Cá hố chiên bao nhiêu calo

Ở Việt Nam nước ta, người dân đánh bắt cá sẽ không xa lạ đối với cá hố. Món cá hố cũng là một trong những đặc sản của vùng biển miền Trung. Khô cá hố sẽ là món ăn đem đến hương vị vô cùng đặc biệt cho bạn. Bài viết hôm nay sẽ trả lời cho câu hỏi “Khô cá hố làm món gì ngon?”

Cá hố là cá gì?

Cá hố còn được gọi là cá đao hay cá hố đầu rộng. Tên khoa học của cá hố là là Trichiurus muticus được phát hiện vào năm 1758.

Cá hố chiên bao nhiêu calo
Cá hố còn gọi là cá đao

Cá hố là loài cá có xương sống, thân của chúng rất dẹt, rất dài. Không có vảy giống chiếc lưng quần. Cá hố khi trưởng thành thường dài từ 60 – 90cm. Có phần đầu hơi nhỏ, miệng hơi rộng, nhọn và hơi hướng về trước. Phần miệng rất rộng và nhiều răng nhỏ và lớn. Vây đuôi khá mỏng, ngắn và nhỏ. Thân cá có màu ánh bạc hơi sáng.

Giá trị dinh dưỡng của cá hố

Giá của cá hố tuy tương đối thấp, nhưng lại mang nhiều giá trị dinh dưỡng cho con người. Trong cá hố có nhiều protein, vitamin A,D, E,.. Bên cạnh đó còn có nhiều axit béo không no omega 3, chất đạm và DHA.

Cá hố chiên bao nhiêu calo
Cá hố khô chứa nhiều chất axit béo không no

Các vitamin trong cá còn giúp giữ dáng đẹp da, khoáng chất trong cá cũng góp phần không kém. Không những đẹp da mà còn giúp da trở nên khỏe khoắn hơn. Và còn làm chậm quá trình lão hóa cho làn da của chị em phụ nữ. Chắc hẳn khi các chị em phụ nữ đọc đến đây, sẽ thấy thích loài cá này.

Cá hố còn hỗ trợ sáng mắt, kích thích dây thần kinh não bộ, tăng cường phát triển trí não. Bên cạnh đó, còn có công dụng tốt cho dạ dày và điều trị bệnh gan.

Khô cá hố là gì ?

Khô cá hố cũng được chế biến giống với các loại khô cá biển khác. Chúng được lựa chọn từ cá hố tươi sau khi đánh bắt từ biển về, rửa sạch với nước. Sau đó, ướp cá với muối đem đi phơi khô dưới trời nắng. Sau khi cá hố khô bạn cũng có thể đem tặng cho người thân hay bạn bè. Khô cá hố cũng là một sản phẩm có thể bảo quản lâu dài mà không bị hư.

Khô cá hố làm món gì ngon?

Khô cá hố chiên 

Cá hố chiên bao nhiêu calo
Khô cá hố chiên 

Nguyên liệu:

  • Khô cá hố: 500g
  • Dầu ăn
  • Nước mắm chua ngọt.

Cách làm :

  • Khô cá hố cắt từng miếng vừa ăn, rửa sạch với nước, để ráo nước.
  • Bắc chảo lên bếp, cho thêm dầu ăn vào chảo, chờ khi chảo nóng.
  • Tiếp đên, thả từng miếng cá vào chiên đến khi vàng ruộm.
  • Vậy là đã hoàn thành xong món khô cá hố chiên vô cùng đơn giản. Bày cá ra đĩa và thưởng thức cùng với cơm trắng, chấm thêm một chút mắm chua ngọt. Đảm bảo sẽ cực kì ngon và không làm bạn thất vọng.

Khô cá hố nấu canh chua

Cá hố chiên bao nhiêu calo
Khô cá hố nấu canh chua

Nguyên liệu :

  • Khô cá hố: 500g
  • Me chua hoặc lá giang
  • Hành tím và tỏi
  • Cà chua, rau quế, ớt, thơm (dứa)
  • Gia vị: mắm, đường, bột ngọt, muối.

