Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan vì sao

Mục lục

  • 1 Các quan điểm về vật chất
  • 2 Ý nghĩa
  • 3 Phương thức tồn tại của vật chất
  • 4 Hình thức thức tồn tại của vật chất
  • 5 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
  • 6 Tham khảo

Định nghĩa vật chất của Lênin?

Định nghĩa vật chất của Lê nin có nội dung cụ thể như sau: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết quả của việc tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy có những nội dung được đề cập như sau:

– Thứ nhất: Vật chất là phạm trù triết học

Thông thường chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vật dụng, một tài sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

– Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan

Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.

– Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác

Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan vì sao

Phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"

23/11/2015

Bàn về phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được V.I.Lênin đưa ra trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, tác giả đã đưa ra và luận giải: 1. Bối cảnh lịch sử của quan niệm Lênin về vật chất; 2. Những định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất; 3. Những đặc tính (thuộc tính) của vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng.

Phạm trù vật chất là phạm trù cơ bản, cùng cặp với phạm trù ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhiệm vụ xác định nội dung của những phạm trù này cũng như nội dung quan niệm về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức mang ý nghĩa đặt cơ sở cho toàn bộ hệ thống lý luận duy vật biện chứng đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thực hiện xong về căn bản. Tuy nhiên, trong di sản lý luận của các ông, chủ nghĩa duy vật biện chứng, cả về hệ thống cũng như từng khái niệm, quy luật, quan điểm riêng biệt của nó, thường không được trình bày dưới hình thức lý luận thuần tuý, mà căn cứ vào những yêu cầu thực tiễn và nhận thức cụ thể, liên hệ chặt chẽ với những lý luận khác, hoặc dưới hình thức phê phán. Vì thế, trong nghiên cứu nhằm xây dựng hệ thống lý luận duy vật biện chứng đáp ứng những yêu cầu lịch sử mới, khó tránh được những thiếu sót, hạn chế, thậm chí những sai sót nhất định, do hiểu chưa thấu đáo tính lịch sử của mỗi luận điểm, quan niệm triết học của các nhà kinh điển mácxít. Việc hiểu phạm trù vật chất trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của V.I.Lênin là một trường hợp như thế. Do đó, để tiếp tục xây dựng, phát triển hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì yêu cầu đặt ra là phải hiểu chính xác các phạm trù, khái niệm, quy luật của nó do các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã phát hiện, nêu lên, trong đó có phạm trù vật chất.

Trước đây, trong các chuyên khảo, tài liệu, sách giáo khoa triết học Mác - Lênin ở Liên Xô và hiện nay, trong lời giới thiệu tập 18 của bộ Lênin toàn tập do Nxb Tiến bộ Mátxcơva ấn hành năm 1980 (tiếng Việt), trong hầu hết các sách giáo khoa triết học Mác - Lênin và những tài liệu thể hiện những nghiên cứu về phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng ở nước ta, các tác giả thường xem luận điểm của V.I.Lênin - "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"(1) - là định nghĩa kinh điển về vật chất, đồng thời phân tích nội dung định nghĩa này với các vấn đề, nội dung chính là: 1) Vật chất là một phạm trù triết học; 2) Những thuộc tính của vật chất; 3) Phương pháp định nghĩa vật chất. Vấn đề được nêu ở đây là, có phải luận điểm trên là định nghĩa duy nhất kinh điển về vật chất hay không và nên hiểu nội dung phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu trong tác phẩm của ông như thế nào?

Sau khi nghiên cứu lại tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và tìm hiểu một số tài liệu cần thiết, có liên quan, tôi thấy cần phải tiếp tục bàn luận để làm sáng tỏ hơn một số điểm trong nội dung phạm trù vật chất được trình bày trong tác phẩm nói trên của V.I.Lênin. Điều quan tâm chủ yếu của tôi ở đây là tính lịch sử của quan niệm vật chất, phạm trù vật chất của V.I.Lênin.

1. Bối cảnh lịch sử của quan niệm Lênin về vật chất

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được viết vào thời gian từ tháng Hai đến tháng Mười 1908 và được in thành sách riêng năm 1909. Tác phẩm xuất hiện trong bối cảnh lịch sử có những sự kiện nổi bật. Giai cấp tư sản ở các nước đã trở nên "phản động về mọi mặt", đã từ bỏ tính chất dân chủ của nó. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX tràn lan thứ triết học "kinh nghiệm phê phán" hay chủ nghĩa Makhơ với tham vọng đóng vai trò là triết học "duy nhất khoa học" nhưng thực ra, là một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Một số người dân chủ - xã hội tự xưng là "học trò của Mác" đã coi chủ nghĩa Makhơ có sứ mệnh thay thế triết học duy vật biện chứng của C.Mác. Một số học giả có tên tuổi đã rơi vào ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Ở Nga, ngoài những kẻ thù công khai chống giai cấp vô sản và đảng của giai cấp vô sản, còn có một số trí thức dân chủ -xã hội, gồm cả những phần tử mensêvích, đã tuyên truyền chủ nghĩa Makhơ, dùng chủ nghĩa Makhơ để xét lại chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong hoàn cảnh mà bọn giả danh mácxít, các thế lực phản động đang tung hoành, dùng chủ nghĩa Makhơ để xét lại chủ nghĩa Mác, xét lại không chỉ những nguyên lý triết học, mà cả những sách lược, nguyên tắc của đảng vô sản, nhằm phủ nhận những cơ sở lý luận của đảng, tước vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản, mưu toan biến chủ nghĩa xã hội thành một dạng tôn giáo mới, thì đó là một nguy cơ vô cùng nghiêm trọng. Đồng thời, vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã bắt đầu diễn ra một cuộc cách mạng thật sự với việc phát hiện ra tia Rơnghen (1895), hiện tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), rađium (1898). Vì thế, bức tranh vật lý cũ về thế giới đã trở nên chật hẹp. Các nhà vật lý cũ với lập trường duy vật tự phát và siêu hình không thể giải thích được những phát hiện mới của vật lý học hiện đại. Do đó, chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên rơi vào khủng hoảng, thậm chí cho rằng vật chất đã "biến mất", đã "tiêu tan".

