động cụ thể thì NLPHVĐ là tiền đề cho rất nhiều hành động vận động khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm các loại hoạt động TT và yêu cầu riêng của chúng về PHVĐ, người ta phân thành bảy loại NLPHVĐ: Năng lực liên kết vận động. Đó là năng lực nhằm liên kết các hoạt động vận động của từng bộ phận cơ thể, các phần động tác trong mối quan hệ với hoạt động chung của cơ thể theo mục đích hành động nhất định. Nó thể hiện sự kết hợp các yếu tố về không gian, thời gian và dùng sức trong quá trình vận động. Năng lực 39
  12. liên kết vận động có ý nghĩa đối với tất cả các môn TT, đặc biệt các môn TT mang tính chất kỹ thuật như thể dục dụng cụ, các môn bóng và các môn TT đối kháng hai người. Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin chính làm cơ sở cho năng lực này là: phân tích thị giác và phân tích cảm giác cơ bắp. Năng lực định hướng: đó là năng lực xác định, thay đổi tư thế và hoạt động của cơ thể trong không gian và thời gian. Ví dụ như trên sân bóng, trên võ đài hoặc trên dụng cụ thể dục. Năng lực định hướng có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn TT mang tính chất kỹ thuật, các môn bóng và các môn TT đối kháng hai người, vì trong các môn này người tập luôn phải thay đổi tư thế và vị trí của mình trong không gian. Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin chính làm cơ sở cho năng lực này là phân tích thị giác. Năng lực thăng bằng: đó là năng lực ổn định trạng thái thăng bằng của của cơ thể (thăng băng tĩnh) hoặc duy trì và khôi phục nó trong và sau khi thực hiện động tác (thăng bằng động). Năng lực thăng bằng có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn TT như: Thể dục nghệ thuật, thể dục dụng cụ, trượt băng nghệ thuật,trượt băng tốc độ, bơi thuyền, Judo, vật,… Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin chính làm cơ sở cho năng lực này là: cơ quan phân tích thị giác, phân tích tiền đình, phân tích cảm giác cơ bắp. Năng lực nhịp điệu: đó là năng lực nhận biết được sự luân chuyển các đặc tính chuyển động trong quá trình một động tác hoặc thể hiện nó trong khi thực hiện động tác. Năng lực này chủ yếu thể hiện ở sự tiếp thu một nhịp điệu từ bên ngoài như âm nhạc, những âm thanh đơn giản, hay sự tri giác bằng mắt và sau đó có thể tái hiện chính xác nhịp điệu đó trong quá trình thực hiện động tác. Năng lực nhịp điệu có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn TT như: thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật, aerobic, khiêu vũ, trượt băng nghệ thuật và là cơ sở quan trọng để tiếp thu kỹ thuật trong các môn TT khác. Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin chính làm cơ sở cho năng lực này là: phân tích tiền đình,phân tích xúc giác và phân tích cảm giác cơ bắp. Năng lực phản ứng: đó là khả năng dẫn truyền nhanh chóng và thực hiện các phản ứng vận động một cách hợp lý và nhanh chóng đối với một tín hiệu (đơn giản hoặc phức tạp). Năng lực phản ứng có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn bóng, các môn TT đối kháng hai người, các môn chạy tốc độ (100m), bơi… Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin chính làm cơ sở cho năng lực này là: phân tích thị giác và phân tích thính giác. Năng lực phân biệt vận động: đó là năng lực thực hiện động tác một cách chính xác cao và tinh tế từng hoạt động riêng lẻ, từng giai đoạn của quá trình đó. Năng lực này thể hiện qua sự phân biệt có ý thức và chính xác các thông số về thời gian, không gian và dùng sức trong biểu tượng vận động của người