Bệnh nhân thủng ruột cấp cứu là màu gì

Trước đó, bệnh nhân Mai Xuân B 66 tuổi ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ đi xe máy tự ngã, được gia đình đưa xuống Bệnh viện đa khoa huyện Đức Thọ cấp cứu. Qua thăm khám ban đầu bệnh nhân bị xây xát, rách da, chảy máu nhiều ở chân phải; vùng hố chậu trái có vết xây xát da nông đường kính khoảng 4 cm; khám bụng thấy co cứng toàn ổ bụng, cảm ứng phúc mạc dương tính. Bệnh nhân được chỉ định siêu âm và chụp X quang ổ bụng không chuẩn bị có hình ảnh liềm hơi dưới cơ hoành 2 bên. Các bác sĩ mời khoa Gây mê hồi sức hội chẩn thống nhất chẩn đoán Viêm phúc mạc toàn thể/TD thủng tạng rỗng và tiến hành phẩu thuật cấp cứu.

Bệnh nhân thủng ruột cấp cứu là màu gì
Các lỗ thủng lớn tại ruột non của bệnh nhân B

Quá trình phẫu thuật phát hiện bệnh nhân bị thủng ruột non 04 lỗ cách góc strèss khoảng 1m, đụng dập rách thanh mạc 5 điểm, ổ bụng có nhiều dịch đục và bã thức ăn. Bệnh nhân được tiến hành cắt bỏ đoạn ruột và khâu nối bằng phương pháp tận tận tại 2 vị trí có lỗ thủng lớn gần nhau, 02 lỗ ở xa được khâu phục hồi; tiến hành rửa sạch ổ bụng, đặt dẫn lưu, hồi sức tích cực, giảm đau bằng Fentanyl bằng bơm tiêm điện duy trì 48 giờ.

Bệnh nhân thủng ruột cấp cứu là màu gì

Hiện tại bệnh nhân tỉnh, toàn trạng ổn định, đã ăn được cháo loãng đang tiếp tục được điều trị chăm sóc tại khoa Ngoại, dự kiến sẽ được xuất viện trong vài ngày tới.

Ông T.V.Q (nam, 45 tuổi) ở Bắc Ninh nhập viện trong tình trạng đau bụng, được phẫu thuật cấp cứu và các bác sỹ phát hiện nguyên nhân gây thủng ruột là que tăm.

Bệnh nhân thủng ruột cấp cứu là màu gì
Bệnh nhân Q được chăm sóc sau phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức.

Ngày 3/4, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết vừa tiếp nhận ông T.V.Q (nam, 45 tuổi) ở Bắc Ninh nhập viện trong tình trạng đau bụng.

Sau khi chụp chiếu và làm các xét nghiệm cần thiết, các bác sỹ chẩn đoán ông Q. bị viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng, quyết định phẫu thuật cấp cứu.

Trong lúc tiến hành phẫu thuật gỡ dính, các bác sỹ phát hiện nguyên nhân gây thủng ruột là que tăm. Bệnh nhân đã được lau rửa ổ bụng, đưa 2 đầu hồi tràng vị trí thủng ra làm hậu môn nhân tạo.

Tiến sỹ, bác sỹ Dương Trọng Hiền khuyến cáo khi hóc dị vật đường tiêu hóa, người dân nên tới thăm khám tại các cơ sở y tế, theo dõi sát các biểu hiện nhằm tránh và hạn chế các biến chứng đáng tiếc có thể xảy ra./.

Ổ bụng có thể bị tổn thương trong nhiều loại chấn thương khác nhau; tổn thương có thể khu trú ở bụng hoặc đi kèm với chấn thương nặng, đa chấn thương khác. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của chấn thương bụng rất khác nhau tùy thuộc vào cơ chế và lực tác động đi kèm, do đó tỉ lệ tử vong và chỉ định phẫu thuật nhìn chung có xu hướng phản ánh không chính xác.

