Các dạng hoa văn trên trống đồng việt nam pdf

“Có thể suy diễn như sau: một nhóm tộc Việt của Bách Việt đến định cư và sinh sống ở bộ lạc Gia Ninh; nhóm Việt tộc lần lần trở nên hùng mạnh và lấn quyền cai trị tất cả người dân trong bộ lạc Gia Ninh và do một người đứng đầu của nhóm Việt tộc nắm giữ (ĐVSL gọi là "người lạ") rồi từ Gia Ninh dùng mưu chiếm cứ bộ lạc Giao Chỉ, bộ lạc Văn Lang và các bộ lạc khác. Sau khi gồm thâu tất cả các bộ lạc, người lạ tự xưng là Hùng vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Văn Lang (Vùng Lâm Thao, Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay).

“Lặp lại những truyện tích thần thoại hoang đường trong dân giang, sử cũ viết rằng: "vua Rồng của người Lạc tức Lạc Long Quân lấy nàng Âu" (Âu cơ; cơ: cô nàng, cô nàng của bộ tộc Âu) có lẽ là vì sử cũ muốn phản ảnh sự tiếp xúc và mối liên hệ gắn bó từ lâu đời giữa bộ tộc Lạc Việt và bộ tộc Âu Việt và cho thấy sự có mặt của tộc giống Lạc Việt xuất hiện cùng một thời đại hoặc lâu hơn với tộc giống Âu Việt.

“Câu hỏi đặt ra là: tại sao có giống tộc Lạc và tại sao giống tộc nầy lại tập trung nhiều ở vùng Giao Chỉ? Lãnh thổ Giao Chỉ ở đâu?

“Câu hỏi trên được đặt ra ngầm ý rằng lãnh thổ Giao Chỉ đã có từ lâu, trước khi có sự hiện diện của tộc giống Lạc Việt trên phần đất nầy, hay nói một cách khác, người Giao Chỉ nguyên thủy không phải là người Lạc Việt.

“Đại Việt Sử Lược (ĐVSL) viết: "Xưa, vào lúc vua Huỳnh Đế tạo dựng đế quốc Trung Hoa, thấy rằng Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được cho nên mới coi ranh giới tiếp giáp với 15 bộ lạc ở phía Tây Nam, (trong đó có bộ lạc Giao Chỉ) như là giới hạn của đế quốc Trung Hoa.". Như vậy, vào thời đại của Huỳnh Đế (vào khoảng 2697-2597 TCN), Giao Chỉ không bị rơi vào vòng kiềm toả của tổ tiên nước Trung Hoa.

“Sách Kinh thư của Trung Hoa, thiên "Nghiêu điển" chép: vua Nghiêu (2357-2258 TCN) sai Hi Thúc giữ việc suy trắc khí hậu ở Nam Giao (Nam Giao: đất Giao ở phương Nam). Sách Sử Ký của Trung Hoa chép: Năm Tân Mão thứ 6 (1110 TCN) đời Thành vương nhà Chu, phía nam bộ lạc Giao Chỉ có Việt thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng.

“Theo những sự ghi chép đó thì lãnh thổ Giao Chỉ đã có trước đời nhà Đường, tồn tại mãi tới đời nhà Chu (1122-256 TCN) và nằm kề cận với lãnh thổ của bộ lạc Việt Thường.

“Vậy, giống tộc nguyên thủy ở Giao Chỉ là giống tộc nào? Phải chăng giống tộc nầy là giống tộc chính gốc của người Việt Nam hiện nay?

“Các công trình khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ đã tìm thấy những dấu vết về giai đoạn của nhóm người nguyên thủy trên đất nước Việt Nam cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm. Ở núi Đọ (Thanh Hóa) có rất nhiều công cụ đồ đá cũ, răng người vượn ở Bình Gia (Lạng Sơn): người vượn khai thác đá ở sườn núi, mài đẽo đơn sơ để tạo thành những công cụ chặt đẽo, rìu tay, bàn nạo. . để chặt cây, vót nhọn tre, lao, gỗ . . .; hình dạng các công cụ rất thô sơ phản ảnh thời đại non trẻ của lịch sử đang hình thành.