Đây là những sự kiện lịch sử chính quy định trực tiếp những quan điểm triết học của V.I.Lênin, chủ yếu thuộc nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Cần thấy rõ sự kiện cơ bản là, chủ nghĩa duy tâm chủ quan đã lợi dụng cuộc khủng hoảng trong xã hội và trong khoa học tự nhiên để tấn công nhằm phủ nhận những quan điểm có tính nền tảng, quan điểm duy vật của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Do đó, đối tượng phê phán chủ yếu của V.I.Lênin ở đây là “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, mà nguồn gốc, cơ sở triết học cơ bản của nó là chủ nghĩa duy tâm chủ quan. V.I.Lênin đã thấy rõ yêu cầu phải bảo vệ chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhất là những nội dung, quan điểm cơ bản của nó, phải đánh trả một cách quyết liệt và hết sức thuyết phục “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” và những kẻ đồng loã của nó với những mưu đồ khoa học và chính trị - xã hội sai lầm, phản động của chúng, đồng thời góp phần khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý học, mở đường cho khoa học tiến lên. Vậy, để hiểu đúng tinh thần, nội dung và ý nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin, để hiểu thấu đáo tính lịch sử của nó thì điều rất quan trọng là phải đặt phạm trù đó vào đúng hoàn cảnh lịch sử của nó, phải chỉ ra tương quan hữu cơ của những sự kiện lịch sử nói trên với mỗi luận điểm của V.I.Lênin trong tác phẩm của ông. Chính V.I.Lênin đã dạy rằng: “Toàn bộ tinh thần chủ nghĩa Mác, toàn bộ hệ thống chủ nghĩa Mác đòi hỏi là mỗi nguyên lý phải được xem xét (a) theo quan điểm lịch sử; (b) gắn liền với những nguyên lý khác; (c) gắn liền với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử”(2). Nói cách khác, ở đây cần phải đặc biệt coi trọng quan điểm lịch sử - cụ thể trong nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin.

2. Những định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất

Trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán có nhiều luận điểm của V.I.Lênin được xem như những "định nghĩa" về vật chất. Đó là: (1) Như đã nêu ở trên; (2) "Việc thừa nhận đường lối triết học mà các nhà duy tâm và bất khả tri đã phủ nhận thì trái lại được diễn đạt bằng những định nghĩa sau đây: vật chất là cái tác động vào giác quan của chúng ta, thì gây ra cảm giác; (3) "vật chất là một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác, v.v."(3); (4) "Phái Makhơ đã rơi vào chỗ hết sức vô lý biết chừng nào, khi họ đòi hỏi những người duy vật phải đưa ra một định nghĩa về vật chất mà không được nhắc lại rằng vật chất, giới tự nhiên, tồn tại, cái vật lý đều là cái có trước, còn tinh thần, ý thức, cảm giác, cái tâm lý là cái có sau"(4); (5) "Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn: thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người, và được ý thức con người phản ánh"(5); (6) "Khái niệm vật chất không biểu hiện cái gì khác ngoài cái thực tại khách quan mà chúng ta nhận thấy được trong cảm giác"(6); v.v.. Sau khi trình bày các luận điểm (2) và (3), V.I.Lênin đã xem đây là những định nghĩa về vật chất. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay trong nhận thức lại phạm trù vật chất của V.I.Lênin là cần phải phân tích, so sánh những luận điểm về vật chất như đã nêu để xác định đâu là luận điểm thể hiện chính diện, rõ nhất và mang tính chất của một định nghĩa kinh điển về vật chất. Căn cứ vào nội dung các luận điểm đã nêu, có thể phân chia thành hai dạng hoặc hai cách định nghĩa.

Dạng định nghĩa thứ nhất bao gồm các luận điểm (1), (5) và (6). Trong nhóm này, cần tập trung phân tích luận điểm (1). Đây là luận điểm đã được rất nhiều tác giả xem là định nghĩa kinh điển, thậm chí duy nhất kinh điển.

Trong các khoa học cụ thể, chúng ta hầu như không thấy người ta định nghĩa đối tượng theo kiểu như "hình thang là một phạm trù (khái niệm) toán học dùng để chỉ...", "điện là phạm trù (khái niệm) vật lý học dùng để chỉ...", "sự sống là phạm trù sinh vật học..." hoặc "quyền là phạm trù của luật học...",v.v.. Thông thường, người ta định nghĩa đối tượng về phương diện nó là cái tồn tại hiện thực khách quan, ở bên ngoài ý thức của chủ thể. Trong khi đó, những luận điểm (1), (5), (6) như đã thấy, lại trước hết nói về nhận thức, cách thức nhận thức của chúng ta về vật chất. Cụ thể là trong luận điểm (1), mệnh đề "vật chất là một phạm trù triết học" không nhằm trực tiếp nói về vật chất với tư cách cái tồn tại hiện thực khách quan, bởi cái tồn tại khách quan ấy không thể là "phạm trù triết học" được. Vật chất với tư cách một phạm trù triết học là vật chất được quan niệm, được hiểu và là một kết quả của nhận thức triết học mang tính trừu tượng hoá, khái quát hoá cao về nó, đồng thời là vật chất với tư cách một tên gọi, một từ ngữ. Mệnh đề “vật chất là phạm trù triết học” có nghĩa là vật chất được nhận thức ở trình độ phạm trù triết học, hơn nữa là phạm trù triết học khoa học chứ không phải là một nhận thức trực quan, phiến diện về nó.