tập. Năng lực phân biệt vận động có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn TT mang tính chất kỹ thuật, các môn TT đối kháng hai người, bơi lội… Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin chính làm cơ sở cho năng lực này là phân tích cảm giác cơ bắp. Năng lực thích ứng: đó là năng lực chuyển chương trình hành động phù hợp với hoàn cảnh mới hoặc tiếp tục thực hiện hành động đó theo phương thức khác dựa trên các cơ sở tri giác những thay đổi của hoàn cảnh hoặc dự đoán các thay đổi đó. Sự thay đổi quá trình thực hiện động tác do tình huống thay đổi có thể được 40
  13. người tập đoán trước, có thể bất ngờ hoặc hoàn toàn không đoán được. Trong trường hợp tình huống thay đổi không lớn lắm thì năng lực này thể hiện ở việc thay đổi các thông số vận động riêng lẻ trên cơ sở giữ nguyên nhiệm vụ vận động. Còn khi có những thay đổi lớn thì năng lực đó biểu hiện ở sự chuyển đổi chương trình hành động một cách nhanh chóng và hợp lý. Năng lực thích ứng có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn TT mang tính chất đối kháng hai người và đối với các môn bóng. Cơ quan thu nhận và xử lý thông tin làm cơ sở cho năng lực này là: phân tích thị giác, phân tích xúc giác và phân tích cảm giác cơ bắp. Việc phân chia năng lực phối hợp vận động thành bảy năng lực riêng có tính đặc thù khác nhau không có nghĩa là chúng tách rời nhau mà ngược lại các năng lực này luôn có mối quan hệ khăng khít, thống nhất, là một tập hợp các tiền đề cho các hoạt động TT khác nhau. Từng năng lực thể hiện rõ yêu cầu nổi trội của nó trong các hoạt động cụ thể. 2. Ý nghĩa của năng lực phối hợp vận động Như đã trình bày ở trên, năng lực phối hợp vận động là cơ sở cho việc tiếp thu nhanh chóng và thực hiện một cách hiệu quả các hành động vận động phức tạp. Do vậy, phát triển tốt các năng lực này sẽ giúp cho con người (đặc biệt là trẻ em) sau này có thể thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, hợp lý và đẹp các hoạt động vận động trong đời sống hàng ngày, trong lao động sản xuất, trong lĩnh vực quốc phòng và đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong hoạt động TT nâng cao. Ý nghĩa đó được thể hiện ở những điểm sau: Phát triển ở một trình độ cao tất cả các năng lực phối hợp vận động và phát triển có mục đích các năng lực đó mà từng hoạt động TT chuyên sâu đòi hỏi làm cơ sở quan trọng để người tập nâng cao chất lượng các kỹ năng, kỹ xảo cơ bản tiếp thu được ở môn TT chuyên sâu. Có trình độ cao về khả năng phối hợp vận động (bên cạnh một vốn kỹ xảo vận động phong phú) sẽ học được nhanh và hoàn thiện các bài tập phức tạp trong các giai đoạn huấn luyện tiếp theo. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với các môn TT đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Có khả năng phối hợp vận động cao và rộng, người tập sẽ tiếp thu nhanh các phương pháp nhằm phát triển thể lực chung, nhằm khởi động trước các buổi tập và thi đấu có lượng vận động cao hoặc nhằm nghỉ ngơi tích cực. Đánh giá được khách quan mức độ phát triển cá biệt của người tập về khả năng phối hợp vận động sẽ góp phần tích cực vào việc tuyển chọn các VĐV có năng khiếu. Đặc biệt là các VĐV thuộc các môn TT mang tính chất kỹ thuật phức tạp. 3. Phƣơng pháp phát triển khả năng phối hợp vận động Việc lựa chọn các phương tiện tập luyện nhằm phát triển khả năng phối hợp vận động cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau: Phương pháp chính là tập luyện, phương tiện chính là các bài tâp thể lực. Năng lực chỉ phát triển thông qua hoạt động. Do vậy, muốn phát triển NLPHVĐ phải thông qua sự tập luyện một cách tích cực, thông qua việc học và hoàn thiện các bài tập được lựa chọn làm phương tiện để phát triển năng lực này. Việc học tập các kỹ xảo vận động cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển các NLPHVĐ. Ngoài ra có thể sử dụng các bài tập tâm lý (mentales training) để phát triển năng lực xử lý thông tin và nhanh chóng hình thành các biểu tượng vận động theo nhiệm vụ vận động đặt ra. 41