“Dấu vết con người cùng với những động vật cổ đã hóa thạch phát hiện được trong các hang Hùm (Yên Bái), hang Thung Lang (Ninh Bình) cho thấy con người đã đi vào chế độ bộ tộc sơ khai cách nay vào khoảng ba bốn vạn năm: như vậy tức là đã có những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động ở các miền rừng núi đá vôi. Khoảng 50-60 năm gần đây, người ta đã khai quật được rất nhiều công cụ đồ đá ghè đẽo thô sơ ở vùng đồi Vĩnh Phú, huyện Lâm Thao, xã Sơn Vi; đó là di tích của nền văn hóa Sơn Vi: con người hang động từ các vùng Yên Bái, Ninh Bình đã tiến ra sinh sống ở miền đồi núi trung du vốn trước đây là vùng rừng rậm trên thềm đất phù sa rất cổ của sông Hồng.

“Những di chỉ về nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn cách nay khoảng 10,000 năm cho thấy sự tiến triển kỹ thuật công cụ đồ đá đã đạt đến mức tinh xảo (lưỡi rìu mài tứ giác Bắc Sơn); những đồ gốm đầu tiên nhồi nặn bằng tay và những vật dụng bằng tre, nứa (lao, cung tên, thừng bện, gậy, cán) cũng được tìm thấy: như vậy, tre, nứa là một trong những tài nguyên thiên nhiên trọng yếu rất cần cho việc sinh tồn của nhóm người nguyên thủy cũng như những thời đại tiếp nối về sau .

“Di chỉ khai quật ở xã Quỳnh Văn thuộc huyện Huỳnh Lưu (Nghệ An), là nơi đầu tiên tìm thấy những cồn vỏ sò điệp do con người vứt bỏ sau khi ăn; những mộ huyệt tròn khai quật từ giữa những cồn vỏ sò, điệp đã tìm thấy một vài loại công cụ bằng đá và đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ chôn theo người chết; di chỉ Quỳnh Văn cho thấy rằng: cùng thời với những giống tộc và bộ lạc ở miền núi, còn có những nhóm người nguyên thủy khác sống ở miền ven biển Đông.

“Ở miền Bắc Việt Nam đã liên tiếp phát hiện được những di chỉ của thời đại đồ đồng thau, ở miền trung du, ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ qua các giai đoạn Phùng Nguyên/ tỉnh Vĩnh Phú (khởi đầu thời đại đồng thau), Đồng Đậu/ tỉnh Vĩnh Phú (khoảng giữa thời đại đồng thau), Gò Mun/ tỉnh Vĩnh Phú (thời kỳ phát triển), Đông Sơn/ tỉnh Thanh Hóa (cuối thời đại đồng thau, đầu thời đại đồ sắt). Các di chỉ đó có có số tuổi cách ngày nay từ khoảng 2,400 đến 3,400 năm tức là trước thời đại của Huỳnh Đế dựng nước Trung Hoa. Trong giai đoạn Phùng Nguyên, các đồ đá tìm thấy đã đạt tới tới mức hoàn hảo: những lưỡi rìu, đục được mài, giũa, khoan, cắt khá tinh vi và có phẩm chất cao; các đồ trang sức như vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi bằng đá được trau chuốt, tiện mài rất đẹp; các loại đồ gốm có những hình dạng độc đáo, trang trí với những nét hoa văn sắc xảo và bền chắc: chén, nồi, hủ, ly tách. . . có thể đã được nhào nặn bằng kỹ thuật bàn xoay tròn mà hiện nay nhiều nơi trên thế giới vẫn còn dùng trong lãnh vực chế tạo đồ gốm.

“Trong những giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, bên cạnh đồ đá hoàn thiện cũng đồng thời tìm thấy công cụ, vũ khí bằng đồng thau như: lưỡi câu, liềm, rìu, đục, mũi giáo, tên và trong những di chỉ khảo cổ thời đại đồng thau cũng đã tìm thấy nhiều xương động vật như xương heo, chó, trâu, bò, vỏ trấu, hạt gạo, hạt đậu, hạt trám. vân. vân . . .

“Như vậy, rõ ràng là có dấu tích của con người nguyên thủy trên đất nước Việt Nam thời cổ. Nước Việt Nam thời cổ có phải là lãnh thổ Giao Chỉ hay không? Và nhóm người nguyên thủy trên lãnh thổ Giao Chỉ nầy có phải là người Lạc Việt ngày xưa hay không?