Đương nhiên, trong luận điểm của V.I.Lênin cũng đã nói đến "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", tức là nói về chính vật chất với tư cách cái tồn tại khách quan, ở bên ngoài cảm giác. Nhưng trong toàn bộ nội dung luận điểm (1), điều này chỉ nhằm giải thích cho "từ vật chất", "phạm trù vật chất" về ý nghĩa và nội dung của chúng, chứ không nhằm trực tiếp nói về vật chất với tư cách thực tại khách quan, ở bên ngoài cảm giác. Để thấy rõ hơn điều này, hãy xem quan niệm của Ph.Ăngghen.

Theo Ph.Ăngghen, trước hết "vật chất" và "vận động" cần được hiểu là tính chất chung, thuộc tính chung của mọi sự vật, mọi hình thức cụ thể của vật chất và vận động mà chúng ta có thể cảm biết được bằng các giác quan; thứ hai, vật chất và vận động là sự trừu tượng hoá, tóm tắt, hay tổng hợp từ những vật thể hữu hình, cảm tính những thuộc tính chung đó của chúng. Đó là những trừu tượng do đầu óc con người tạo ra căn cứ vào hiện thực, chúng là những vật của tư duy, chứ không phải những vật có thể cảm thấy(7). Như vậy, cần phân biệt vật chất với tư cách cái tồn tại ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và vật chất với tư cách sự nhận thức, hiểu biết của chúng ta về cái tồn tại ấy. Không có vật chất tồn tại khách quan thì cũng không có quan niệm của chúng ta về vật chất. Đương nhiên, khi bàn về quan niệm, khái niệm vật chất, chúng ta không thể bỏ qua nội dung của chúng là cái phản ánh vật chất tồn tại khách quan, nhưng không được đồng nhất nội dung ấy với bản thân vật chất.

Trong quan niệm của V.I.Lênin cũng đã thể hiện rõ điều đó. Sau khi phê phán Makhơ và những người theo thuyết bất khả tri phủ nhận thực tại khách quan, ông viết: "Nếu ta cảm thấy được thực tại khách quan, thì phải đặt cho nó một khái niệm triết học; và khái niệm này đã được xác định từ lâu, lâu lắm rồi, đó là khái niệm: vật chất"(8). Luận điểm này được viết trước khi V.I.Lênin nêu luận điểm:"Vật chất là phạm trù triết học...”. Vậy, điều này có nghĩa là, ở đây từ "vật chất" chỉ gián tiếp nói về vật chất với tư cách thực tại khách quan, nhưng lại trực tiếp nói về vật chất với tư cách cái nhận thức, cái quan niệm của chúng ta. Do đó, có thể diễn đạt khác đi cách nói của V.I.Lênin: "Phạm trù vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ...". Như thế, luận điểm ("định nghĩa") của V.I.Lênin chủ yếu nhằm giải thích cái hình ảnh chủ quan của vật chất, tức cái phản ánh; còn vật chất, tức thực tại khách quan thì ông chỉ nói đến một cách gián tiếp, nhằm giải thích cho nội dung trên. Rõ ràng, vật chất, xét về mặt hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài cảm giác và không phụ thuộc vào cảm giác, thì không thể là “phạm trù triết học..." được. Có thể thấy rõ luận điểm về vật chất nói trên cùng các luận điểm khác cùng nhóm, chủ yếu nói về điều: vật chất với tư cách một phạm trù triết học nghĩa là gì, tức là bàn về mặt nhận thức luận của nó. Vì thế, chỉ nên xem luận điểm trên của V.I.Lênin cùng những luận điểm khác như đã nêu là một trong những “định nghĩa”, cách “định nghĩa” về vật chất và trong trường hợp này, chúng là định nghĩa gián tiếp.

Vậy tại sao V.I.Lênin lại nêu một định nghĩa có tính gián tiếp và dường như rất chú ý đến việc giải thích "vật chất với tư cách là phạm trù triết học" như vậy? Câu trả lời rất rõ là, quan niệm coi “sự vật là phức hợp của các cảm giác” của chủ nghĩa Makhơ hay "chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" nói chung đã dựa trên kinh nghiệm nhằm phủ nhận "vật chất" với tư cách sản phẩm của tư duy, phủ nhận "vật chất" với tư cách một khái niệm, phạm trù của nhận thức luận (theo cách nói của V.I.Lênin), tức một phạm trù triết học, mà chỉ có dựa vào phạm trù này mới có thể hiểu được vật chất nói chung với tư cách thực tại khách quan, cái khác với những dạng, cấu trúc, thuộc tính cụ thể của vật chất. Ph.Ăngghen đã chỉ ra một đặc điểm rất đặc trưng của chủ nghĩa kinh nghiệm là: "Nhà kinh nghiệm chủ nghĩa đã đi sâu vào thói quen của nhận thức kinh nghiệm đến nỗi là khi anh ta sử dụng những trừu tượng mà vẫn tưởng rằng mình còn ở trong lĩnh vực của nhận thức cảm tính"(9). Như thế, V.I.Lênin đã xuất phát từ chính những vấn đề mà chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán nêu ra hòng bác bỏ, thay thế chủ nghĩa duy vật biện chứng bằng chủ nghĩa duy tâm chủ quan, để chống lại nó. Điều này đã thể hiện rất rõ tính lịch sử trong quan niệm của V.I.Lênin về vật chất. Rất có thể là, đối với V.I.Lênin, đó là một "định nghĩa" vật chất hết sức quan trọng, nhưng là hết sức quan trọng trong tính lịch sử của nó, căn cứ vào những yêu cầu lịch sử - cụ thể của nó, so với mục đích và nội dung cuốn sách của ông.