  14. Các bài tập được sử dụng làm phương tiện phát triển khả năng phối hợp vận động cần yêu cầu người tập thực hiện chính xác và thường xuyên phải kiểm tra tính chính xác của bài tập một cách có ý thức. Năng lực tri giác và điều khiển cách hành động vận động được phản ánh và giữ lại trong ý thức của người tập, lặp lại nhiều lần sai lầm về kỹ thuật sẽ dẫn đến việc củng cố các biểu tượng sai về kỹ thuật động tác và hạn chế sự phát triển kỹ xảo. Cần sử dụng các phương tiện tập luyện nhằm phát triển chức năng của các cơ quan phân tích. Các cơ quan phân tích là một phần của hệ thống thần kinh–cơ, được coi là một bộ phận của “thực thể sinh lý” của khả năng phối hợp vận động. Phương thức hoạt động của nó ảnh hưởng đến trình độ của khả năng phối hợp vận động. Do vậy cần sử dụng các phương tiện phụ nhằm phát triển chúng. Việc phát triển có mục đích một cơ quan phân tích cũng có tác dụng phát triển nhiều NLPHVĐ riêng lẻ. Ví dụ, sử dụng ghế quay để phát triển chức năng tiền đình góp phần nâng cao năng lực thăng bằng và đồng thời nâng cao năng lực định hướng. Cần sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao yêu cầu về phối hợp vận động của các bài tập thể lực. Sau đây là một số biện pháp chính: Đa dạng hóa việc thực hiện động tác. Ví dụ, có thể thay đổi các giai đoạn của động tác hoặc thay đổi vận động của các bộ phận cơ thể như: đi, chạy, nhảy với các động tác tay khác nhau, thực hiện động tác với các nhịp điệu khác nhau… Thay đổi điều kiện bên ngoài. Thực hiện động tác trong điều kiện nâng cao độ khó của môi trường như: thực hiện động tác với các dụng cụ có độ cao khác nhau, các trọng lượng khác nhau, với các đối thủ khác nhau hoặc trong các phạm vi hoạt động khác nhau như thi đấu trên sân hẹp… Phối hợp các kỹ xảo kỹ thuật với nhau. Ví dụ: liên kết các động tác trong thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật hoặc trong các môn bóng ( ném, bắt, chạy – chuyền bóng, chạy- ném bóng…) Thực hiện động tác với yêu cầu thời gian. Ví dụ, phải thực hiện động tác trong một thời gian ngắn nhất ( tuy nhiên phải đảm bảo độ chính xác). Phương pháp này có tác dụng phát triển năng lực phản ứng, năng lực định hướng và năng lực liên kết vận động. Thay đổi việc thu nhận thông tin. Việc thu nhận và xử lý các thông tin về thị giác, thính giác, xúc giác, thăng bằng và cảm giác cơ bắp có ý nghĩa đặc biệt nhằm điều khiển vận động. Do vậy, cần phải yêu cầu người tập kiểm tra một cách có ý thức việc điều khiển các động tác trong quá trình vận động. Có thể sử dụng thêm các thông tin phụ nhằm đạt mục đích như trên: Sử dụng gương nhằm nâng cao khả năng kiểm tra về thị giác khi thực hiện các động tác phức tạp đối với người tập TT hoặc sử dụng thêm các điểm đích trong các bài tập phản ứng. Để nâng cao độ khó trong khi thực hiện bài tập, có thể hạn chế thông tin, thông thường là các thông tin về thị giác, ví dụ như làm động tác thăng bằng mà mắt nhìn lên trên, nhìn sang bên hoặc nhắm mắt… Thực hiện các bài tập có yêu cầu cao về phối hợp vận động khi đã xuất hiện mệt mỏi. Sau một lượng vận động phù hợp, yêu cầu người tập phải thực hiện các bài tập đòi hỏi sự phối hợp vận động phức tạp (trong trường hợp này, người tập phải nắm 42
