Ví dụ tiến bộ công nghệ làm tăng năng suất

Năng suất rất quan trọng trong kinh tế vì nó có tác động to lớn đến mức sống. Nó cho phép mọi người đạt được những gì họ muốn nhanh hơn hoặc nhận được nhiều hơn trong cùng một khoảng thời gian.

Năng suất về cơ bản là hiệu quả trong đó một công ty hoặc nền kinh tế có thể chuyển đổi các nguồn lực thành hàng hóa, có khả năng tạo ra nhiều hơn từ ít hơn. Tăng năng suất có nghĩa là sản lượng lớn hơn từ cùng một lượng đầu vào. Đây là một quá trình gia tăng giá trị có thể nâng cao mức sống một cách hiệu quả thông qua việc giảm đầu tư tiền tệ bắt buộc vào các nhu cầu thiết yếu hàng ngày (và những thứ xa xỉ), làm cho người tiêu dùng trở nên giàu có hơn (theo nghĩa tương đối) và các doanh nghiệp có lợi hơn.

Tầm quan trọng của năng suất

Nhìn từ góc độ rộng hơn, năng suất tăng làm tăng sức mạnh của nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng nhiều nhu cầu của con người hơn với cùng nguồn lực. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sản lượng kinh tế tổng thể tăng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện nền kinh tế và các thành phần tham gia trong nền kinh tế. Kết quả là, các nền kinh tế sẽ được hưởng lợi từ nguồn thu thuế lớn hơn để tạo ra các dịch vụ xã hội cần thiết như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, phúc lợi, giao thông công cộng và tài trợ cho các nghiên cứu quan trọng. Lợi ích của việc tăng năng suất là vô cùng sâu rộng, mang lại lợi ích cho những người tham gia trong hệ thống cùng với chính hệ thống.

Clip Tại sao năng suất lại quan trọng trong kinh tế

Người thụ hưởng năng suất

Để mở rộng điều này, có ba quan điểm hữu ích để định khung giá trị trong việc cải thiện năng suất trong hệ thống từ quan điểm kinh tế:

  • Người tiêu dùng / Người lao động: Ở cấp độ vi mô nhất, chúng tôi đã cải thiện mức sống cho người tiêu dùng và người lao động hàng ngày nhờ năng suất tăng lên. Hệ thống càng đạt được hiệu quả cao, thì yêu cầu đầu vào (lao động, đất đai và vốn) để tạo ra hàng hoá càng thấp. Điều này có thể có khả năng làm giảm điểm giá và giảm thiểu giờ làm việc cần thiết cho những người tham gia trong nền kinh tế trong khi vẫn duy trì mức tiêu dùng cao.
  • Doanh nghiệp: Các doanh nghiệp có thể đạt được năng suất cao hơn từ một hệ thống cũng được hưởng lợi từ việc tạo ra nhiều đầu ra hơn với cùng hoặc ít đầu vào hơn. Nói một cách đơn giản, hiệu quả cao hơn đồng nghĩa với lợi nhuận tốt hơn thông qua chi phí thấp hơn. Điều này cho phép người lao động được trả công tốt hơn, nhiều vốn lưu động hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh.
  • Chính phủ: Tăng trưởng kinh tế cao hơn cũng sẽ tạo ra các khoản nộp thuế lớn hơn cho các chính phủ. Điều này cho phép các chính phủ đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội (như đã nói ở trên).

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất

Cân nhắc quan trọng cuối cùng trong việc đánh giá tiềm năng năng suất là biên giới khả năng sản xuất (PPF), về cơ bản phác thảo số lượng sản xuất tối đa của hai hàng hóa (trong phạm vi năng lực công nghệ và nguồn cung hiện tại của chúng tôi). Điều này chứng tỏ sự hạn chế của năng suất, và do đó được nắm bắt tốt trong chức năng sản xuất Leontief. Điểm mấu chốt ở đây là chức năng sản xuất nói chung sẽ bị ảnh hưởng bởi hai điều: nguồn cung tổng thể và khả năng công nghệ. Lưu ý rằng nhu cầu không tính đến việc thay đổi chức năng sản xuất hoặc tiềm năng năng suất tổng thể. Minh họa trong hình sau cho thấy sự gia tăng PPF, do đó ảnh hưởng đến chức năng sản xuất.

Tác động của thay đổi công nghệ đối với năng suất

Tiến bộ công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất và do đó nâng cao mức sống trong một hệ thống.

Năng suất đo lường cách thức mà một hệ thống kinh tế hoặc doanh nghiệp có thể tận dụng các đầu vào chức năng sẵn có để tạo ra các đầu ra có ý nghĩa. Khái niệm này thúc đẩy các nền kinh tế hướng tới mức độ hiệu quả cao hơn trong sản xuất và do đó tăng trưởng kinh tế và mức sống cao hơn. Kết quả là, cải thiện năng suất là một mục tiêu quan trọng đối với các xã hội để tăng sự giàu có tương đối của họ. Tiến bộ công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất và do đó nâng cao mức sống trong một hệ thống.