Dạng định nghĩa thứ hai thể hiện rõ ở các luận điểm (2), (3) và (4). Có thể thấy trong những luận điểm này có những khác nhau nhất định về nội dung. Luận điểm (2) nhấn mạnh một thuộc tính căn bản của vật chất, đó là "khi tác động vào các giác quan của chúng ta, thì gây ra cảm giác"; luận điểm (3) cho thấy đồng thời hai thuộc tính của vật chất: "một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác"; còn luận điểm (4) phân biệt thuộc tính của vật chất trong tương quan với ý thức. Tuy nhiên, đây là những luận điểm có sự bổ sung cho nhau, trong đó luận điểm (3) có nội dung rõ ràng, đầy đủ hơn. Có thể xem đây là những định nghĩa trực tiếp, chính diện về vật chất. Nó cho thấy rõ đối tượng cần xác định, cần định nghĩa là vật chất với tư cách cái tồn tại hiện thực khách quan, chứ không phải cái tồn tại trong nhận thức, trong quan niệm, không phải là cái quan niệm của chúng ta về vật chất. Đương nhiên, định nghĩa là biểu hiện bản chất đối tượng dưới hình thức chủ quan, tức là dưới hình thức các khái niệm, phạm trù về nó. Nhưng hình thức chủ quan đó không thể có nếu đối tượng không tồn tại hiện thực, nếu nó không cho chúng ta khả năng hình dung, nhận thức ra đối tượng. Cho nên, rất rõ là, nếu trong hiện thực không tồn tại thuộc tính chung của tất cả các dạng vật chất, thuộc tính tồn tại khách quan và được đem lại cho con người trong cảm giác, thì chúng ta cũng không thể có từ "vật chất" và khái niệm (phạm trù) "vật chất" với tư cách những sản phẩm của tư duy.

Như vậy là, V.I.Lênin đã nêu ra những chứ không phải một định nghĩa về vật chất trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Mỗi định nghĩa ấy đều có những căn cứ, nguồn gốc thực tiễn và nhận thức, có nội dung xác định của nó, chứ không phải ngẫu nhiên, tuỳ tiện. Theo tôi, cần phân chia những định nghĩa đó của V.I.Lênin ít nhất thành hai dạng hay hai cách định nghĩa, đó là định nghĩa trực tiếp và định nghĩa gián tiếp. Định nghĩa trực tiếp là định nghĩa chính diện đối tượng, là định nghĩa về tồn tại hiện thực khách quan của nó. Đây là cách định nghĩa phổ biến, thông dụng mà chúng ta có thể thấy trong các khoa học. Có lẽ, ở đây cần phải nhấn mạnh một kinh nghiệm ngàn đời của khoa học, và không chỉ là kinh nghiệm, mà còn là lôgíc, là lý luận và thực tiễn, rằng một định nghĩa, khái niệm (phạm trù) khoa học trước hết phải xác định một cách trực tiếp bản chất của chính đối tượng. Còn định nghĩa gián tiếp là định nghĩa không chính diện, là định nghĩa mà chủ thể có thể không nhằm trực tiếp nói về đối tượng, mà chỉ dựa vào đó để nói về cái khác, cụ thể là trong luận điểm (1), V.I.Lênin nói về vật chất hiện thực để nhằm nói về cái nhận thức, về khái niệm của nó. Vậy rốt cuộc, nên lấy định nghĩa nào của V.I.Lênin làm định nghĩa "chuẩn", định nghĩa có tính kinh điển về vật chất, phải chăng đó là định nghĩa: "Vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác"? Định nghĩa này tự nó đã nói lên rằng, ở đây, vật chất được nhận thức dưới hình thức một phạm trù triết học, hơn nữa là phạm trù triết học duy vật biện chứng, vì chỉ có chủ nghĩa duy vật biện chứng mới định nghĩa vật chất như vậy. Có thể thấy hầu hết các tài liệu nghiên cứu quan niệm của V.I.Lênin về vật chất cũng đã trích dẫn những luận điểm (2) và (3) nói trên, nhưng lại xem đây là những luận điểm để minh hoạ, nhằm làm rõ hơn nội dung luận điểm mà theo tôi là định nghĩa gián tiếp như đã nói.

3. Những đặc tính (thuộc tính) của vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng

Trước hết, cần phải hiểu rằng, phạm trù (khái niệm) là hình thức của tư duy phản ánh bản chất hay thuộc tính căn bản, phổ biến của đối tượng. Vậy, trong phạm trù vật chất, V.I.Lênin đã xác định những thuộc tính căn bản, phổ biến nào của vật chất? Trong những tài liệu nghiên cứu về phạm trù vật chất thường có hai nhận thức về thuộc tính căn bản, phổ biến của vật chất. Nhận thức thứ nhất cho rằng, vật chất chỉ có một thuộc tính, đó là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác...". Nhận thức thứ hai cho rằng, vật chất có những (hai) thuộc tính: 1) "tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào cảm giác"; 2) "được đem lại cho con người trong cảm giác". Vậy, vật chất có hai, hay chỉ có một thuộc tính căn bản, phổ biến?

V.I.Lênin viết: "Vì "đặc tính" duy nhất của vật chất - mà chủ nghĩa duy vật triết học là gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở bên ngoài ý thức của chúng ta"(10). Nhưng trong các luận điểm khác, ông lại nói: "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại..." và "vật chất là những cái mà khi tác động vào các giác quan chúng ta, thì gây ra cảm giác"(Chúng tôi nhấn mạnh - P.V.C), nghĩa là ông đã cho thấy một thuộc tính nữa của vật chất? Rõ ràng, "tồn tại khách quan, ở bên ngoài cảm giác" và "được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại..." là hai thuộc tính khác nhau, phân biệt nhau rất rõ của vật chất. Ở đây, chúng ta cần tập trung bàn luận về thuộc tính thứ nhất.