  15. vững kỹ thuật, nếu không sẽ có hậu quả xấu do thực hiện sai kỹ thuật). Phải ngừng tập, nếu xuất hiện sai lầm kỹ thuật do mệt mỏi gây nên. Sau các buổi tập thể lực với các bài tập phát triển chung, có thể thực hiện các bài tập nhằm phát triển năng lực định hướng, năng lực phân biệt, năng lực thích ứng…Thí dụ, thực hiện các bài tập phức tạp vào phần cuối buổi tập, thực hiện các bài tập thăng bằng sau khi đã lộn hoặc quay nhiều lần. Các phương pháp nhằm phát triển NLPHVĐ rất phong phú, có thể phối hợp chúng với nhau hoặc thực hiện một cách có trọng điểm từng phương pháp. Việc lựa chọn và sử dụng từng phương pháp cần căn cứ vào đặc điểm của từng năng lực cần phát triển. Cần thường xuyên nâng cao mức độ khó khăn về phối hợp vận động của các bài tập, vì chỉ nâng cao kích thích đối với cơ thể mới tạo được một trình độ thích ứng cao hơn. V. Giáo dục tố chất mềm dẻo 1. Đặc điểm của tố chất mềm dẻo Năng lực mềm dẻo là một trong những tiền đề để người tập có thể giành được thành tích cao trong môn TT chuyên sâu. Mềm dẻo là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn. Biên độ tối đa của động tác là thước đo của năng lực mềm dẻo. Trước đây, người ta xếp năng lực mềm dẻo cùng nhóm với các tố chất thể lực như SM, SN, SB. Hiện nay có nhiều quan điểm xếp năng lực mềm dẻo vào nhóm các năng lực phối hợp vận động. Năng lực mềm dẻo được phân thành hai loại: mềm dẻo tích cực và mềm dẻo thụ động. Mềm dẻo tích cực là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn ở các khớp nhờ sự nỗ lực của cơ bắp. Mềm dẻo thụ động là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn ở các khớp nhờ tác động của ngoại lực như: trọng lượng của cơ thể, lực ấn, ép của giảng viên hoặc bạn tập… Năng lực mềm dẻo phụ thuộc vào đàn tính của cơ bắp và dây chằng. Tính chất đàn hồi cao của bộ máy vận động và sự phát triển chưa ổn định của hệ thống xương, khớp trong lứa tuổi thiếu niên là điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lực mềm dẻo. 2. Ý nghĩa của năng lực mềm dẻo Mềm dẻo là tiền đề quan trọng để đạt được những yêu cầu về số lượng và chất lượng động tác. Nếu năng lực mềm dẻo không được phát triển đầy đủ sẽ dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong quá trình phát triển năng lực TT như: - Thời gian học và hoàn thiện các kỹ xảo vận động bị kéo dài hoặc thậm chí không thể hoàn thiện được kỹ thuật động tác. - Sự phát triển của các năng lực (SM, SN, SB và NLPHVĐ) bị hạn chế hoặc không đầy đủ. - Biên độ động tác bị hạn chế. Do vậy ảnh hưởng đến sức nhanh của động tác (quãng đường tăng gia tốc ngắn). Ví dụ trong môn ném đẩy, VĐV phải thực hiện động tác với sự nỗ lực rất lớn và do vậy chóng dẫn đến mệt mỏi. - Chất lượng thực hiện động tác bị hạn chế, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích thi đấu của VĐV. Ví dụ như các môn thể thao có tính chất kỹ thuật (thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật, khiêu vũ, nhảy cầu…) ở các môn TT này chất lượng động tác là tiêu chuẩn để đánh giá thành tích của VĐV. 3. Phƣơng pháp phát triển năng lực mềm dẻo 43