Chấn thương thường được phân loại dựa vào loại cấu trúc cơ quan bị tổn thương:

  • Thành bụng
  • Tạng đặc (gan, lách, tụy, thận)
  • Tạng rỗng (dạ dày, ruột non, ruột già, tử cung, bàng quang)
  • Hệ mạch

Một số tổn thương đặc hiệu gây ra bởi chấn thương bụng kín được thảo luận ở mục khác, bao gồm các chấn thương gan Tổn thương gan Tổn thương gan có thể là kết quả của chấn thương đụng dập hoặc xuyên thủng. Các bệnh nhân có đau bụng, đôi khi lan lên vai, và cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm... đọc thêm , lách Chấn thương lách (Splenic Injury) Chấn thương lách thường do đụng dập vào ổ bụng. Bệnh nhân thường bị đau bụng, đôi khi lan lên vai, và có cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm. Điều trị bằng theo dõi... đọc thêm , và đường niệu dục Chấn thương bàng quang Chấn thương và vết thương vào vùng bụng dưới, khung chậu hoặc tầng sinh môn là những nguyên nhân gây ra tổn thương bàng quang. Trong đó, chấn thương là cơ chế thường gặp hơn, thường do sự giảm... đọc thêm .

Chấn thương bụng cũng thường được phân loại theo cơ chế chấn thương:

  • Đụng dập
  • Xuyên thấu

Chấn thương đụng dập có thể gây ra bởi một cú đánh trực tiếp (ví dụ: đá), va chạm với một vật thể (ví dụ: ngã đập bụng vào tay lái xe đạp) hoặc giảm tốc đột ngột (ví dụ: ngã cao, va chạm xe) Lách là tạng tổn thương thường gặp nhất, theo sau đó là gan và các tạng rỗng (điển hình là ruột non).

Vết thương xuyên thấu có thể có hoặc không rách phúc mạc và thậm chí nếu có, cũng có thể không gây tổn thương các tạng. Vết thương do dao đâm (bạch khí) ít gây tổn thương các tổ chức trong ổ bụng hơn vết thương do đạn bắn; trong cả hai trường hợp, bất kỳ tổ chức nào cũng có thể bị tổn thương. Chấn thương xuyên thấu ngực dưới khoang liên sườn thứ tư (hoặc đường núm vú) cũng nên được đánh giá là vết thương có khả năng là ổ bụng vì vị trí của các cơ quan ổ bụng trong lồng ngực trong chu kỳ hô hấp.

Các phân độ tổn thương được đưa ra nhằm phân loại mức độ nặng của tổn thương từ độ 1 (tối thiểu) đến mức 5 hoặc 6 (nặng); tỉ lệ tử vong và yêu cầu phẫu thuật tăng lên theo mức độ tổn thương. Vảy tồn tại cho gan (xem bảng ), lách ) và thận (xem ).

Các thương tổn đụng dập hoặc xuyên thấu có thể gây giằng xé hoặc gây vỡ các cấu trúc trong ổ bụng. Chấn thương đụng dập có thể chỉ gây ra tụ máu trong các tạng đặc hoặc ở thành các tạng rỗng.

Sự rách hoặc vỡ tạng rỗng làm các thành phần chứa trong dạ dày, ruột, bàng quang vào khoang phúc mạc, gây nên viêm phúc mạc.

Biến chứng muộn của chấn thương bụng bao gồm

  • Vỡ khối máu tụ
  • Áp xe trong ổ bụng
  • Tắc ruột
  • Rò mật và/hoặc tụ mật trong nhu mô gan
  • Hội chứng chèn ép khoang ổ bụng

Áp-xe, tắc ruột, hội chứng chèn ép khoang bụng, và thoát vị vết mổ cũng có thể là biến chứng của điều trị.