Khả năng sản xuất Biên

Tăng trưởng năng suất bị ràng buộc bởi cái được gọi là biên giới khả năng sản xuất (PPF), về cơ bản quy định một loạt số lượng tối đa của hai loại hàng hóa có thể được tạo ra bằng cách sử dụng một lượng cố định các yếu tố sản xuất liên quan. Trong bối cảnh của một PPF nhất định, chỉ có sự gia tăng tổng thể nguồn cung cấp đầu vào hoặc tiến bộ công nghệ sẽ cho phép PPF dịch chuyển ra ngoài và cho phép tăng sản lượng tiềm năng của cả hai hàng hóa đồng thời (được biểu thị bằng điểm 'X' trong hình ). Sự thay đổi do những thay đổi trong công nghệ thể hiện năng suất tăng lên. Đây là một thành phần quan trọng trong việc hiểu vai trò của công nghệ đối với năng suất, vì nó là yếu tố ảnh hưởng chính đến việc tăng khả năng sản xuất trong tương lai.

Những tiến bộ về công nghệ: Quá khứ, Hiện tại và Tương lai

Sự khác biệt trong các tiến bộ công nghệ đã thúc đẩy năng suất tăng lên là đáng chú ý, nhấn mạnh tầm quan trọng liên tục của việc tập trung vào công nghệ như một tác nhân thay đổi chính. Những tiến bộ đổi mới trong công nghệ có thể là bước nhảy vọt hoặc tăng tiến, mặc dù những tiến bộ công nghệ lớn hơn có xu hướng chiếm được ánh đèn sân khấu. Nói chung, có một số hạng mục đặc biệt đáng chú ý:

Năng lượng: Trong lịch sử, động vật và con người là đầu vào năng lượng chính để tạo ra sản phẩm. Điều này cực kỳ tốn kém và tốn thời gian so với các cách hiện đại hơn để cung cấp năng lượng cho mọi thứ và đã được cải thiện đáng kể theo thời gian. Điện, nhiệt, hơi nước, nước, năng lượng mặt trời và nhiều phương pháp thu năng lượng khác đã làm tăng đáng kể hiệu quả trong khi giải phóng thời gian làm việc của con người.

Giao thông vận tải và Máy móc công nghiệp: Thương mại đã là một phần của lịch sử loài người gần như chừng nào các nền văn minh còn biết đến nhau, trao đổi hàng là thành phần trung tâm của sự tương tác giữa con người với nhau. Việc cải thiện các địa điểm giao thương, chẳng hạn như thuyền, ô tô, máy bay, tàu hỏa, v.v. đã giúp tăng nhanh về số lượng và hiệu quả thương mại. Tương tự, máy móc công nghiệp sử dụng các phương tiện tương tự đã giúp tăng quy mô và hiệu quả hàng loạt, đặc biệt là nông nghiệp.

Truyền thông: Không cần phải nói, internet và truyền thông di động đã thúc đẩy nhanh chóng việc truyền tải kiến ​​thức, dữ liệu, thông tin và mạng. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp trên toàn thế giới, cùng với sự phát triển của kinh tế học và phát triển.

Logistics: Sự gia tăng hệ thống công nghệ thường được coi là một sự đổi mới hữu hình, nhưng không giới hạn ở đó. Những cải tiến trong cách chúng ta thực hiện công việc thường cũng hữu ích. Henry Ford là một ví dụ điển hình về điều này, đổi mới dây chuyền lắp ráp để tối đa hóa hiệu quả của quá trình sản xuất thông qua việc thực hiện chiến lược vai trò lao động.

Ý nghĩa về năng suất

Đo lường tác động của công nghệ đối với năng suất là một việc khó theo đuổi. Nó thường được tiếp cận thông qua các chỉ số như Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người và Tổng năng suất các yếu tố (TFP). Hai nỗ lực trước để nắm bắt sản lượng tổng thể của một nền kinh tế nhất định từ góc độ môi trường vĩ mô. Phương pháp thứ hai thú vị hơn một chút, cố gắng đo lường sự tiến bộ theo hướng công nghệ thông qua ghi nhận sự gia tăng sản lượng tổng thể mà không tăng đầu vào. Điều này được thực hiện thông qua việc sử dụng các phương trình hàm sản xuất và xác định khi nào đầu ra lớn hơn đầu vào giả định, ngụ ý một bước tiến trong môi trường công nghệ bên ngoài. Hệ thống này được điều chỉnh cụ thể cho sự thay đổi công nghệ hơn là GDP

Ngày cập nhật: 2021-08-16 01:52:17

Thế nhưng, theo một nghiên cứu thực tế, lao động người Việt Nam làm việc ở nước ngoài lại có năng suất cao. Nguyên nhân, các nước áp dụng khoa học công nghệ hỗ trợ, lọc bỏ những thao tác dư thừa nên góp phần tăng năng suất lao động…