  16. Phương pháp chính để phát triển năng lực mềm dẻo là kéo giãn cơ bắp và dây chằng. Người ta thường sử dụng phương pháp này dưới các hình thức sau: - Kéo giãn trong thời gian dài: duy trì sự kéo giãn các nhóm cơ và dây chằng trong nhiều giây tới khi có cảm giác đau gần tới giới hạn chịu đựng. Thông thường mỗi bài tập kéo giãn khoảng 10 – 20 giây và lặp lại bài tập đó từ 3 – 4 lần. - Tăng sự đàn hồi khi kéo giãn tới khi đạt được mức tối đa bằng các động tác lăng đơn giản ( như lăng chân phía trước, phía bên hoặc phía sau) hoặc đè ép theo dạng đàn hồi ( do GV hoặc bạn tập) cho tới khi các nhóm cơ bị kéo giãn đạt được biên độ lớn nhất. - Kết hợp các động tác kéo giãn bằng đá lăng với việc dừng lại ở vị trí cao nhất của đá lăng (vị trí kết thúc). Ví dụ, lăng chân sang bên độ 6 đến 8 lần, sau đó dừng lại ở vị trí cao nhất từ 3 đến 5 giây. Lặp lại bài tập đó từ 5 – 6 lần. 4. Nguyên tắc phát triển năng lực mềm dẻo Việc lựa chọn các bài tập phát triển năng lực mềm dẻo cần xuất phát từ yêu cầu của môn TT chuyên môn, từ các bài tập chuyên môn khác và từ trình độ phát triển của người tập. Cần rèn luyện mềm dẻo một cách liên tục và hệ thống. Tốt nhất là tập luyện hàng ngày. Bởi sau khi đạt được trình độ cao nếu ngừng tập hoặc để cách quãng nhiều buổi tập thì năng lực mềm dẻo sẽ giảm sút nhanh chóng. Đàn tính của cơ bắp và dây chằng cũng như khả năng làm việc của cơ bắp, phụ thuộc vào sự tuần hoàn máu. Do vậy, trước các bài tập mềm dẻo cần khởi động kỹ. Giữa các bài tập mềm dẻo cần bố trí xen kẽ các bài tập thả lỏng hoặc xoa bóp nhẹ. Cần kết hợp các bài tập phát triển năng lực mềm dẻo thụ động với các bài tập phát triển năng lực mềm dẻo tích cực. Không nên sắp xếp các bài tập mềm dẻo vào phần cuối buổi tập hoặc sau phần tập sức mạnh vì mệt mỏi làm giảm khả năng đàn tính của cơ bắp, làm giảm hiệu quả tập luyện mềm dẻo và có thể gây ra chấn thương. Sức mạnh có liên quan đến năng lực mềm dẻo tích cực. Do vậy cần đưa các bài tập phát triển sức mạnh chuyên môn vào chương trình huấn luyện năng lực mềm dẻo. 5. Kiểm tra năng lực mềm dẻo Trong quá trình huấn luyện, tập luyện cao, cần phải thường xuyên kiểm tra mức độ phát triển của năng lực mềm dẻo. Người ta thường đánh giá năng lực mềm dẻo theo số đo độ góc hay theo độ dài. Sau đây là một số ví dụ về các bài tập kiểm tra năng lực mềm dẻo * Các bài tập kiểm tra năng lực mềm dẻo của khớp vai: 1. Đứng dựa lưng, mông và gót chân vào hòm thể dục (hòm cao bằng vai), tay duỗi thẳng theo hướng lên cao và ra sau. Đo góc tạo thành giữa tay và mặt trên của hòm. 2. Xoay vai bằng gậy thể dục. Đưa khoảng cách giữa hai tay nắm. * Các bài tập kiểm tra năng lực mềm dẻo của cột sống: 1. Uốn cầu. Đo khoảng cách giữa tay và chân (yêu cầu khi thực hiện động tác uốn cầu tay và chân phải duỗi thẳng). 44
  17. 2. Nằm sấp nâng hai chân lên cao. Đo độ cao từ ngón chân tới mặt đất. * Các bài tập kiểm tra năng lực mềm dẻo của khớp chậu đùi: 1. Đứng trên bục gỗ cao khoảng 50–60 cm, gập chân về trước, hai chân thẳng, với tay sâu xuống mặt trước của bục (có bảng chia độ dài theo cm). Đo khoảng cách từ mặt trên của bục đến điểm chạm của ngón giữa. 2. Đứng tựa lưng vào tường nâng chân ra trước, đo góc tạo thành giữa hai chân. 3. Xoạc ngang, đo khoảng cách từ mặt đất tới đùi. VI. Mối tƣơng quan giữa các tố chất thể lực Các tố chất thể lực trên liên quan mật thiết với nhau. Có mối quan hệ, hiện tượng chuyển giữa các tố chất thể lực. Điều đó có nghĩa: khi tập (phát triển) một tố chất thể lực (như sức mạnh) thì đồng thời cũng có phụ thuộc và ảnh hưởng đến sự phát triển của các tố chất khác như tốc độ chẳng hạn. Sự chuyển dương tính (tốt) có nghĩa là sự phát triển một tố chất này có tác dụng nâng cao tố chất khác. Và sự chuyển âm tính (xấu) thì ngược lại. Trong thực tế tập