Cách làm :

  • Khô cá hố rửa sạch và cắt thành từng miếng vừa ăn, ngâm cá trong nước lạnh cho mềm cá.
  • Bắc nồi lên bếp, cho một ít dầu ăn vào nồi, phi thơm hành tím và tỏi đã băm nhuyễn.
  • Tiếp theo, cho cà chua, thơm vào đảo cho nhanh để tạo màu, và có mùi thơm.
  • Tiếp tục, bỏ khô cá hố vào nồi, thêm nước lọc đủ ăn vào nồi, để lửa lớn.
  • Chờ cho nước sôi thêm gia vị đường, muối , lá giang bóp nhẹ, nước me vào nồi.
  • Sau đó, cho sôi thêm ít phút. Nếm lại gia vị cho vừa miệng.
  • Cắt thêm rau quế và ớt vào nồi canh cho nồi canh chua của bạn thơm hơn. Cuối cùng, tắt bếp và múc ra tô để thưởng thức, có thể ăn kèm với một vài món mặn.

Gỏi xoài xanh khô cá hố

Cá hố chiên bao nhiêu calo
Gỏi xoài xanh khô cá hố

Nguyên liệu:

  • Khô cá hố: 300g – 500g
  • Xoài xanh
  • Nước mắm chua ngọt
  • Rau thơm.

Cách làm:

  • Chiên cá hố trong dầu nóng, mở lửa nhỏ, đến khi vàng giòn, vớt cho ráo dầu.
  • Cá hố khô sau khi chiên, xé thành sợi vừa ăn.
  • Tiếp đến, cá hố được xé xong trộn cùng với xoài xanh bào sợi, rau thơm cắt nhỏ.
  • Thêm một ít mắm chua ngọt vào trộn chung, nêm nếm cho vừa miệng.
  • Bày ra đĩa, thưởng thức cùng với bánh tráng nướng sẽ ngon hơn.

Mong rằng bài viết này sẽ mang đến cho bạn những bí quyết tuyệt vời, cho món khô cá hố trở nên ngon miệng hơn.  

Giá trị dinh dưỡng của Cá Hố

Trong văn chương bình dân Việt Nam, cá Hố được dùng làm biểu
tượng cho sự gày ốm, cao nhòng : 'Người gì mà khô như con cá hố', hay cho
sự thiếu chững chạc: 'Nhí nha nhí nhô như con cá hố'
Cá hố là một loại cá biển thường gặp tại vùng ven biển Việt Nam, cá
thuộc loại nhiều xương, ít khi đưọc bày bán tươi tại các chợ thực phẩm nội
địa, vì dễ bị hư hỏng trong khi di chuyển. Đa số cá đánh bắt được phơi khô,
và sau đó đüuợc các bà nội trợ Việt Nam chế biến thành nhiều món ăn khá
hấp dẫn
Tên khoa học và các tên khác :
Trichiurus lepturus thuộc họ cá Trichiuridae
Tên gọi chính thức theo danh mục của FAO : Largehead hairtail
(Anh-Mỹ); Poisson-sabre commun (Pháp); Pez sable (Tây ban Nha)
Theo 'Danh mục cá biển xuất khẩu của Bộ Thủy sản Việt Nam' : Cá
Hố còn có các tên địa phương như Cá Đao, cá Hố đầu rộng.
Tên thường gọi tiếng Anh : Hairtail, Hairfish, Ribbon fish, Hairtail
fish, Beltfish.
Trung Hoa : Bai-dai-yu (Bạch đai ngư); Nhật : Tachinou-o, Tachiuo;
Đức : Haarschwanz
Trên thị trường, cá được gọi dưới nhiều tên chung, không phân biệt rõ
ràng từng loài, có thể gây nhiều nhầm lẫn
Úc : Australian hairtail. Frost fish.
Canada : Scabbard fish, Cutlass fish, Sabre, Pez Chinto.
Mỹ : Cutlass fish, Atlantic cutlass fish, Hairtail, Ribbon fish,
Scabbardfish,,
(Các loài cá trong họ cá biển Trichiuridae được gọi chung là
Cutlassfish. Nhóm cá này gồm trên 40 loài phân bố tại các vùng biển khắp
nơi trên thế giới.Một số loài trong các chi Aphanopus, Assurger,
Lepidopus được gọi là Scabbardfish. Cá trong chi Benthodesmus được gọi
là Frostfish vì chỉ xuất hiện vào cuối mùa Thu, đầu mùa Đông khi giá lạnh