Máu tụ thường tự tiêu trong vài ngày tới vài tháng, phụ thuộc vào kích cỡ và vị trí. Khối máu tụ ở lách Chấn thương lách (Splenic Injury) Chấn thương lách thường do đụng dập vào ổ bụng. Bệnh nhân thường bị đau bụng, đôi khi lan lên vai, và có cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm. Điều trị bằng theo dõi... đọc thêm và, ít gặp hơn, khối máu tụ ở gan Tổn thương gan Tổn thương gan có thể là kết quả của chấn thương đụng dập hoặc xuyên thủng. Các bệnh nhân có đau bụng, đôi khi lan lên vai, và cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm... đọc thêm có thể vỡ, thường vài ngày đầu sau khi bị thương (đôi khi có thể lên đến vài tháng) có thể gây ra các xuất huyết trầm trọng. Khối máu tụ thành ruột thường vỡ trong 48-72 giờ sau chấn thương, giải phóng các thành phần chứa trong ruột vào khoang phúc mạc gây viêm phúc mạc, tuy nhiên thường không gây xuất huyết nặng. Khối máu tụ ở thành ruột hiếm khi gây nên hẹp lòng ruột, thường sau nhiều tháng tới nhiều năm, mặc dù có một số trường hợp tắc ruột sớm sau 2 tuần theo sau chấn thương đụng dập đã được báo cáo.

Hội chứng chèn ép khoang bụng tương tự như hội chứng chèn ép khoang ở các chi Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm sau khi chấn thương chỉnh hình. Trong hội chứng khoang bụng, rò rỉ mao mạch mạc treo và ruột (ví dụ: do sốc Sốc Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng tim, và giãn mạch, đôi khi shunt... đọc thêm , thủ thuật ngoại khoa ở bụng kéo dài, tổn thương tái tưới máu hệ thống do thiếu máu cục bộ hoặc hội chứng đáp ứng viêm hệ thống [SIRS]) gây ra phù nề mô trong ổ bụng. Mặc dù có nhiều không gian cho sự giãn nở trong khoang phúc mạc hơn trong khoang ở chi, sự phù nề, và đôi khi là dịch cổ trướng Cổ chướng Cổ trướng là dịch tự do trong khoang phúc mạc. Nguyên nhân phổ biến nhất là tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Các triệu chứng thường do bụng chướng. Chẩn đoán dựa trên khám lâm sàng và siêu âm hoặc... đọc thêm , cuối cùng cũng làm tăng áp lực ổ bụng (được định nghĩa là khi áp lực ổ bụng > 20mmHg), dẫn tới đau, thiếu máu tạng và rối loạn chức năng tạng. Sự thiếu máu ruột càng làm cho sự rò rỉ mạch máu trở nên trầm trọng, gây ra một vòng xoắn bệnh lý. Các cơ quan khác bị ảnh hưởng bao gồm

  • Thận (gây suy thận)
  • Phổi (áp lực ổ bụng cao có thể cản trở hô hấp, gây giảm oxy máu và tăng carbonic máu.
  • Hệ thống tim mạch (áp lực ổ bụng cao cản trở máu tĩnh mạch chi dưới trở về tim, gây hạ huyết áp).
  • Hệ thần kinh trung ương (áp lực nội sọ tăng lên, có thể là do tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm ngăn cản sự dẫn máu tĩnh mạch từ não về, gây giảm sự tưới máu não dẫn đến làm trầm trọng hơn các tổn thương nội sọ.

Các triệu chứng và dấu hiệu của chấn thương bụng

Nhìn

Theo định nghĩa, vết thương xuyên thấu gây ra vết rách trên da, nhưng các bác sĩ lâm sàng phải đảm bảo việc kiểm tra lưng, mông, đáy chậu, sườn và ngực dưới ngoài bụng, đặc biệt khi có liên quan đến súng hoặc thiết bị nổ. Các tổn thương da thường nhỏ, chảy máu ít, mặc dù thỉnh thoảng có những vết thương rất lớn, có thể lòi các tạng trong ổ bụng ra ngoài.

Chấn thương đụng dập có thể gây ra vết bầm máu (ví dụ như vết bầm máu ngang, thẳng được gọi là dấu hiệu dây đai an toàn), nhưng dấu hiệu này có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp. Chướng bụng sau chấn thương thường chỉ ra tình trạng xuất huyết nặng (2 đến 3 L), nhưng chướng bụng cũng có thể cũng không rõ ràng ngay cả ở những bệnh nhân đã mất nhiều đơn vị máu.