Tại sao V.I.Lênin lại khẳng định “đặc tính” duy nhất của vật chất là đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan? Phải chăng, ông muốn phủ nhận những thuộc tính khác hoặc cho rằng, ngoài thuộc tính đó ra, vật chất không còn thuộc tính nào khác? Theo tôi, có lẽ sự khẳng định của V.I.Lênin là nhằm nhấn mạnh, xác định thật rõ và dứt khoát bản chất của chủ nghĩa duy vật triết học mácxít, sự đối lập căn bản giữa nó và chủ nghĩa duy tâm, là ở chỗ thừa nhận đặc tính này của vật chất, đặc tính tồn tại khách quan, ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, chứ không có nghĩa là ông muốn loại bỏ thuộc tính khác của nó. Vì thế, không nên tuyệt đối hoá luận điểm này và bỏ qua các luận điểm khác, bỏ qua toàn bộ nội dung cuốn sách của V.I.Lênin và cũng không nên chỉ căn cứ vào hình thức ngôn từ của luận điểm này, bởi điều đó có thể đi đến chỗ cho rằng dường như quan điểm của V.I.Lênin thể hiện tính không chặt chẽ, không nhất quán và chứa đựng mâu thuẫn.

Theo Trần Đức Thảo thì luận điểm của V.I.Lênin - "Vì "đặc tính" duy nhất của vật chất - mà chủ nghĩa duy vật triết học là gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở bên ngoài ý thức của chúng ta" - là nói về vật chất với tư cách "thực tại khách quan" hay là có "tính thực tại khách quan", nghĩa là nói về tồn tại của vật chất, chứ không phải nói về thuộc tính của nó. Theo ông, điều này thể hiện ở chỗ V.I.Lênin đã đánh dấu "... " (nháy nháy) vào từ đặc tính ("đặc tính"). Trần Đức Thảo giải thích: "Tính thực tại khách quan là một điều quy định căn bản của vật chất, nhưng nó không có nội dung của một thuộc tính, vì nó không quy định gì về nội dung của vật chất. Vì đối phương (tức những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán - P.V.C) đòi hỏi một thuộc tính chắc chắn, không thì họ cho là "vật chất biến mất", nên V.I.Lênin đã nêu lên cái tính thực tại khách quan là "thuộc tính" không thể chối cãi của vật chất, mà chủ nghĩa duy vật cũng chỉ cần công nhận như thế là đủ"(11). Đây là vấn đề cần phải thảo luận. Có phải tinh thần luận điểm của V.I.Lênin đúng là như vậy không?

Thực ra, trong luận điểm ở trang 321 của tác phẩm, từ "đặc tính" của vật chất được đặt trong "nháy nháy" không hàm ý phủ nhận thuộc tính (đặc tính) của vật chất, mà muốn nhấn mạnh rằng, đây là đặc tính (thuộc tính) của vật chất do triết học - chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm, hay được hiểu trong phạm vi nhận thức luận như V.I.Lênin thường nói. Đặc tính này không như những "đặc tính của vật chất, trước đây được coi là tuyệt đối, bất biến, đầu tiên (tính không thể thâm nhập được, quán tính, khối lượng, v.v.) đang tiêu tan và bây giờ đây tỏ ra là tương đối và chỉ là đặc tính vốn có của một số trạng thái nào đó của vật chất"(12), tức là những đặc tính do khoa học cụ thể (vật lý học) hoặc chủ nghĩa duy vật siêu hình quan niệm; trái lại, là đặc tính chung của vật chất, được khái quát, tổng hợp từ những dạng vật chất cụ thể. Đây là tính lôgíc, nhất quán trong lập luận của V.I.Lênin. Trong luận điểm này, ông muốn chỉ ra rằng, những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán không thể nào hiểu được đặc tính chung cơ bản của vật chất, một đặc tính được vạch ra trong phạm vi vấn đề cơ bản của triết học, một đặc tính mà chỉ có tư duy, hơn nữa là tư duy triết học mang tính trừu tượng hoá, khái quát hoá khoa học rất cao mới nhận thức được. Trong khi đó, tất cả những hiểu biết về vật chất của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật siêu hình và của cả những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, về cơ bản chỉ giới hạn ở kinh nghiệm, ở cảm giác, gắn liền với những dạng vật chất cụ thể, hoàn toàn không hiểu được vật chất dưới hình thức trừu tượng nhất của nó. Tại sao lại không coi "cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức của chúng ta" là một đặc tính, hơn nữa là đặc tính chung, cơ bản nhất của vật chất? "Tồn tại với tư cách là thực tại khách quan" có nghĩa là gì? Đó là tồn tại thực sự ở bên ngoài cảm giác, bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào chúng. Đặc tính này biểu hiện rõ sự đối lập, khác biệt căn bản giữa vật chất và ý thức và đó là một đặc tính không thể phủ nhận được của mọi dạng vật chất, do đó của thế giới vật chất nói chung. Cho nên, cần hiểu quan điểm của V.I.Lênin coi đặc tính tồn tại với tư cách thực tại khách quan là "đặc tính" duy nhất của vật chất là nhằm nhấn mạnh thuộc tính cơ bản nhất của nó, là quan điểm thể hiện rõ bản chất của chủ nghĩa duy vật khoa học (chủ nghĩa duy vật biện chứng), nhằm phân biệt rõ vật chất là cái có trước, cái quyết định so với ý thức là cái có sau, cái bị quyết định.