bắt đầu. Cá trong các chi Eupleurogrammus, Lepturacanthus,
Trichiurus như cá Hố được gọi là Hairtail. Riêng Ribbonfish tuy hình dạng
rất giống với cutlassfish lại thuộc một họ cá khác : Trachipteridae).
Đặc điểm sinh học :
Cá hố có thân hình dài (trung bình khi khai thác từ 60-90 cm) rất dẹt
một bên, dài như một cái dải lưng quần, không có vẩy, giống dạng lươn,
mồm nhọn nhô ra phía trước. Mắt to. Miệng rộng có nhiều răng tách biệt
thành răng lớn và răng nhỏ ở cẳ hai hàm. Vây lưng rất dài có 10-11 tia cứng,
tiếp theo là một rãnh; phần thứ nhì của vây lưng có 1 tia cứng và 27-30 tia
mềm. Vây ngực ngắn. Không có vây bụng, vây đuôi rất nhỏ. Toàn thân cá
màu xanh lam như màu thép có ánh bạc. Phần bụng và các vây như vây
ngực, vây bụng, vây đuôi màu xậm hơn. Màu chuyển sang xám bạc khi cá
chết.
Cá hố sinh sống ngoài khơi và ven bờ, ở tầng giữa và tầng trên. Cá tập
trung thành đàn, nổi lên mặt vào mùa sinh sản, kiếm mồi rồi xuống sâu hơn.
Trong mùa sinh sản, mỗi cá mái có thể sinh khoảng 130 ngàn trứng. Trứng
nhỏ, có đường kính 1.6-1.9 mm, trôn nổi và nở thành cá bột sau 3-6 ngày.
Cá bột dài 5.5-6.5 mm. Mùa sinh sản kéo dài trong các tháng từ 6 đến 10,
cao điểm vào tháng 8.
Cá thuộc loại cá dữ, nổi lên tầng trên kiếm ăn vào ban ngày, và trở lại
tầng đáy ban đêm, ăn các động vật như tôm, cá mực nhỏ hơn, khi còn nhỏ
chúng ăn các phiêu, vi sinh vật. Cá trưởng thành sau 2 năm, đạt độ dài 30 cm
và chuyển sang ăn cá nhỏ hơn.
Cá có thể lớn, dài đến trên 2m, nặng 5 kg và sống trên 15 năm.
(Ngày 26 tháng Giêng, 2010, ngư dân tại vùng ven biển Ulgin, tỉnh
Bắc Gyengsang, cách Seoul, Thủ đô Nam Triều Tiên, 330 km về phia Tây
Nam đã băt được một con cá hố thân dài 3.8 m, ngang 25cm, dày 7cm. Theo
Tân Hoa Xã, tháng 11/2007 ngư dân Triết giang, Trung Hoa đã đánh bắt
được một cá hố kỷ lục dài đến 4 m, cân nặng 45 kg).
Vùng phân bố : Cá hố (Trichiurus lepturus) có mặt hầu như tại mọi

