Bảng thành phần hóa học của 1 trái dứa chín năm 2024

Cây sống dai. Lá mọc thành hoa thị, cứng dài, có gai cứng ở mép. Khi cây đã lớn thì từ chùm lá đó mọc ra một thân dài độ 10-40cm, mang một bông hoa tận cùng bằng một chùm lá nhỏ. Hoa đều, lưỡng tính. Mỗi hoa mọc ở kẽ một lá bắc màu tím. Ba lá đài nhỏ màu lục, ba cánh hoa màu tím lớn hơn, 6 nhị xếp thành 2 vòng. Bầu hạ 3 ô, mỗi ô chứa 2 dãy noãn đảo. Quả mọng. Phần ăn được và thường gọi là “quả dừa” thực ra là gồm trục của bông hoa và các lá mọng nước tụ hợp lại mà thành, còn quả thật thì nằm trong các mắt dứa

Bảng thành phần hóa học của 1 trái dứa chín năm 2024
Cây Dứa

Phân bố, thu hái và chế biến

Dứa vốn nguồn gốc ở Trung Mỹ, hiện nay được trồng ở hầu hết những nước nhiệt đới. Sản lượng dứa trên thế giới vào khoảng 1.750.000 tấn. Ở nước ta việc trồng dứa cũng rất phát triển. Chủ yếu để lấy quá ăn và xuất khẩu.

Gần đây, dứa còn là nguồn nguyên liệu chiết men bromelin (xem phần thành phần hóa học). Nhân dân ta còn dùng nõn cây làm thuốc, thu hái vào mùa xuân. Thường chỉ dùng tươi.

Thành phần hóa học

Trong quả dứa có 90% nước, 0,5-0,8% protit, 0,7-1% axit hữu cơ, 6,5-8,9% gluxit, 0,4-0,8% xenluloza, 0,4-0,5% tro, 15-32mg% canxi, 11- 17mg% P, 0,3- 0,5mg% Fe, 0,05-0,08mg% caroten, 0,08mg% vitamin B, 0,02-0,03mg% vitamin B, 0,2mg% vitamin PP và 24-26mg% vitamin C.

Trong tất cả các bộ phận của cây dứa (thân, lá, quả) đều chứa bromelin, nhiều nhất tập trung ở thân dứa (phần lõi trắng của chồi) cao gấp 8- 20 lần so với ở quả, dứa tây chứa nhiều brome-lin hon dứa ta.

Trong nước dứa bromelin có vào khoảng 3 đến 5g phần 1.000, vỏ dứa chứa nhiều hơn dịch chiết quả. Bromelin là một men thủy phần protit. Trọng lượng phân tử bromelin khoảng 23.000, Bromelin là một men chịu được nhiệt, dịch chiết bromelin ở pH 3,5 sau khi đun 60 phút vẫn còn hoạt tính.

Từ 1963, bromelin được dùng chữa bệnh rối loạn tiêu hóa dạ dày, ruột. Ở pH 3,3 bromelin tác dụng như pepsin, ở pH 6 như trypsin. Trường hợp vô toan, bromelin vẫn có tác dụng. Brome- lin có tác dụng ức chế quá trình viêm, làm giảm phù nề và tụ huyết. Bromelin bôi lên vết thương hoặc vết bỏng làm tiêu các tổ chức chết, mau

thành sẹo. Phối hợp bromelin với thuốc ngủ natri pentobacbital làm tăng thời gian gây ngủ của thuốc, phối hợp với theophylin, ephedrin tăng tác dụng chống hen và viêm phế quản của những thuốc ấy.

Ngành thực phẩm còn dùng Bromelin làm mềm thịt, tác dụng của Bromelin còn mạnh hơn tác dụng của papain của đu đủ. Ngoài ra Bromelin còn được dùng thúc đẩy quá trình thủy phân đạm trong công nghiệp chế biến nước chếm

Công dụng và liều dùng

Ngoài quả dứa dùng để ăn, dứa gần đây đã trở thành nguyên liệu chiết bromelin dùng trong nhiều ngành công nghiệp và làm thuốc chữa bệnh.

Nhân dân còn dùng rễ cây dứa làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu tiện khó khăn, đái ra sỏi sạn. Dịch ép lá và quả chưa chín là một thứ thuốc tẩy nhuận tràng (có thể gây sẩy thai). Nõn (lá non) dùng làm thuốc chữa sốt. Ngày dùng 20 đến 30g nõn dứa dưới dạng thuốc sắc hay giã nát lấy nước uống.