luyện, cũng xuất hiện tình trạng phát triển tố chất (A) ảnh hưởng tốt đến tố chất (B), nhưng lại không tốt với tố chất (C). Tập tạ (sức mạnh) cần cho phát triển tốc độ nhưng có ảnh hưởng đến độ dẻo. Sự chuyển trực tiếp có nghĩa là sự phát triển tố chất thể lực này có tác dụng trực tiếp, ngay (dù xấu hay tốt) đến các tố chất khác. Nâng cao sức mạnh của cơ chân sẽ có lợi ngay cho tốc độ và sức bật. Còn sự chuyển gián tiếp tất nhiên không có tác dụng trực tiếp mà chỉ góp phần tạo tiền đề. Tập phát triển thích hợp sức mạnh tương đối tĩnh của cơ chân trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuẩn bị cũng góp phần nâng cao tốc độ nhưng phải có thời gian, không nâng cao ngay được. Sự chuyển trực tiếp hay gián tiếp đều có sự chuyển đồng loại và khác loại. Sự chuyển đồng loại là sự chuyển của cùng một tố chất thể lực sang những động tác khác (có thể tập chạy hoặc bơi cự ly dài để phát triển sức bền chung) và sự chuyển khác loại là sự chuyển qua lại giữa các tố chất thể lực khác nhau. Ngoài ra còn có sự chuyển qua lại như giữa tốc độ và sức mạnh và sự chuyển một chiều. Trong tập luyện tốc độ, nâng cao tốc độ động tác có thể cùng nâng cao tốc độ phản ứng, nhưng ngược lại thì không thể. Mối quan hệ tương hỗ giữa các tố chất thể lực rất phong phú. Giáo viên, người tập cần phải có hiểu biết xác thực vấn đề trên để có thể lựa chọn, sử dụng một cách khoa học các phương tiện, phương pháp GDTC, sao cho lợi dụng được tối ưu quan hệ đó, phòng tránh các ảnh hưởng không tốt, nâng cao chất lượng tập luyện. 45
  18. BÀI 6 : CHẤN THƢƠNG TRONG TT VÀ VỆ SINH TẬP LUYỆN TDTT I. Chấn thƣơng trong TT 1. Khái niệm Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện và thi đấu thể dục TT. Chấn thương trong TT khác với các chấn thương trong sinh hoạt và lao động ở chỗ nó có liên quan trực tiếp với các nhân tố và điều kiện tập luyện TT như các môn TT, kế hoạch huấn luyện, động tác kỹ thuật, trình độ tập luyện... 2. Nguyên nhân của các chấn thƣơng và nguyên tắc đề phòng Tìm hiểu và nắm vững quy luật phát sinh chấn thương TT là điều cần thiết đối với mỗi giáo viên thể dục TT, học sinh, sinh viên và những người yêu thích hoạt động thể dục TT. Sử dụng các biện pháp an toàn có hiệu quả là cách tốt nhất trong công tác đề phòng, làm giảm tới mức thấp nhất tỷ lệ chấn thương TT, đảm bảo sức khoẻ cho người tham gia hoạt động thể dục TT. 2.1. Nguyên nhân của chấn thƣơng TT Nguyên nhân gây ra chấn thương TT có rất nhiều. Dựa vào các tư liệu nghiên cứu, tổng hợp các nguyên nhân chấn thương TT ở trong nước và ngoài nước hiện nay, có thể phân thành hai mặt: Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân tiềm ẩn (nguyên nhân dẫn dắt). 2.1.1. Nguyên nhân cơ bản (nguyên nhân trực tiếp hoặc nguyên nhân chung).  Tư tưởng không coi trọng hoặc thiếu tri thức đề phòng. Sự phát sinh các chấn thương TT gắn liền với việc thiếu các tri thức cần thiết về việc đề phòng chấn thương của những tổ chức hoạt động thể dục TT, giáo viên, hướng dẫn viên và những người thường xuyên tham gia tập luyện thể dục TT.  Những thiếu sót trong khởi động: Thiếu sót trong khởi động dẫn đến chấn thương có những tình huống sau đây: + Không khởi động hoặc khởi động không đầy đủ. Tập luyện và thi đấu căng thẳng khi hệ thống thần kinh và các hệ thống chức năng khác chưa được phát động một cách đầy đủ (cơ thể chưa được làm nóng lên). + Sự kết hợp giữa nội dung khởi động với nội dung buổi học, nội dung huấn luyện không thích đáng, thiếu phần khởi động chuyên môn, chức năng của các bộ phận gánh vác nặng, trọng lượng chưa được cải thiện. + Lượng vận động khởi động quá lớn. Do lượng vận động phần khởi động quá lớn nên vừa mới bắt đầu bước vào vận động chính thức đã sản sinh cảm giác mệt mỏi, chức năng cơ thể không ở vào trạng thái tốt mà bắt đầu giảm xuống. + Thời gian cách quãng giữa khởi động và vận đô ̣ng chính quá dài. Khi thời gian cách quãng quá dài sẽ làm cho tác dụng sinh lý do khởi động tạo ra giảm đi hoặc mất hẳn.  