vùng biển nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Tại Việt Nam cá tập trung trong
vùng biển miền Trung, từ Quảng Bình xuống Qui nhơn, và được xem là một
'món ngon' tại Quảng Ngãi.
(Ngư dân Bình định có nghề câu Cá hố truyền thống khá đặc biệt.
Tác giả Trần Xuân Liễng trong Điện Báo Bình định, 11 tháng 5,2004
đã ghi lại : "Câu cá hố thuộc loại câu khơi. Vào khoảng tháng 5,6 và 7 âm
lịch, cá hố thường sống ở độ nươc sâu từ 45 đến 60 sải tay. Nghề câu cá hố
rât gọn và nhẹ và chỉ câu tay , tức là cầm trên tay để câu, chứ không bủa cả
vàn dài dưới nước như các loại câu khác "
"Cách thao tác trong nghề câu cá hố của ngư dân ta ngày xưa như
sau : Ngư dân cho ghe chạy bằng buồm ra khơi và xem chừng vùng nào có
cá hố, tùy theo cá ở khơi hay lộng và độ gió mà người lái ghe cho chạy sơm
hoặc sơm hơn trong ngày ' 'Khi ghe đã ăn neo, coi như đã định vị, thì bắt
đầu đôt đèn, phân chia chỗ ngồi và lạng mồi, nơi câu ít nhât mỗi người 2 ống
và có thể 3,4 ống tùy chỗ ngồi và gió thuận. Dây câu hố được cột hòn đản và
nới xuống tận đáy, rồi kéo lên độ vài sải để miếng mồi cách đáy vừa đủ
Ngồi chờ nghe cá cắn câu, giật mạnh cho lưỡi câu bám chắc và kéo lên một
mạch không ngưng để cá không chạy bậy, quấn phải câu khác. Khi cá được
kéo lên đến ghe, người câu phải tóm gọn cổ cá rồi bẻ ngược ra phía lưng,,
giết cá ngay Càng về khuya cá càng ăn mồi "
Thống kê của FAO ghi nhận tổng sản lượng đánh bắt trên thế giới
năm 2007 lên đến gần 1.4 triệu tấn trong đó Trung Hoa chiếm 1.2 triệu, Nam
Hàn khoảng 64 ngàn tấn.
Vài loài cá hố khác :
Trong chi Trichiuris còn có vài loài cá hố khác, có thể gặp trong vùng
biển Việt Nam như: Trichiuris muticus (Eupleurogrammus muticus) hay
Malaysian hairtai l= Small head hairtail (Poisson-sabre asbas) tập trung
trong vùng Vịnh Thái Lan, biển Mã Lai, dài trung bình 70 cm, thân tròn hơn
màu xanh lam-bạc như thiếc .Tên tại Mã lai là tumah-timah. Đây có thể là
loài cá được ngư dân Việt gọi là cá xanh xương (?)

Trichiurus brevis hay Chinese short-tailed hairtail.
Trichiurus coxii = Australian hairtail, gặp nhiều tại các vùng biển
quanh lục địa Úc, nhất là vùng Vịnh Broken, NSW. Cá có thể dài đến 2.2 m,
nặng 3.5 kg. Được xem là một loại cá 'thể thao', câu bắt duới sâu trong các
tháng 3-5.
Tại vùng biển Thái bình dương Hoa Kỳ (Tây Hoa Kỳ) có loài
Trichiurus nitens phân bố từ vùng biển phía Nam San Pedro (California)
xuống đến Peru. Cá dài đến 1.1 m, thân màu nâu bạc có thể sống gần bờ tuy
thường ở độ sâu từ 5 đến 300m.
Thành phần dinh dưỡng :
100 gram phần ăn được chứa :
- Nước 74 g
- Chất đạm 18.1 g
- Chất béo 7.4 g
- Calcium 24 mg
- Sodium 278 mg
- Phosphorus 150 mg
- Sắt 1.1 mg
- Thiamine 0.01 mg
- Riboflavine 0.09 mg
- Nicotinic acid 1.9 mg
Thành phần acid béo (trong 100 gram cá)
- Acid béo no (saturated) 47.0 % (1549 mg)
-Acid béo chưa no loại đơn (mono)=MUFA23.3 % (767 mg)
- Acid béo chưa no loại đa (poly)=PUFA 24.0 %
trong đó n-3 PUFA chiếm 23.6 %.
Tinh theo mg : 100 gram cá có 788.7 mg PUFA
trong đó lượng Acid béo Omega 3 là 775.2 mg
- Cholesterol 65 mg
Về phương diện dinh dưỡng, cá hố có thể được xếp vào loại cá bổ