Khi cây đã lớn thì từ chùm lá đó mọc ra một thân dài độ 10 – 40cm, mang một bông hoa tận cùng bằng một chùm lá nhỏ. Hoa đều, lưỡng tính. Mỗi hoa mọc ở kẽ một lá bắc màu tím.

Ba lá đài nhỏ màu lục, ba cánh hoa màu tím lớn hơn, 6 nhị xếp thành 2 vòng. Bầu hạ 3 ô, mỗi ô chứa 2 dãy noãn đảo.

Quả mọng. Phần ăn được và thường gọi là "quả dứa" thực ra là gồm trục của bông hoa và các lá mọng nước tụ hợp lại mà thành, còn quả thật thì nằm trong các mắt dứa.

Dứa vốn nguồn gốc ở Trung Mỹ, hiện nay được trồng ở hầu hết những nước nhiệt đới. Ở nước ta việc trồng dứa cũng rất phát triển, chủ yếu để lấy quả ăn và xuất khẩu.

Dứa còn là nguồn nguyên liệu chiết men bromelin. Nhân dân ta còn dùng nõn cây làm thuốc, thu hái vào mùa xuân, thường chỉ dùng tươi.

Thành phần hóa học của quả dứa: Trong quả dứa có 90% nước. Ngoài ra dứa còn có protid, acid hữu cơ, glucid, xenluloza, canxi, photpho, sắt, carotene, vitamin B1, vitamin B2, vitamin PP và vitamin C.

2. Công dụng của men bromelin trong quả dứa

Bảng thành phần hóa học của 1 trái dứa chín năm 2024

Chất bromelin trong quả dứa có nhiều đặc tính chữa bệnh.

Trong tất cả các bộ phận của cây dứa (thân, lá, quả) đều chứa bromelin, nhiều nhất tập trung ở thân dứa (phần lõi trắng của chồi) cao gấp 8-20 lần so với ở quả. Dứa tây chứa nhiều bromelin hơn dứa ta. Bromelin là một men thủy phân protid, chịu được nhiệt.

Từ năm 1963, bromelin được dùng chữa bệnh rối loạn tiêu hóa dạ dày, ruột. Ở pH 3,3 bromelin tác dụng như pepsin, ở pH 6 như trypsin. Trường hợp vô toan, bromelin vẫn có tác dụng.

Bromelin có tác dụng ức chế quá trình viêm, làm giảm phù nề và tụ huyết.

Bromelin bôi lên vết thương hoặc vết bỏng làm tiêu các tổ chức chết, mau thành sẹo.

Phối hợp bromelin với thuốc ngủ natri pentobacbital làm tăng thời gian gây ngủ của thuốc, phối hợp với theophylline, ephedrine tăng tác dụng chống hen và viêm phế quản của những thuốc này.

Ngành thực phẩm còn dùng bromelin làm mềm thịt, tác dụng của bromelin còn mạnh hơn tác dụng của papain của đu đủ.

Ngoài ra, bromelin còn được dùng thúc đẩy quá trình thủy phân đạm trong công nghiệp chế biến nước chấm.

3. Công dụng chữa bệnh của quả dứa

Bảng thành phần hóa học của 1 trái dứa chín năm 2024

Nước ép dứa rất tốt cho sức khỏe.

Ngoài quả dứa dùng để ăn, dứa trở thành nguyên liệu chiết bromelin dùng trong nhiều ngành công nghiệp và làm thuốc chữa bệnh.

Nhân dân còn dùng rễ cây dứa làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu tiện khó khăn, đái ra sỏi sạn.

Dịch ép lá và quả chưa chín của dứa là một thứ thuốc tẩy nhuận tràng (có thể gây sẩy thai).

Nõn (lá non) dùng làm thuốc chữa sốt.

Ngày dùng 20 đến 30g nõn dứa dưới dạng thuốc sắc hay giã nát lấy nước uống.

Mặc dù dứa có nhiều công dụng đối với sức khỏe và bệnh tật, tuy nhiên khi dùng dứa cần lưu ý một số điểm sau:

- Không nên ăn nhiều vì dứa có thể gây rát miệng, tăng cân vì dứa chứa hàm lượng đường cao, chứa nhiều năng lượng, đặc biệt với người thừa cân, béo phì, người đái tháo đường.

- Những người bị viêm loét dạ dày tá tràng cần tránh ăn nhiều dứa vì trong dứa có nhiều acid hữu cơ và một số enzyme có thể làm tăng viêm loét niêm mạc dạ dày ruột.

- Phụ nữ mang thai tránh ăn nhiều dứa vì có thể làm tăng kích thích co thắt tử cung, dễ gây sẩy thai.