Ví dụ về mối liên hệ phổ biến, trong giáo dục

 Thế nào là mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến? Cho ví dụ.

Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến

– Khái niệm mối liên hệ

Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Ví dụ, giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình: cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu. Đó chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.

– Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa:

+ Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ (ví dụ như: khi khẳng định rằng mối liên hệ là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện tượng nào, lĩnh vực nào);

+ Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại (được thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù chỉ biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định).

Ví dụ, mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ chung, nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tuỳ theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm thực hiện… Khi nghiên cứu cụ thể từng loại thị trường hàng hoá, không thể không nghiên cứu những tính chất riêng có (đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của mối quan hệ cung cầu.

Có nhiều cấp độ, phạm vi của mối liên hệ phổ biến, trong đó phép biện chứng duy vật với tư cách là khoa học triết học có nhiệm vụ nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến nhất, làm tiền đề phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu các mối liên hệ cụ thể trong từng lĩnh vực nghiên cứu của các khoa học chuyên ngành; đó là các mối liên hệ như: cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả…

Câu 6: Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận?􀀣 Khái niệm mối liên hệ phổ biếnTrong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng cómối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượngtồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau.Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quátrình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v;Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ,sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác của con người.Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới làcơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác.􀀣 Các tính chất của mối liên hệ phổ biến+ Tính khách quan:Mối liên hệ của các sự vật là khách quan vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả các sự vật vô tri vô giác hàng ngày cũng chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Con người cũng chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố trong chính bản thân.Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là 1 tất yếu khách quan nên mối liên hệ cũng tồn tại khách quan.Ví dụ: Sự phụ thuộc của cơ thể sinh vật vào môi trường, khi môi trường thay đổi thì cơ thể sinh vật cũng phải thay đổi để thích ứng với môi trường. Mối liên hệ đó không phải do ai sáng tạo ra, mà là cái vốn có của thế giới vật chất+ Tính phổ biến:Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật , hiện tượng khác. Không có sự vật nào nằm ngoài mối liên hệ. Nó tồn tại trong tất cả các mặt: tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất thế giới.Ví dụ: Trong tự nhiên ( mlh mặt trời và mặt trăng-> xem thêm định luật vạn vật hấp dẫn) trong xã hội(các hình thái kinh tế xã hội: CXNT-CHNL-PK-TBCNCS); trong tư duy ( LỚP 1-2-3-5 V.V..)+ Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ:Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì vậy khinghiên cứu mối liên hệ giữa các sự vật cần phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những cách phân loại sau: chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian. Sự phân loại này chỉ mang tính tương đối vì mối liên hệ chỉ là 1 bộ phận, 1 mặt trong mối liên hệ phổ biến nói chung.Ví dụ: các loái cá, chim , thú đều có quan hệ với nước, nhưng cá quan hệ với nước khác với chim và thú.Cá sống thường xuyên trong nước, không có nước thường xuyên thì cá không thể tồn tại được, nhưng các loài chim và thú thì lại không sống trong nước thường xuyên được.􀀣 Ý nghĩa phương pháp luận:+ Quan điểm toàn diện: là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu tất cả các mặt, các yếu tố kể cả các mắt khâu trung gian, gián tiếp có liên quan đến sự vật. Trong nhận thức nên tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa các cá bộ phận, các yếu tố; giữa sự vật này với sự vật khác; giữa lý luận với nhu cầu thực tiễn…+ Quan điểm lịch sử - cụ thể: là quan điểm khi xem xét sự vật phải chú ý đúng mức hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã phát sinh ra vấn đề đó.Ví dụ: biện hộ cho việc ăn cướp là vì nghèo. Theo luật Hình sự thì đây chỉ là tình tiết gảim nhẹ mà thôi->

vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là khái niệm chỉ sự quy đinh, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thực tế đều tác động đến nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tách biệt hoàn toàn với các sự vật, hiện tượng khác.

– Hiểu một cách khái quát thì:

+ “sự quy định” là sự lệ thuộc vào nhau giữa các sự vật (hay hiện tượng) A và B.

+ “tác động qua lại” là tác động hai chiều; A tác động vào B, đồng thời B cũng tác động vào A.

+ “chuyển hóa lẫn nhau” là A “biến” thành một phần hay toàn bộ B và ngược lại.