Trình độ huấn luyện kém.  Trạng thái cơ thể không tốt. Đó là ngủ và nghỉ không tốt, bị ốm hoặc chấn thương chưa lành hoàn toàn hoặc mệt mỏi và khi chức năng cơ thể giảm sút...  Phương pháp tổ chức không thoả đáng.  Vi phạm quy tắc TT. Không tuân thủ luật thi đấu, không phục tùng trọng tài, cố tình phạm quy hoặc đùa nghịch trong giờ giảng dạy huấn luyện  Sân bãi dụng cụ, trang phục không phù hợp yêu cầu vệ sinh an toàn, khí 46
  19. hậu thời tiết xấu. 2.1.2. Nguyên nhân tiềm ẩn của chấn thương (Nguyên nhân dẫn dắt). Nguyên nhân dẫn dắt của chấn thương là do hai nhân tố tiềm ẩn về sinh lý, giải phẫu của các bộ phận cơ thể nào đó và đặc điểm kỹ thuật của bản thân môn TT quyết định. Chỉ khi có sự tác động của nguyên nhân trực tiếp thì những yếu tố tiềm ẩn này mới trở thành nguyên nhân dẫn tới chấn thương. Có rất nhiều nhân tố nội tại khác nhau và quy luật phát sinh chấn thương của mỗi nhân tố này cũng rất khác nhau.  Đặc điểm giải phẫu sinh lý. Chấn thương có mối quan hệ nhất định với đặc điểm giải phẫu của bộ phận cục bộ nào đó, VD: Khớp vai khi vận động, bả vai dễ cọ sát, chèn ép vào các tổ chức xung quanh mà tạo ra chấn thương.  Đặc điểm về lứa tuổi. Bộ phận hay bị chấn thương và tỷ lệ phát sinh chấn thương ở các lứa tuổi khác nhau cũng khác nhau. VD: Khi ngã mông chạm đất hoặc bất kỳ sự xoay trong hoặc xoay ngoài mạnh mẽ của xương đùi, hoặc với tác dụng của lực bên ngoài giống nhau thì ở người già dễ bị gẫy xương đùi hơn là đối tượng thanh thiếu niên. Đặc điểm của kỹ thuật bản thân môn TT. Do đặc điểm và yêu cầu kỹ thuật, các môn TT bao giờ cũng có sự khác nhau về lượng vận động phải chịu đựng đối với các bộ phận cơ thể. Vì vậy đối với mỗi môn TT cơ thể đều có những vị trí dễ bị chấn thương riêng của nó. * Tóm lại, nguyên nhân gây nên các chấn thương TT tương đối phức tạp. Thông thường đó là kết quả tổng hợp của nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân tiềm ẩn. 2.2. Nguyên tắc đề phòng chấn thƣơng 2.2.1. Tăng cường giáo dục về mục đích của thể dục TT: Những người tham gia tập luyện thể dục TT cần không chỉ nhận thức được mục đích của tập luyện TDTT là tăng cường thể chất, thúc đẩy sự phát triển cơ thể, nâng cao trình độ kỹ thuật TT, mà còn nhận thức được rằng chỉ có bảo đảm được sức khoẻ mới có thể tránh được những chấn thương trong tập luyện TDTT. Hiểu những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương. Tăng cường giáo dục tính tổ chức kỷ luật. 2.2.2. Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu. Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối với những nội dung khó nắm vững, những khâu mà người tập dễ mắc sai lầm hoặc những động tác có nhiều nguy cơ xảy ra chấn thương thì phải có sự chuẩn bị, dự phòng tốt để đảm bảo an toàn cho tập luyện. 2.2.3. Phải khởi động tốt. Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ thống các trung khu thần kinh, tăng cường chức năng của các hệ thống cơ quan, khắc phục tính ỳ sinh lý của các chức năng, chuẩn bị tốt khả năng cơ thể cho phần tập luyện chính. 2.2.4. Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm. Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn thương khi tiến hành những động tác trên không và những động tác có độ khó lớn. Trong lúc tập luyện chỉ cần hơi lơi lỏng hoặc bảo hiểm không thoả đáng là đã có thể xảy ra chấn thương nhất là trong thể dục dụng cụ. 47