Sờ

Cảm ứng phúc mạc thường xuất hiện. Dấu hiệu thực thể này rất không đáng tin cậy bởi vì các vết đụng giập ở thành bụng có thể bị đau khi chạm vào và nhiều bệnh nhân có chấn thương ổ bụng nhưng khi thăm khám không có dấu hiệu rõ ràng tổn thương khác hoặc nếu họ bị mất chú ý bởi các thương tích khác hoặc đã thay đổi bộ phận nhận cảm hoặc nếu tổn thương chủ yếu của họ là sau phúc mạc. Mặc dù độ nhạy không cao nhưng khi thăm khám phát hiện các dấu hiệu phúc mạc (ví dụ, co cứng thành bụng, phản ứng thành bụng) gần như khẳng định đến sự có mặt của máu trong ổ bụng và/hoặc dịch tiêu hóa trong ổ bụng.

Thăm khám trực tràng có thể thấy máu tụ do tổn thương xuyên thấu vùng đại tràng, và có thể có máu ở lỗ niệu đạo hoặc máu tụ đáy chậu do chấn thương đường sinh dục tiết niệu. Mặc dù những dấu hiệu này khá đặc hiệu nhưng chúng không thật sự nhạy.

  • Đánh giá lâm sàng
  • Thường dựa vào CT hoặc siêu âm

Sau khi đánh giá lâm sàng, một vài bệnh nhân thật sự cần mở ổ bụng thăm dò hơn là xét nghiệm, bao gồm cả những người

  • Viêm phúc mạc
  • Sự rối loạn huyết động do vết thương thấu bụng
  • Vết thương súng bắn (hầu hết)
  • Sự lòi tạng ra ngoài

Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân không có các biểu hiện rõ ràng dương tính hay âm tính, do đó cần phải có các test để đánh giá thương tổn trong ổ bụng. Các lựa chọn test bao gồm

  • Chẩn đoán hình ảnh (siêu âm, CT)
  • Thủ thuật (thăm dò vết thương, chọc rửa ổ bụng chẩn đoán)

Ngoài ra, bệnh nhân thường cần phải chụp X-quang ngực để tìm khí tự do dưới cơ hoành (dấu hiệu chỉ ra có thủng tạng rỗng) và dấu hiệu vòm hoành lên cao (gợi ý vỡ cơ hoành). Chụp X-quang khung chậu được thực hiện ở bệnh nhân đau vùng chậu hoặc có sự giảm tốc độ đáng kể và thăm khám lâm sàng không đáng tin cậy.

Phương pháp được lựa chọn để phát hiện tổn thương trong ổ bụng sẽ thay đổi theo cơ chế chấn thương và kết quả khám lâm sàng.

Không nên thăm dò mù các vết thương bằng dụng cụ cùn (ví dụ, gạc, ngón tay). Nếu phúc mạc có bị rách, thăm dò có thể gây nhiễm trùng hoặc gây ra thương tổn nặng hơn.

Vết thương bị đâm (bao gồm cả vết thương xuyên) ở vùng bụng trước (giữa hai đường nách trước) ở những bệnh nhân ổn định về mặt huyết động và không có các dấu hiệu phúc mạc có thể được thăm dò tại chỗ. Thông thường, bệnh nhân được gây tê tại chỗ và vết thương được mở vừa đủ rộng để cho phép quan sát được toàn bộ đường đi. Nếu như phần mạc cơ phía trước bị xuyên thủng, bệnh nhân sẽ được nhập viện để làm các thăm khám lâm sàng ; thủ thuật mở ổ bụng thăm dò sẽ được thực hiện nếu có các dấu hiệu phúc mạc hoặc bệnh nhân có thay đổi huyết động. Nếu cân không bị thủng, vết thương sẽ được làm sạch là khâu lại, sau đó bệnh nhân sẽ được xuất viện. Ngoài ra, một số cơ sở tiến hành chụp CT, hoặc chọc rửa ổ bụng chẩn đoán Cách rửa khoang phúc mạc để chẩn đoán (DPL) Rửa khoang phúc mạc để chẩn đoán (DPL) là một thủ thuật cấp cứu xâm lấn được sử dụng để phát hiện tràn máu phúc mạc và giúp xác định nhu cầu phẫu thuật mở bụng sau chấn thương bụng. Một ống... đọc thêm (DPL) (tuy nhiên ít phổ biến) để đánh giá vết thương có xuyên thủng phúc mạc. CT được khuyên dùng cho các vết thương bị đâm vào vùng sườn (giữa đường nách trước và nách sau) hoặc lưng (giữa hai đường nách phía sau) vì chấn thương đến các cấu trúc sau phúc mạc bên dưới các vùng này có thể bị bỏ qua khi kiểm tra bụng và/hoặc chọc rửa ổ bụng chẩn đoán.