Như vậy, vật chất có hai thuộc tính căn bản, phổ biến: thứ nhất, tồn tại với tư cách thực tại khách quan, tức là tồn tại ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức; thứ hai, được đem lại cho con người trong cảm giác. Trong định nghĩa vật chất không thể loại bỏ một trong hai thuộc tính này, vì chúng thể hiện rõ hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học được giải đáp theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đặc tính tồn tại ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và đặc tính được đem lại cho con người trong cảm giác chính là những đặc tính của vật chất được chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm, khái quát hoá, nhằm mục đích chỉ rõ sự đối lập, sự khác nhau cơ bản giữa vật chất và ý thức. Ngoài giới hạn đó ra thì khó có thể thừa nhận và hiểu đúng những thuộc tính này. Đồng thời, phải thấy rằng, cả ở đây nữa, khi xác định những thuộc tính cơ bản, phổ biến của vật chất, V.I.Lênin đã gắn liền với cuộc đấu tranh chống “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, với cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên và với việc giải thích những phát hiện mới của vật lý học. Vì vậy, tính lịch sử trong những lập luận của ông cũng hết sức rõ ràng. Không có tính lịch sử sao được, khi mà nhiệm vụ đặt ra trước hết là phải thể hiện rõ ràng, dứt khoát sự đối lập về nguyên tắc giữa quan điểm duy vật (biện chứng) với quan điểm duy tâm, do đó phải khẳng định “đặc tính” duy nhất của vật chất là “đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”, và tiếp đó, để chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán - một hình thức mới của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, thì không thể không giải thích rõ ràng nguồn gốc, bản chất của những cảm giác của chúng ta. Cuối cùng, để cho các nhà khoa học tự nhiên có thể hiểu được phạm trù triết học về vật chất thì không thể không chứng minh nó cả về nội dung khách quan, tức là vạch ra những đặc tính chung của vật chất, lẫn hình thức của nó với tư cách sản phẩm của tư duy trừu tượng cao, tức tư duy duy vật biện chứng.

Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta khi nghiên cứu phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là phải hiểu rõ tính lịch sử của nó. Rõ ràng, ở đây, V.I.Lênin không định viết một cuốn sách giáo khoa về Triết học Mác - Chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà trái lại, những quan niệm, luận điểm được ông nêu ra, xét về nội dung, cách thức thể hiện, ngôn ngữ được sử dụng, luôn phù hợp với yêu cầu lịch sử, với đối tượng mà ông phê phán. Tuy vậy, việc coi trọng quan điểm lịch sử trong nghiên cứu phạm trù vật chất của V.I.Lênin không đồng nghĩa với “chủ nghĩa lịch sử”. Dưới những hình thức lịch sử - cụ thể, sinh động của nó, những luận điểm của V.I.Lênin về vật chất chứa đựng cả những nội dung, giá trị khoa học phổ biến, trong khi đó thì việc xây dựng một hệ thống quan niệm lý luận khoa học về vật chất lại đòi hỏi phải “thoát ra” khỏi những hình thức lịch sử - cụ thể, sinh động ấy. Vì thế, khi nghiên cứu phạm trù vật chất trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán nhằm xây dựng một quan niệm lý luận khoa học về vật chất, cần phải phân biệt nội dung, ý nghĩa khoa học phổ biến với ý nghĩa và hình thức lịch sử của nó và một nhiệm vụ khác đặt ra cho chúng ta ở đây là phải tìm ra những khả năng, phương án hoàn chỉnh hơn những định nghĩa về vật chất trong bối cảnh lịch sử hiện nay.

(*) Tiến sĩ, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

(1) V.I. Lênin. Toàn tập, t.18. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 151.

(2) V.I.Lênin. Sđd., t.49, tr. 446.

(3) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr. 171.

(4) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr. 172.

(5) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr. 322.

(6) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr. 329.

(7) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 726-727.

(8) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr. 151.

(9) C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd., t.20, tr. 726.

(10) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.321.

(11) Trần Đức Thảo. Nội dung vấn đề bản chất của thế giới (Tài liệu TL 411, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, tr. 33).

(12) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr. 321.



Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan vì sao
Bình luận

Quan điểm của V.I.Lênin về vật chất trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”

06:46 09/04/2020

V.I.Lênin (1870-1924) – lãnh tụ vĩ đại của nước Nga và thế giới, người có công lao to lớn trong việc trong việc tiếp tục bổ sung, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” với việc đưa ra định nghĩa kinh điển về “vật chất” đã đánh dấu công lao to lớn ấy của V.I.Lênin đối với lịch sử và thời đại ngày nay.
  • Phê phán quan điểm đối lập, tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
  • Không thể phủ nhận thành quả phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
  • Một số vấn đề về “Nhà nước kiến tạo phát triển” với khát vọng Việt Nam thịnh vượng

Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan vì sao

Từ khóa:V.I.Lênin; vật chất; chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán

1. Đặt vấn đề

Bắt đầu từ thời kỳ cổ đại (ở phương Đông lẫn phương Tây) đến thời kỳ cận đại ở Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, các nhà triết học đã đưa ra nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về phạm trù “vật chất”. Song, định nghĩa vật chất được V.I.Lênin đưa ra là một định nghĩa hoàn chỉnh nhất, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Định nghĩa đã khắc phục toàn bộ sai lầm của các nhà triết học duy tâm, siêu hình khi bàn về vật chất, ở chỗ họ thường đồng nhất vật chất với dạng biểu hiện cụ thể của vật chất là “vật thể”. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, việc nhận thức rõ quan điểm của V.I.Lênin về vật chất là việc làm cần thiết, giúp chúng ta đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên tạc quan điểm của V.I.Lênin về vật chất nói riêng, bảo vệ quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung góp phần vào nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong tình hình mới.