“Từ thời Huỳnh Đế, qua thời nhà Đường thì Nam Giao hay Giao Chỉ đã hiện hữu và sau đó trở thành một bộ trong 15 bộ tộc của triều đại Hùng Vương. Theo Nguyễn Thiên Túng chú thích Dư Địa Chí của Nguyễn Trải thì Giao Chỉ thời Hùng vương là vùng Sơn Nam (Sơn Nam gồm vùng đất các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và tỉnh Hà Đông/nay thuộc tỉnh Hà Tây). Theo A. Schreiner trong Abrégé de l' Histoire d' Annam thì Giao Chỉ nay là Hà Nội, Nam Định và Hưng An hay Hưng Yên.

“Đa số thuyết cũ đều cho rằng người Lạc Việt từ ở nơi khác đến lập nghiệp ở vùng Bắc Việt Nam (tức Giao Chỉ) chưa lâu lắm nhưng không xác định rõ hay khẳng định dứt khoát họ cũng là một trong nhóm tộc Việt giống như Đông Việt, Mân Việt, Âu Việt, U Việt, Vu Việt, Nam Việt . . .Sách sử cũ của Trung Hoa không thấy nói tới Lạc Việt và Âu Lạc mà chỉ thấy nói tới đất Nam Giao, Giao Chỉ hoặc đất An Nam.

Sách Đại Việt Sử Lược của Việt Nam cũng viết rằng: " Xưa, Huỳnh Đế lập quốc...thấy Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc tây nam gồm có 15 bộ lạc là: 1/ Giao Chỉ, 2/ Việt Thường, 3/ Vũ Ninh, 4/ Quân Ninh, 5/ Gia Ninh, 6/ Ninh Hải, 7/ Lục Hải, 8/ Thang Tuyền, 9/ Tân Xương, 10/ Bình Văn, 11/ Văn Lang, 12/ Cửu Chân, 13/ Nhật Nam, 14/ Hoài Nam, 15/ Cửu Đức ". Như vậy, người Giao Chỉ không phải là một trong những tộc giống Bách Việt giống như người của Văn Lang, và những bộ tộc khác cùng thời với bộ tộc Giao Chỉ cũng không thuộc nhóm Bách Việt.)

Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) cũng chép là 15 bộ nhưng có 5 bộ khác với ĐVSL là: Chu Diên, Phúc Lộc, Dương Tuyền, Vũ Định và Tân Hưng. Đại Việt Sử Ký Tiền Biên thời Nguyễn Tây Sơn (ĐVSKTB), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thời Nguyễn Gia Long (KĐVSTGCM).

Việt Sử Cương Mục Toát Yếu của Đặng Xuân Bảng (VSCMTY) tất cả đều ghi 15 bộ theo ĐVSKTT.

Theo Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi thì 15 bộ nầy là: 1. Giao Chỉ: là vùng Sơn Nam, nay là Hà Nội, Nam Định và Hưng Yên. 2. Chu Diên: gồm phần đất tỉnh Sơn Tây cũ (nay thuộc Hà Tây), phần lớn đất Vĩnh Yên và Phúc Yên cũ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) và một phần đất tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc tỉnh Hà Tây). 3. Phúc Lộc: Sơn Tâỵ 4. Vũ Ninh: Kinh Bắc, nay là Bắc Ninh... Có thời huyện Gia Lâm của Hà Nội cũng thuộc xứ Kinh Bắc. 5. Việt Thường: Thuận Hóa tức là Quảng Trị, Thừa Thiên. 6. Ninh Hải: An Bang hay Yên Bang, nay là Quảng Yên. Tỉnh Quảng Yên cũ bao gồm cả đất huyện Thủy Nguyên của Hải Phòng ngày naỵ Yên Bang bao gồm phần lớn đất của tỉnh Quảng Ninh và một phần đất Hải Phòng ngày naỵ 7. Dương Tuyền: Hải Dương. 8. Lục Hải: Lạng Sơn. 9. Vũ Định: Thái Nguyên, Cao Bằng. 10. Hoài Hoan: nay là Hà Tĩnh. 11. Cửu Chân: Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình. 12. Tân Hưng: Hưng Hoá, Tuyên Quang 13. Cửu Đức: Hà Tỉnh, Quảng Bình. 14. Bình Văn: chưa rõ là ở đâu. 15. Văn Lang: vùng Lâm Thao, Bạch Hạc của tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Vùng nầy sử sách cũ còn gọi là Phong Châụ Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: "Phong Châu sử cũ chua là Bạch Hạc. Đường thư /Địa lý chí chép: Phong Châu thống lĩnh năm huyện. Sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử triều nhà Tống (bên Tàu) chép: Quận Thừa Hóa Phong Châu xưa là nước Văn Lang. Như thế thì Phong Châu tức là địa hạt phủ Vĩnh Tường (nay thuộc Vĩnh Phúc) và phủ Lâm Thao thuộc tỉnh Sơn Tây bây giờ ".