Với các vết thương do đạn bắn, hầu hết các bác sĩ lâm sàng thực hiện mở ổ bụng thăm dò trừ khi vết thương đi xượt qua, đồng thời không có các dấu hiệu viêm phúc mạc và hạ huyết áp. Tuy nhiên, một số cơ sở nơi ưu tiên điều trị bảo tồn với các bệnh nhân chỉ có tổn thương tạng đặc (thường là gan) sẽ cho tiến hành CT với các bệnh nhân toàn trạng ổn định có vết thương do đạn bắn. Việc thăm dò vết thương khu trú thường không được thực hiện với các vết thương do đạn bắn.

Hầu hết các bệnh nhân bị đa chấn thương và chấn thương nặng và/hoặc rối loạn cảm giác thì cần phải thực hiện các cận lâm sàng sau khi khám lâm sàng. Thông thường, bác sĩ lâm sàng sử dụng siêu âm hoặc CT, đôi khi dùng cả hai.

CT thường được thực hiện với chất cản quang đường tĩnh mạch chứ không phải đường miệng; phương pháp này rất nhạy để phát hiện dịch tự do và tổn thương tạng đặc, nhưng lại kém hơn để đánh giá với các lỗ thủng nhỏ (mặc dù tốt hơn so với siêu âm). Ngoài ra, CT có thể đồng thời phát hiện tổn thương xương cột sống hoặc xương chậu. Tuy nhiên, CT khiến các bệnh nhân bị nhiễm xạ, điều này cần được cân nhắc ở trẻ em, những bệnh nhân có thể cần chụp lại (ví dụ những bệnh nhân ổn định với một lượng dịch nhỏ) và các bệnh nhân cần vận chuyển ra khỏi khu vực hồi sức.

Việc lựa chọn giữa siêu âm và CT dựa trên tình trạng bệnh nhân. Nếu bệnh nhân cần CT để đánh giá vùng cơ thể khác (ví dụ cột sống cổ, khung chậu), CT có lẽ là lựa chọn hợp lý để đánh giá vùng bụng. Một số bác sĩ lâm sàng thực hiện FAST trong giai đoạn hồi sức và đẩy thẳng nhà mổ nếu thấy một lượng lớn dịch tự do ổ bụng (ở bệnh nhân tụt huyết áp). Nếu kết quả của FAST âm tính hoặc dương tính yếu, nếu vẫn cảm thấy nghi ngờ, bác sĩ lâm sàng sẽ cho tiến hành CT sau khi tình trạng bệnh nhân ổn định. Các vấn đề cần nghi ngờ bao gồm đau bụng tăng hoặc dự kiến không có khả năng theo dõi lâm sàng của bệnh nhân(ví dụ như bệnh nhân cần phải dùng giảm đau hoặc sẽ trải qua các cuộc phẫu thuật kéo dài).

Những bệnh nhân có triệu chứng đau bụng tăng lên đột ngột trong những ngày sau chấn thương nên nghi ngờ có chảy máu từ các khối máu tụ trong tạng đặc hoặc thủng tạng rỗng muộn, đặc biệt nếu họ có nhịp tim nhanh và/hoặc hạ huyết áp. Dấu hiệu đau trầm trọng lên trong ngày đầu tiên gợi ý thủng tạng rỗng hoặc, nếu sau vài ngày, gợi ý hình thành áp xe, đặc biệt nếu kèm theo sốt và tăng bạch cầu. Trong cả hai trường hợp, siêu âm hoặc CT thường được tiến hành nếu bệnh nhân ổn định, sau đó sẽ tiến hành phẫu thuật.