2. Vài nét về tác giả và tác phẩm

V.I.Lênin (1870 – 1924) – nhà lý luận thiên tài, người lãnh đạo của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới, người tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại mới. Ông sinh ngày 22/04/1870 ởSimbirsk(nay là thành phốUlyanovsk) nước Nga, trong một gia đình trung lưu. Năm 17 tuổi (1887), sau khi tốt nghiệp trung học, V.I.Lênin vào học tại khoa Luật trường Đại học Cadan, sau đó bị bắt và lưu đày do hoạt động chống chế độ Sa Hoàng. Tại đây, ông bắt đầu làm quen với tư tưởng dân chủ cách mạng Nga của N.G. Tsécnưsépxki. Sau khi mãn hạn tù, ông tham gia vào nhóm cách mạng của N.E. phêđôxêép (phiên âm Tiếng Việt), bắt đầu nghiên cứu “bộ tư bản” của Mác – Ăngghen và tư tưởng của Plêkhanốp. Năm 1889, ông thi vào ngành luật trường Xanh Pê-téc-bua (Saint Petersburg), tiếp tục nghiên cứu các tác phẩm của C.Mác- Ph.Ăngghen, hoạt động cách mạng, trở thành người lãnh đạo của nhóm mácxít tại đây.

Bắt đầu sự nghiệp triết học của mình, V.I.Lênin viết tác phẩm đầu tay của mình với tên: “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, một bản tuyên ngôn của những người cộng sản mácxít Nga, mở đầu cho quá trình đấu tranh chống các thế lực chủ nghĩa cơ hội, cải lương chống chủ nghĩa Mác để bảo vệ, bổ sung và phát triển học thuyết Mác. Ngoài ra, trong suốt thời gian hoạt động cách mạng của mình, V.I.Lênin đã viết rất nhiều tác phẩm khác, có giá trị lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga, xây dựng Nhà nước xô viết đầu tiên trên thế giới tiến tới xây dựng hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới như: Làm gì (1902); Một bước tiến hai bước lùi (1904); Hai sách lược của đảng dân chủ - xã hội Nga (1905); Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909); Bút ký triết học; Nhà nước và cách mạng (1917)...

Tác phẩm“chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” là một tác phẩm luận chiến của V.I.Lênin, thể hiện sự kiên định lập trường mácxít trong những thời điểm đầy thách thức, khó khăn của cách mạng Nga, nước Nga dưới sự đàn áp của chế độ Sa Hoàng. Tác phẩm thể hiện sự đóng góp lớn của Lênin vào sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; trang bị cho người mácxít một nền tảng lý luận khoa học, giúp định hướng thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn và nhận thức. Đặc biệt, tác phẩm đã chứng minh rằng cuộc tranh luận giữa hai trường phái duy vật và duy tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại sẽ đi đến hồi kết với sự ra đời của một định nghĩa kinh điển – định nghĩa “vật chất” mở toang cánh cửa khoa học, những nhận định mới về vật chất đã bị khóa và hiểu sai trong suốt gần 20 thế kỷ qua.

3. Bối cảnh cho sự ra đời định nghĩa Vật chất của V.I.Lênin

Vật chất với tính cách là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp ở thời kỳ cổ đại, chứng kiến cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa hai trường phái duy vật và duy tâm xoay quanh vấn đề bản nguyên của thế giới với các đại biểu như: Heraclit, Anaximen, Talet, Paton... Xung quanh khái niệm vật chất, trong lịch sử triết học đã xuất hiện cuộc tranh luận rất gay gắt giữa hai đường lối “Democrit” và “Platon”, trung tâm điển hình của cuộc tranh luận là vấn đề bản nguyên của thế giới, “thế giới bắt đầu từ đâu và quay trở về đâu? Nhìn chung các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể của vật chất (lửa, nước, không khí,...), nổi bật là học thuyết nguyên tử của Democrit (nguyên tử nhỏ bé nhất không phân chia được), mãi cho đến thời kỳ cận đại, các nhà triết học vẫn đinh ninh rằng như thế cho đến khi phát hiện ra electron.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra cuộc khủng hoảng vật lý học, trước bối cảnh đó, V.I.Lênin bắt đầu tìm hiểu các phát minh khoa học, nhất là trong lĩnh vực vật lý, bản chất và ý nghĩa của nó đối với tiến bộ xã hội, cũng như những khó khăn nan giải của vật lý học trong quá trình giải thích thế giới. Việc giải quyết khủng hoảng này, được xem như một cuộc cách mạng, nó đã làm thay đổi những quan niệm về thế giới vật chất? V.I.Lênin viết: “Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri. “Vật chất đã tiêu tan”, - người ta có thể dùng câu nói đó để diễn đạt cái khó khăn cơ bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt, khó khăn đã gây ra cuộc khủng hoảng ấy”.

Nguồn gốc sâu xa của cuộc khủng hoảng thế giới quan là ở cách lý giải vật chất, cách đặt vấn đề về “viên gạch đầu tiên” của vũ trụ, về cái bản nguyên, và đồng nhất thế giới vật chất với cái bản nguyên đại diện cho khoa học của mỗi thời đại tìm ra. Như vậy, sai lầm chính của chủ nghĩa Makhơ, cũng như vật lý học mới, theo V.I.Lênin, là ở chỗ không tính đến luận điểm của chủ nghĩa duy vật về tính chất cơ bản nhất của vật chất, sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính vì lẽ đó, để kết thúc cho việc tranh luận rất dài xoay quan vấn đề khủng hoảng vật lý học với những người theo chủ nghĩa Makhơ, đã gợi ra vấn đề cực kỳ quan trọng – xác lập một cách hiểu khác với trước đây về phạm trù “vật chất” để tránh những nan giải và sự bế tắc trước những thay đổi trong khoa học về thực tại vật chất. Theo ông, Phạm trù vật chất phải là phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến nay, nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. Định nghĩa vật chất bằng cách đối lập nó với ý thức, xác định nó “là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây ra cảm giác”. V.I.Lênin khẳng định vật chất không có nghĩa gì khác hơn là “thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”.