“Khởi đầu thời đại Tây Lịch, người ta vẫn còn thấy chế độ Lạc tướng tồn tại. Vào thời đại nầy các "bộ lạc" chuyển thành huyện và lôi kéo theo sự thay đổi danh hiệu Lạc tướng thành huyện lệnh hay huyện trưởng. Sử sách cũ ghi người phụ tá vua Hùng là "bộ chúa" hay "phụ đạo" tương tự như các chức pơ tao, mơ tao, bơ tao, tạo, đạo . . . của các thủ lĩnh dân tộc miền núi trong nước Việt Nam trước đây không lâu lắm và đó là các chức vụ kế truyền theo huyết tộc. Sử cũ cũng chép rằng, dưới thời Hùng Vương, những người giúp việc gọi là "bồ chính". Trước năm 1945, nhiều vùng ở Bắc bộ còn gọi chánh tổng là bồ đình. Bộ tộc Gia-rai ở Tây nguyên, người có trách nhiệm cai quản một số buôn, plây gọi là pô-ta-rinh.

“Cũng theo sử cũ của ta thì con trai của Hùng vương gọi là ‘quan Lang’, con gái vua gọi là ‘mị nương’. Trước năm 1945 ở vùng đồng bào Mường vẫn còn tồn tại chế độ Lang đạo: con cả của chi ngành trưởng cai trị một mường và gọi là Lang cun, và con cả của ngành thứ cai quản những xóm nhỏ gọi là lang đạo. Con trai của Lang cun hay Lang đạo cũng gọi là lang; con gái của các lang gọi là nàng (cô nàng, mệ nàng). Như thế, xã hội Lạc Việt đời Hùng vương có thể có những nét tương đồng với chế độ Lang đạo của người Mường trước năm 1945.

“Cho đến thế kỷ thứ 8, ờ miền Ba Vì tỉnh Hà Tây vẫn còn chế độ quan Lang. Cũng theo sách cũ, tổ tiên của Phùng Hưng "Bố Cái đại vương" đời đời làm tù trưởng châu Đường Lâm (nay là Cam Lâm, Ba Vì) gọi là quan lang. (theo Giao Châu ký của Triệu Công/ dẫn trong Việt điện u linh/ Lý Tế Xuyên).

“Sách Abrégé de L'histoire d'Annam (Tiết yếu lịch sử của người An nam), Alfred Schreiner viết: ‘Les fils des rois de la dynastie des Hồng Bàng prenaient le titre de quang lang et les filles celui de mĩ nàng; c'est le titre que portent encore actuellement les chefs et leurs femmes chez les tribus Mường du Tonkin’ (dịch: những người con trai của các vua triều đại Hồng Bàng [tức là các vua Hùng] mang danh hiệu là quang lang và những người con gái là mĩ nương; đó là danh hiệu mà hiện nay vẫn được dùng để gọi các tù trưởng bộ tộc người Mường và những người vợ của họ ở Bắc kỳ).(Alfred Schreiner/Abrégé de l'Histoire d'Annam/ 2è.Édit./ 1906/ trang 11). Có 2 điểm chú ý ở đây:

1/ Tác giả dùng chữ quang không phải là quan và ghi chú quang: briller, nghĩa là chiếu sáng, sáng lạng. 2/ Dùng chữ Mĩ không phải là Mị và ghi chú Mĩ: grâce, nghĩa là dịu dàng, dễ thương. Tư liệu được tái bản vào năm 1906, như vậy cũng có thể rút ra được một thực tế: trước năm 1906, dân tộc Mường ở Bắc phần vẫn còn tồn tại những danh hiệu quan Lang và Mị nương.

“Tóm lại, có thể nói rằng người Lạc không phải là người Việt Nam nguyên thủy thuần giống. Người Lạc nguyên thủy đã pha trộn, phối chủng với nhiều giống tộc Việt khác nhau từ nhóm Bách Việt tách ra, phiêu lưu, luân lạc rồi đến định cư và sinh sống ở Giao Chỉ, từ thời Huỳnh Đế lập quốc ở Trung Hoa và đã tạo sinh ra một giống tộc mới: giống tộc Lạc Việt.