Sau chấn thương vùng bụng nghiêm trọng, nên nghi ngờ ở các bệnh nhân có lượng nước tiểu giảm, suy hô hấp, và/hoặc hạ huyết áp, đặc biệt nếu bụng chướng, căng cứng (tuy nhiên, các dấu hiệu thực thể không thật sự nhạy) Bởi vì các biểu hiện như vậy có thể là dấu hiệu của sự mất bù do các tổn thương cơ bản, cần phải có sự nghi ngờ cao ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Bởi vì các biểu hiện như vậy có thể là dấu hiệu của sự mất bù do các tổn thương cơ bản, cần phải có sự nghi ngờ cao ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Chẩn đoán đòi hỏi phải đo áp lực ổ bụng, thường đo bằng cách dùng một đầu dò áp lực kết nối với ống thông bàng quang; giá trị > 20 mm Hg được chẩn đoán tăng áp lực ổ bụng và cần được lưu ý. Khi bệnh nhân có dấu hiệu rối loạn chức năng của cơ quan (ví dụ, hạ huyết áp, thiếu oxy/tăng acid uric, giảm lượng nước tiểu, tăng áp lực nội sọ), cần thực hiện phẫu thuật giảm áp. Thông thường bụng sẽ được mở ra với vết thương được bọc bởi băng hút chân không hoặc các thiết bị tạm thời khác.

  • Como JJ, Bokhari F, Chiu WC, et al: Practice management guidelines for selective nonoperative management of penetrating abdominal trauma. J Trauma 68(3):721-733, 2010. doi: 10.1097/TA.0b013e3181cf7d07
  • Đôi khi mở bụng để kiểm soát chảy máu, sửa chữa các tạng, hoặc cả hai
  • Tắc động mạch hiếm khi xảy ra

Những bệnh nhân có biểu hiện sốc do mất máu cần phải được hồi sức kiểm soát tổn thương cho đến khi có thể kiểm soát được mất máu. Hồi sức kiểm soát tổn thương sử dụng các chế phẩm từ máu với tỉ lệ khoảng 1:1:1 giữa huyết tương, tiểu cầu và khối hồng cầu để giảm thiểu việc sử dụng các dung dịch tinh thể ( ). Huyết áp tâm thu mục tiêu lý tưởng là > 100 mm Hg trong quá trình hồi sức trong khi chờ xử trí dứt điểm tình trạng mất máu. Dịch truyền tĩnh mạch Crystalloid có thể được cho truyền làm phương án cuối cùng nếu không có sản phẩm máu nào. Khi thiếu các yếu tố đông máu, không có khả năng vận chuyển oxy và độ pH thấp, dịch truyền tĩnh mạch crystalloid góp phần gây nhiễm toan và rối loạn đông máu ở bệnh nhân sốc mất máu.

Một số bệnh nhân huyết động không ổn định được tiến hành mở ổ bụng thăm dò ngay lập tức như mô tả ở trên. Đối với phần lớn các bệnh nhân không cần phẫu thuật ngay lập tức nhưng những bệnh nhân có chấn thương bụng được phát hiện trong lúc chụp hình thì các lựa chọn điều trị bao gồm theo dõi, can thiệp thuyên tắc mạch, còn can thiệp phẫu thuật ít xảy ra hơn Kháng sinh dự phòng không được chỉ định khi bệnh nhân được điều trị không phẫu thuật. Kháng sinh dự phòng không được chỉ định khi bệnh nhân được điều trị không phẫu thuật. Tuy nhiên, kháng sinh thường được dùng trước khi phẫu thuật thăm dò.