dưỡng, tương đối ít chất béo, chứa một lượng khá cân bằng về acid béo loại
omega-3.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý về lượng thủy ngân trong cá hố .Cá hố được
Tổ chức Y Tế thế giới WHO xếp vào nhóm cá có thịt chứa thủy ngân tương
đối cao. Lượng methyl mercury trong cá tùy vùng đánh bắt có thể lên đến
0.10 mg/kg (tại vùng biển Taiwan) (Tiêu chuẩn WHO khuyến cáo nên giới
hạn lượng methylmercury đưa vào cơ thể dưới 0.8 mg/kg mỗi tuần) . Tính
theo trọng lượng trung bình của một người 70 kg, lượng cá hố ăn mỗi tuần
được giơi hạn là 3.6 kg (tương ứng với 0.09 ppm thủy ngân có trong cá) Phụ
nữ mang thai hay nuôi con bằng sữa mẹ cần giới hạn ăn cá hố, chỉ nên ăn
mỗi tuần một lần khoảng 100-200 g. (Số liệu của HongKong Medical
Association, công bố ngày 21 tháng 11, 2003)
Cá hố trong Đông, Nam dược :
Theo Dược học cổ truyền Trung Hoa và Việt Nam, cá hố hay Đái ngư
được xem là có vị ngọt, tính ấm; có các tác dụng 'bồi bổ ngũ tạng', 'khu
phong, sát trùng' và 'hòa trung, khai vị'.
Thịt cá được dùng trị các chứng phong, sát trùng độc, giúp khai vị khí
và điều hòa trung nguyên Tuy nhiên, theo kinh nghiệm dân gian, ăn nhiều
có thể gây ghẻ lở ngoài da. Ngoài ra cẩn loại bỏ túi mật, vì mật cá có thể gây
ngộ độc
Các món ăn từ Cá hố :
Cá hố, tuy thân mỏng, it thịt nhưng khi tươi tương đối chắc, trở thành
mềm hơn khi nâu chín, ít dầu, dễ lóc xương, cắt thành từng miếng cỡ 5 cm,
có thể được dùng dưới các dạng ăn tươi, ướp lạnh và phơi khô. Thịt cá hố,
tương đối rẻ, rất được ưa chuộng tại các quốc gia vùng Đông Nam Á, Trung
Hoa, Nhật bản và Triều tiên
Tại Nhật, cá được gọi là tachiuo, ăn dưới dạng nướng hay ăn sống
kiểu sashimi.
Tại Nam Triều Tiên, cá được gọi là Galchi. Năm 2008, để cung cấp
cho nhu cầu tiêu thụ, ngoài lượng đánh bắt Nam Hàn nhập cảng thêm trên

1000 tấn từ Trung Hoa, Pakistan, Việt Nam. Món ăn đặc biệt Galchi Jorim là
món cá hố hấp (Korean steamed hairtail), chưng với Nước tương (soy
sauce), củ cải trắng, Hành lá, vả gia vị
Trung Hoa có món ăn nổi tiếng ' Thượng Hải Bạch đới ngư' hay
Fragrant creamed hairtail, Shanghai style. Cá được ướp rượu, hương liệu và
nấu với nhiều gia vị như tỏi, ớt, tiêu Vài món khác như Cá hố chưng
(Braised Hairtail in Soy sauce), Khô cá hố chiên dòn (Dry fried hairtail)
cũng được xem là các món 'đặc biệt' tại các Nhà Hàng HongKong
Việt Nam có nhiều món ăn thông thường từ cá hố như kho tiêu, kho
với nấm bào ngư, kho bổi hay sốt cà, nấu canh chua. Món ăn dân gian miền
Trung truyền thống là ' Cá hố muối sư'. Dân nhậu rất thich món 'Gỏi khô cá
hố' : Khô cá hố nướng hay chiên xé nhỏ trộn vơi dưa leo, rau sống
Tài liệu sử dụng :
FAO Fisheries & Aquaculture- Species fact sheets : Trichiurus
lepturus.
Seafood of SE Asia (Alan Davidson)
Pacific Coast Fishes (Peterson Field Guides)
Tiến sĩ Trần Việt Hưng