Lãnh thổ Giao Chỉ, cũng như lãnh thổ Văn Lang trở thành 2 bộ lạc hợp chủng riêng rẽ với một giống tộc mới đến mà sử sách cũ của Trung Hoa gọi là dân Lạc ở Giao Chỉ. Dân Lạc ở đây rất có thể người Trung Hoa muốn ám chỉ nhóm người Việt bị ruồng bỏ, nhóm người Việt chạy loạn xuống phía Tây Nam sinh sống chung đụng một cách an bình với người Giao Chỉ nguyên thủy- họ trở thành thổ dân Lạc ở Giao Chỉ. Dân Lạc tập trung đông đảo nhất ở bộ lạc Giao Chỉ, lần lần đồng hóa và phối chủng với người dân bản địa Giao Chỉ để nẩy sinh ra một giống tộc mới tạm gọi là dân Lạc-Giao

“Giống tộc người Lạc-Giao đối với người Hoa là người tạp chủng ở Giao Chỉ cho nên trong sách sử cũ của họ vẫn tiếp tục gọi chung là dân Giao Chỉ và về sau thì gọi là An Nam quốc. Khi người Việt Nam bắt đầu chép sử, thì chữ Lạc được ghép thêm chữ Việt dùng để chỉ hợp chủng người Việt Nam kể từ thời các vua Hùng, tức là dân Lạc Việt.”

“Có thể nói rằng phần trình bày trên đây đã dựa vào tiền sử học để truy cứu và suy định một cách sơ lược về thành phần nhân chủng và tình hình các dụng cụ sản xuất của những chủng tộc đã từng sinh sống trên đất nước ta ở Bắc Việt và Bắc Trung Việt vào thời xa xưa chưa có sử sách. Tuy nhiên nếu so sánh những chủng tộc ấy với người Việt Nam hiện nay thì chúng ta thấy rằng nhóm tập chủng nầy không phải là tổ tiên trực tiếp của chúng ta mặc dù yếu tố nhân chủng của họ có dự phần vào tiến trình cấu thành nhân chủng của dân tộc Việt Nam. Vì thế, tiền sử học chưa thể giải quyết được một cách thuyết phục vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

“Dựa trên truyền thuyết và sử cũ của ta thì lại đi đến một kết luận bất nhất: một mặt thì cho rằng tổ tiên của chúng ta là người Giao Chỉ không dính líu gì đến huyết tộc người Hoa (Hoa Hạ/Pawa); một mặt khác lại xem Kinh Dương Vương là thủy tổ của chúng ta tức là xem người Việt Nam chúng ta như là con cháu của người Hoa bởi vì Kinh Dương Vương là con trai của đế Minh [Đế Minh là cháu đời thứ 3 của Viêm Đế họ Thần Nông thuộc chủng tộc Hoa và Thần Nông theo truyện thần thoại Trung Hoa là một trong 5 ông Đế (ngũ Đế) ở thời thượng cổ, người đầu tiên đã dạy người Hoa cày bừa làm nghề nông, được họ tôn sùng như thần linh và gọi là Thần Nông, cũng được gọi là Viêm Đế: "Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh (c) lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua (tức Kinh Dương Vương) là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi cai quản phương Bắc (Trung Hoa), phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình quân tên là Thần Long (d) sinh ra Lạc Long Quân.’ Lạc Long Quân Tên húy là Sùng Lảm, con của Kinh Dương Vương.Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt. (VSTK, s.đ.d. tr.tr. 37, 38.)

“Sử cũ nước ta đều viết rằng Kinh Dương Vương là người Hoa".

“Bản gốc Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) chữ nho (chữ Hán) viết: "Thú Động Đình Quân nữ viết Thần Long" có nghĩa: Thần Long là con gái của Động Đình Quân. Nhưng ở đoạn Sử thần Ngô Sĩ Liên nói thì lại viết: "Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh ra Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt... "Vương (Kinh Dương Vương) lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân” nghĩa là Động Đình Quân có tên là Thần Long.

“Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (LTHCLC/Nhân Vật Chí viết: "Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân đẻ ra Lạc Long Quân" không đề cập đến tên của người con gái.

“Việt Sử Tiêu Án (VSTA), Ngô Thì Sĩ viết: ‘Đến như việc Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình.’ không đề cập gì đến tên của người con gái.

“KĐVSTGCM (1884) cũng không có tên của người đàn bà nầy: ‘Kinh Dương Vương sinh ra Sùng Lảm lên nối ngôi xưng là Lạc Long Quân. (Nguyễn Công Tánh, Việt Sử Tân Khảo, s.đ.d., Q.I., tr.tr.3-7).