Theo dõi (bắt đầu ở đơn vị hồi sức tích cực [ICU]) thường thích hợp cho những bệnh nhân ổn định về huyết động với tổn thương tạng đặc, nhiều tổn thương dạng này có thể tự hồi phục. Bệnh nhân có dịch tự do ở bụng trên phim CT nhưng không có thương tổn cụ thể nào được phát hiện ra cũng có thể được theo dõi nếu không có dấu hiệu phúc mạc. Tuy nhiên, nếu xuất hiện dịch tự do mà không có bằng chứng tổn thương tạng đặc cũng là dấu hiệu thường gặp nhất về mặt hình ảnh trong tổn thương tạng rỗng, mặc dù dấu hiệu này có độ đặc hiệu thấp. Bởi vì theo dõi không phù hợp với trường hợp thủng tạng rỗng (bệnh nhân thường tiến đến nhiễm trùng huyết Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn Nhiễm khuẩn huyết là một hội chứng lâm sàng của rối loạn chức năng cơ quan đe dọa đến tính mạng gây ra bởi một đáp ứng không điều chỉnh được với nhiễm trùng. Trong sốc nhiễm khuẩn, có sự giảm... đọc thêm do viêm phúc mạc) nên các bác sỹ lâm sàng nên xem xét chỉ định để tiến hành mở bụng thăm dò đối với các bệnh nhân có tình trạng dịch ổ bụng khu trú diễn biến xấu hoặc không cải thiện lâm sàng trong một thời gian theo dõi.

Trong quá trình theo dõi, các bệnh nhân được kiểm tra nhiều lần trong ngày (tốt nhất là cùng một bác sỹ khám) và đánh giá lại kết quả tổng phân tích máu (cell blood count), thông thường từ 4 đến 6 giờ/lần. Đánh giá nhằm phát hiện tình trạng xuất huyết tiến triển và viêm phúc mạc.

Tình trạng xuất huyết tiến triển được gợi ý bởi

  • Tình trạng rối loạn huyết động
  • Nhu cầu truyền máu liên tục (ví dụ: hơn 2 đến 4 đơn vị trong khoảng thời gian 12 giờ)
  • Sự giảm đáng kể Hematocrit (Hct; ví dụ, > 10-12 điểm phần trăm)

Ý nghĩa của nhu cầu truyền máu và sự thay đổi Hct phụ thuộc phần nào vào cơ quan bị tổn thương và các tổn thương đi kèm khác (Ví dụ: những thương tổn cũng có thể gây ra mất máu) cũng như trữ lượng máu sinh lý của bệnh nhân. Tuy nhiên, các bệnh nhân nghi ngờ đang có xuất huyết ở mức đáng kể nên được xem xét chụp nút mạch hoặc phẫu thuật mở bụng ngay.

Các bệnh nhân ổn định thường được chuyển tới khu điều trị thường sau 12 đến 48 giờ, tùy thuộc vào mức độ nghiêm tổn thương ở bụng và các thương tổn phối hợp khác. Chế độ ăn uống sinh hoạt của bệnh nhân được điều chỉnh ở mức độ phù hợp. Thông thường, bệnh nhân có thể được xuất viện về nhà sau 2 đến 3 ngày. Bệnh nhân được hướng dẫn hạn chế vận động mạnh trong ít nhất 6-8 tuần.

Không có hướng dẫn rõ ràng đối với những bệnh nhân không có triệu chứng, khi nào thì cần đánh giá về thăm khám hình ảnh trước khi bắt đầu hoạt động như bình thường, đặc biệt là khi nâng vật nặng, chơi lại thể thao, hoặc chấn thương thân trên có thể xảy ra. Các bệnh nhân có tổn thương ở mức độ nặng có nguy cơ cao nhất đối với các biến chứng sau chấn thương và nên có ngưỡng đánh giá thấp nhất để chụp phim lại.

Phẫu thuật nội soi được lựa chọn do bản chất ban đầu của chấn thương và tình trạng lâm sàng (ví dụ: huyết động không ổn định) hoặc do mất bù lâm sàng sau đó. Hầu hết các bệnh nhân có thể có một thủ thuật duy nhất trong thời gian kiểm soát xuất huyết và sửa chữa tổn thương.