Khoảng cách lùi 

So sánh năng suất lao động của Việt Nam với một số nước khu vực Đông Nam Á trong năm 2017 cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7,2% so với Singapore, 18,4% so với Malaysia, 37,4% so với Thái Lan, 43,1% so với Indonesia, 57,2% so với Philippines và thậm chí với quốc gia Lào, chúng ta chỉ bằng 89,1%. Với con số này, khoảng cách năng suất lao động của người Việt là một bước lùi xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Vào thời điểm 30 năm trước, năng suất lao động của Việt Nam đứng bằng với Hàn Quốc, Trung Quốc thì nay Hàn Quốc và Trung Quốc đã vượt xa. Và cũng theo các so sánh, đánh giá của các chuyên gia, ngoài thái độ lao động thì ở các quốc gia có năng suất lao động cao là nhờ họ có nhiều sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Ví dụ, nếu dây chuyền sản xuất, máy móc chuẩn mực thì con người tham gia dây chuyền, dù có thái độ lao động lười biếng, cũng không thể được. Ngoài ra, máy móc sẽ hỗ trợ người lao động trong những khâu chuẩn xác, góp phần tạo nên năng suất lao động cao hơn. Không chỉ trong các ngành công nghiệp, ngày nay ở ngành nông nghiệp cũng có hệ thống tưới tiêu, bón phân tự động, giúp giảm lực lượng lao động và tăng năng suất lao động.

Việc ứng dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất lao động là quy luật phát triển tất yếu trong thời đại công nghiệp 4.0. Ở Việt Nam nhiều doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có giá trị kinh tế cao cũng nhờ ứng dụng khoa học công nghệ mới. Cụ thể, đề tài “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” với kinh phí 7 tỷ đồng từ Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đã giúp Công ty TNHH Chế biến dừa Lương Quới (tỉnh Bến Tre) nghiên cứu thành công quy trình chiết tách tinh dầu dừa tinh khiết với năng suất cao, đến 3.000 lít/lô sản xuất. Quy trình sản xuất này đạt tiêu chuẩn quốc tế của Hiệp hội Dừa châu Á - Thái Bình Dương. Dầu dừa tinh khiết được sản xuất theo quy trình mới có giá trị thương mại gấp 4 lần so với sản phẩm sản xuất theo công nghệ tinh luyện cũ, góp phần nâng cao chuỗi giá trị cây dừa tại địa phương. Hay Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông (Hà Nội) chế tạo thành công hệ thống chiếu sáng chuyên dụng tiết kiệm năng lượng, phù hợp với chu kỳ phát triển sinh học của một số loại cây hoa và cây ăn trái nhằm điều khiển thời gian ra hoa, kết trái, ngay cả những cây ra hoa, ra trái trái mùa. 

Đẩy nhanh ứng dụng khoa học - công nghệ

Nhìn lại ở Việt Nam, thời gian qua, việc đổi mới công nghệ chưa được các doanh nghiệp quan tâm nhiều. Vấn đề chính yếu là doanh nghiệp thường gặp khó khăn về nguồn vốn khi muốn đổi mới công nghệ. Thế nhưng những năm gần đây, các chương trình quốc gia, các quỹ phát triển khoa học và công nghệ đã tập trung nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ, giúp doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với công nghệ mới. Nhà nước cũng tạo nhiều nguồn vốn hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tăng năng suất sản xuất, sẵn sàng trong tiến trình hội nhập quốc tế.  

Đến nay, đã có nhiều chương trình khoa học và công nghệ quốc gia được Chính phủ phê duyệt nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ như: Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học - công nghệ, Chương trình tìm kiếm và chuyển giao công nghệ nước ngoài đến năm 2020… 

Ngoài ra, còn có Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia với khoản ngân sách hàng ngàn tỷ đồng. Quỹ có chức năng cho vay với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới công nghệ. Quỹ đã tiếp nhận trên 1.000 ý tưởng đổi mới công nghệ, chủ yếu từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc nhóm công nghiệp hỗ trợ, khởi nghiệp, công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao. Quỹ còn tư vấn cho các doanh nghiệp bước đầu xây dựng thành công gần 300 nhiệm vụ; tuyển chọn được 85 đề tài, dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 3.674 tỷ đồng. Trong đó, vốn do doanh nghiệp đầu tư khoảng 2.639 tỷ đồng (chiếm 72%), hỗ trợ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.035 tỷ đồng (chiếm 28%). Theo đánh giá ban đầu, mức tăng trưởng của các doanh nghiệp sẽ đạt 12% - 18%/năm sau khi thực hiện đổi mới công nghệ. 

Bộ Tài chính cũng cho biết, ngoài nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và Quỹ Phát triển khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp cũng tự trích lập các quỹ phát triển khoa học - công nghệ cho riêng mình. Năm 2017, có 31 tập đoàn, tổng công ty nhà nước lập quỹ khoa học - công nghệ với số tiền khoảng 2.276 tỷ đồng, số tiền đã sử dụng trong năm gần 1.500 tỷ đồng. Đây là tín hiệu cho thấy các doanh nghiệp đang ngày càng quan tâm đến việc đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

CHẾ HÂN

Đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động