 Ở trên, ta chỉ đề cập 02 sự vật (hay hiện tượng) A và B cho dễ hiểu. Trong thực tế, “mối liên hệ phổ biến” bao quát A, B, C, D…, n, đến vô cùng. Điều này cũng đúng với vô số các mặt trong mỗi sự vật, hiện tượng A, B, C, D…

II. Tính chất của mối liên hệ phổ biến1. Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến

– Trong thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ với nhau, dù nhiều dù ít. Điều này là khách quan, không lệ thuộc vào việc con người có nhận thức được các mối liên hệ hay không.

Sở dĩ mối liên hệ có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng vật chất (bao gồm sự vật, hiện tượng) dù có vô vàn, vô kể, nhưng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Có điểm chung ở tính vật chất tức là chúng có mối liên hệ với nhau về mặt bản chất một cách khách quan.

– Có những mối liên hệ rất gần gũi ta có thể nhận thấy ngay. Ví dụ như mối liên hệ giữa con gà và quả trứng.

Nhưng có những mối liên hệ phải suy đến cùng, qua rất nhiều khâu trung gian, ta mới thấy được. Gần đây, chúng ta hay được nghe về lý thuyết “hiệu ứng cánh bướm”. Lý thuyết này xuất phát từ quan điểm cho rằng những sự vật, hiện tượng ở rất xa nhau nhưng đều có liên quan đến nhau.

Do vạn vật liên hệ với nhau, nên chỉ cần đôi cánh của nàng bướm xinh là có thể gây nên những thay đổi ở đâu đó rất xa.2. Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến

Các mối liên hệ tồn tại giữa tất cả các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Không có sự vật, hiện tượng bất kỳ nào mà không có sự liên hệ với phần còn lại của thế giới khách quan.

Lấy lĩnh vực tự nhiên để phân tích, ta có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng thuộc riêng lĩnh vực tự nhiên. Cũng có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng thuộc tự nhiên với các sự vật, hiện tượng thuộc lĩnh vực xã hội. Lại có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng tự nhiên với các hiện tượng thuộc lĩnh vực tư duy (hay tinh thần)

Khi lấy lĩnh vực xã hội hoặc tư duy để phân tích, ta cũng có những mối liên hệ đa lĩnh vực như trên.

Đó là sự muôn hình, muôn vẻ của những mối liên hệ. Tính đa dạng, nhiều loại của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính các sự vật, hiện tượng quy định.

Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Ta có thể nêu một số loại hình cơ bản sau:

  – Liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.

 Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các bộ phận, các thuộc tính, các mặt khác nhau… trong cùng một sự vật. Nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.

Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhìn chung, nó không có ý nghĩa quyết định. Mối quan hệ này thường phải thông qua mối liên hệ bên trong để phát huy tác dụng.

– Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.

Cũng có những tính chất, đặc điểm nêu trên. Ngoài ra, chúng còn có tính đặc thù. Chẳng hạn, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong mối quan hệ này, lại là tất nhiên trong mối quan hệ khác.

– Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp.

Cách phân loại này nói đến vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.

– Liên hệ bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.

Cách phân loại này nói lên thực chất của mối liên hệ là gì.

– Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hoặc một lĩnh vực.

Cách phân loại này vạch ra quy mô của mối liên hệ.

-…v…v…

Sự phân loại các mối liên hệ có tính tương đối, vì ta phải đặt mỗi sự liên hệ vào một tình huống, mối quan hệ cụ thể.

(Lưu ý: hai từ “liên hệ” và “quan hệ” không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau.).

Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa cho nhau. Sự chuyển hóa như vậy là do ta thay đổi phạm vi xem xét, phân loại hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng.

Phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất trong thế giới khách quan, mang tính phổ biến. Những ngành khoa học cụ thể (toán, lý, hóa…) nghiên cứu những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới.

Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Bài viết về “quan điểm khách quan” tại đây.

Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:

+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.

Tức là xem xét những mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các tuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó.

+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.

Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.

+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.

Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt được về sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.

Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là những chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu tất cả những mối liên hệ.

+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.

Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là xem xét nhiều mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó cũng là cách cào bằng những thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê.

+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động thực tiễn để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác.

Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để tác động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.

+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.

Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử – cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự ra đời và phát triển của vấn đề.

Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên sai lầm. Vì chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.