Tuy nhiên, những bệnh nhân bị chấn thương nhiều trong ổ bụng- họ phải trải qua một quá trình phẫu thuật ban đầu kéo dài thường có xu hướng không tốt, đặc biệt khi họ bị các tổn thương nghiêm trọng khác, hoặc có tình trạng sốc Sốc Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng tim, và giãn mạch, đôi khi shunt... đọc thêm trong một khoảng thời gian kéo dài, hoặc cả hai. Thủ thuật phẫu thuật ban đầu càng mở rộng và kéo dài thì càng có nhiều khả năng những bệnh nhân như vậy sẽ có nguy cơ cao kết hợp toan chuyển hóa, rối loạn đông máu, hạ thân nhiệt và kéo theo rối loạn chức năng đa cơ quan. Trong những trường hợp như vậy, tỷ lệ tử vong có thể giảm bớt nếu ban đầu bác sĩ phẫu thuật thực hiện một thủ thuật ngắn gọn hơn nhiều (gọi là phẫu thuật kiểm soát tổn thương) trong đó kiểm soát xuất huyết và tràn dịch ruột (ví dụ: bằng cách nhồi gạc, thắt, tạo luồng thông, khâu bao ngoài hoặc khâu ghim ruột) mà không cần phục hồi dứt điểm và đóng bụng tạm thời.

Đóng tạm thời có thể đạt được bằng cách sử dụng một hệ thống chân không hút kín được cấu thành từ khăn, ống dẫn, và băng vết thương sinh học lớn hoặc thông qua việc sử dụng băng vết thương ở bụng. Sau đó, bệnh nhân sẽ được điều trị ổn định trong ICU và được đưa đi để loại bỏ vỏ bọc và phẫu thuật phần còn lại sau khi đã hồi phục sinh lý bình thường (đặc biệt là điều chỉnh pH và nhiệt độ), thường là trong vòng 24 giờ hoặc sớm hơn nếu bệnh nhân xấu đi về mặt lâm sàng mặc dù đã được hồi sức tích cực. Bởi vì những bệnh nhân yêu cầu thủ thuật kiểm soát tổn thương là những người bị chấn thương nặng nhất, tỉ lệ tử vong vẫn còn đáng kể và thường xuất hiện các biến chứng trong ổ bụng sau đó.

Tình trạng chảy máu tiến triển đôi khi có thể được dừng lại mà không cần phẫu thuật bằng cách sử dụng phương pháp chụp mạch qua da để làm tắc mạch máu (angiographic embolization). Sự cầm máu được tạo ra bằng cách tiêm chất tạo huyết khối (ví dụ bột gelatin) hoặc cuộn kim loại vào trong mạch máu tổn thương. Mặc dù không có sự đồng thuận hoàn toàn, các chỉ định được chấp nhận cho việc gây tắc mạch máu bao gồm

  • Giả phình mạch

Gây tắc mạch không được khuyến cáo cho bệnh nhân toàn trạng không ổn định vì tại phòng can thiệp không thể chăm sóc bệnh nhân nặng. Ngoài ra, không nên cố gắng kéo dài việc can thiệp gây tắc mạch ở những bệnh nhân yêu cầu truyền máu liên tục; quyết định phẫu thuật là hợp lý hơn. Tuy nhiên, với sự gia tăng của các phòng phẫu thuật ghép (phòng phẫu thuật có khả năng can thiệp mạch), một số bệnh nhân toàn trạng không ổn định có thể trải qua chụp mạch và quyết định phẫu thuật ngay nếu cần.

  • Holcomb JB, Tilley BC, Baraniuk S, et al: Transfusion of plasma, platelets, and red blood cells in a 1:1:1 vs a 1:1:2 ratio and mortality in patients with severe trauma. JAMA 313(5):471-482, 2015. doi: 10.1001/jama.2015.12
  • Các biến chứng của chấn thương bụng có thể là cấp (ví dụ, chảy máu) hoặc muộn (ví dụ áp xe, tắc nghẽn, ruột thừa, vỡ khối máu tụ).
  • Thăm khám bụng không cho đánh giá tin cậy mức độ nghiêm trọng của chấn thương bụng.
  • Nếu bệnh nhân có lộ ruột, sốc do vết thương xuyên bụng, hoặc viêm phúc mạc, tiến hành mở ổ bụng thăm dò ngay để chẩn đoán.

Nếu không có bằng chứng rõ ràng cho thấy cần chỉ định phẫu thuật mở bụng hoặc cơ chế chấn thương là nhỏ, chẩn đoán hình ảnh (thường là siêu âm hoặc CT) thường được yêu cầu sau chấn thương đụng dập hoặc vết thương xuyên thấu.