  20. Người tham gia tập luyện thể dục TT cần phải học được phương pháp tự bảo hiểm, khi rơi từ độ cao xuống mặt đất cần phải co gối, hai chân khép song song, khi trọng tâm không vững có nguy cơ bị ngã thì phải lập tức cúi đầu, gập khuỷu tay cuộn tròn thân người lại, dùng vai và lưng tiếp đồng thời theo đà lộn vòng. 2.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra y học và chú ý vệ sinh sân bãi dụng cụ. Đối với những người thường xuyên tham gia tập luyện thể dục TT cần phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ... trọng tâm kiểm tra là đo chức năng tim phổi và xét nghiệm máu, nước tiểu để quan sát và tìm hiểu sự biến đổi chức năng cơ thể trong tập luyện và sau thi đấu. Đối với những người mắc một số bệnh mãn tính càng cần phải tăng cường quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra sức khoẻ định kỳ cũng như kiểm tra bổ sung, ngăn cấm người có bệnh hoặc người chưa được tập luyện đầy đủ tham gia hoặc thi đấu căng thẳng. 3. Một số trạng thái sinh lý và phản ứng xấu của cơ thể trong tập luyện TDTT 3.1. Các dấu hiệu của tập luyện quá sức Sau một thời gian tập luyện hay thi đấu, người tập thấy những cảm giác xấu trong thời gian dài như oải, mệt mỏi, khó ngủ, bực bội cùng với sự sút kém của tình trạng sức khỏe (sụt cân, sức mạnh và sức bền giảm) thành tích vận động giảm sút, ăn không ngon, tim đập mạnh kèm theo cảm giác nôn nao choáng váng nhức đầu có khi muốn ngất thì cần phải đặc biệt lưu ý đó có thể là dấu hiệu của tình trạng mệt mỏi quá sức, nó chứng tỏ thần kinh và cơ thể bị suy nhược. Ta phải lập tức giảm khối lượng tập hoặc nghỉ hẳn, kiểm tra theo dõi toàn bộ cơ thể, tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý. 3.2. Các trạng thái sinh lý và phản ứng của cơ thể trong tập luyện TDTT Trong tập luyện TDTT còn có thể xuất hiện một số trạng thái bệnh lý như choáng, ngất, giảm đường huyết, căng thẳng, quá mức, viêm cơ cấp tính, say nắng, vv… Nguyên nhân các bệnh lý này là do vi phạm các nguyên tắc tập luyện và vệ sinh cơ bản. Sinh viên tham gia tập luyện TDTT cần nắm vững các đặc điểm chủ yếu của những trạng thái này để biết cách đề phòng và xử lý chúng một cách có hiệu quả. 3.2.1. Hiện tượng cực điểm và phương pháp khắc phục. 3.2.1.1. Khái niệm. Cực điểm là hiện tượng xuất hiện trong quá trình hoạt động thể lực căng thẳng kéo dài, sau khi hoạt động vài phút trong cơ thể xuất hiện một trạng thái sinh lý tạm thời. 3.2.1.2. Những biểu hiện của trạng thái cực điểm. - Khó thở, đau bụng, chóng mặt, buồn nôn, VĐV muốn bỏ cuộc. - VĐV thở nhanh, mặt và người nóng ran, mạch tăng nhanh, hàm lượng CO2 trong máu tăng, độ pH giảm, mồ hôi ra nhiều, chân không muốn bước. 3.2.1.3. Nguyên nhân. Do sự rối loạn điều hòa chức năng tạm thời, do nhu cầu của các cơ rất cao mà khả năng vận chuyển O2 chưa kịp đáp ứng. 3.2.1.4. Biện pháp khắc phục. 48


Page 2

YOMEDIA

Bài giảng Lý thuyết giáo dục thể chất: Phần 2 trình bày các nguyên tắc về giáo dục thể chất, giáo dục các tố chất thể lực, chấn thương trong thể thao và vệ sinh tập luyện thể thao, kế hoạch tập luyện thể dục thể thao.

22-05-2014 984 110

Download

Các nguyên tắc về phương pháp giáo dục thể chất

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.