4. Nội dung quan điểm của V.I.Lênin về vật chất

Khắc phục những sai lầm được phân tích ở trên, V.I. Lênin nhận thấy phần lớn các nhà duy vật đồng nhất vật chất với vật thể, tức những biểu hiện cụ thể của tồn tại vật chất, mà không đạt tới cách hiểu hệ thống và mang tính khái quát cao về vật chất. Kết quả là họ luôn bị rơi vào trạng thái hụt hẫng mỗi khi khoa học tự nhiên khám phá ra những vấn đề mới của thế giới. V.I.Lênin viết: “Vật chất là một phạm trù triết học, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Ở đây cần thấy rằng, phạm trù vật chất là phạm trù trung tâm trong lý luận nhận thức (hiểu theo nghĩa rộng). Thế giới vật chất là vô hạn bao gồm các quá trình khác nhau của vật chất, nhưng các quá trình là những dạng biểu hiện khác nhau của vật chất. Do đó không nên lẫn lộn học thuyết khoa học cụ thể về cấu tạo vật chất, các thuộc tính, các hình thức của nó với quan niệm triết học về vật chất, bởi lẽ đây là khái niệm chung nhất, không phân tích chi tiết, mang tính chuyên biệt như các khoa học cụ thể khác.

Ở định nghĩa này, Lênin chỉ rõ, khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận, cái quan trọng để nhận biết nó chính làthuộc tính khách quan.Khách quan, theo ông, đó là “cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”– đó là quan điểm của khoa học tự nhiên. Trong đời sống xã hội, “khách quan không phải theo ý nghĩa là một xã hội những sinh vật có ý thức, những con người, có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật có ý thức(...), mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. “Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có ý nghĩa gì khác hơn: thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”.

Từ định nghĩa trên, có thể đề cập mấy đặc trưng sau:

Đặc trưng thứ nhất,vật chất là một phạm trù triết học. Đặc trưng rất quan trọng đối với việc giải quyết cho thắc mắc, bất cập trong bài viết này. Bởi lẽ, nếu không hiểu thấu được ý này sẽ không triển khai được nó trong thực tiễn.

Trước tiên, cần hiểu đây là “phạm trù” (là những khái niệm chung nhất, rộng nhất, phán ánh những mặt, những mối liên hệ bản chất của các sự vật trọng tự nhiên, xã hội và tư duy). Là một khái niệm rộng nhất trong những khái niệm rộng của các khoa học cụ thể. Chẳng hạn như: nó rộng hơn cả khái niệm toán học bao gồm nhiều khái niệm như tích phân, đạo hàm, đoạn thẳng, hình tam giác...Vì thế nên, không nên đánh đồng nó với một kết cấu vật chất của khoa học cụ thể. Theo đó, vật chất với tư cách là một phạm trù của triết học sẽ khác với một dạng vật chất thông thường tồn tại trong xã hội, tự nhiên hay tư duy. Đây là vật chất nói chung, trừu tượng mang tính khái quát cao. Chính theo V.I.Lênin, “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến nay, nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. Cái mà chúng ta thấy hằng ngày, cảm tính hàng ngày gọi là “vật thể” mà thôi.

Đặc trưng thứ hai, thừa nhận rằng có một thực tại khách quan, được đem đến cho chúng ta trong cảm giác; không có và không thể có cái nào khác ngoài thực tại khách quan ấy. Tức tồn tại độc lập, tương đối với ý thức con người, đối lập với chủ quan, chúng ta có thể nhận thức được chúng thông qua sự phản ánh “chép lại, chụp lại” một cách năng động, sáng tạo của ý thức thông qua hệ thống các giác quan của con người. Tức những gì tồn tại một cách chủ quan, bên ngoài ý thức của con người, con người không thể nhận thức được, thì đó không được gọi là vật chất. Mặc khác, phải được thông qua sự phản ánh năng động sáng tạo của hệ thống các giác quan của con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mới tạo ra quá trình nhận thức đúng đắn về sự vật và hiện tượng.

Đặc trưng thứ ba, khẳng định rằng, nói đến vật chất là nói đến thực tại tồn tại bên ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Chỉ ra rằng vật chất, được đem đến cho chúng ta trong cảm giác, các cảm giác là nguồn gốc của nhận thức.

Đặc trưng thứ tư, qua cách hiểu về vật chất, V.I.Lênin đến kết luận về tính có thể nhận thức được của thế giới, qua đó chống lại thuyết bất khả tri. Điều cần lưu ý ở đây, không phải mọi hiện tượng vật chất tác động lên giác quan của con người đều được con người nhận biết một cách trực tiếp. Trong tự nhiên có khá nhiều quá trình vật chất mà con người chỉ nhận biết được thông qua các công cụ và các phương pháp đặc thù của các khoa học.

Như vậy, Định nghĩa vật chất đơn giản là sự thể hiện việc giải quyết trên cơ sở duy vật vấn đề cơ bản của triết học, và rằng sẽ vô nghĩa nếu đòi hỏi từ các nhà lý luận “một sự định nghĩa vật chất mà không quy về việc lặp lại cái có trước – cái có sau”. Để khắc họa thêm định nghĩa vật chất, trong tác phẩm, Lênin còn đề cập đến vai trò của vật chất đối với ý thức, cũng như tính độc lập tương đối của ý thức đối với vật chất, thể hiện tính biện chứng sâu sắc. Cũng theo Lênin, vật chất phải được tồn tại trong một khoảng không gian nhất định và một khoảng thời gian xác định. Khi bác bỏ những quan điểm sai lầm và vô lý của phái Makhơ – không gian và thời gian chỉ là hình thức trực quan của con người, sự của cảm thức không gian – thời gian xét từ góc độ thời tính của sự tồn tại của con người, “không gian và thời gian là những hệ thống...trật tự của các chuổi cảm giác”, “theo Makhơ thì không phải con người với những cảm giác của mình, tồn tại trong không gian và thời gian, mà chính không gian và thời gian tồn tại trong con người, lệ thuộc vào con người và do con người sinh ra”. Ở đây, Makhơ đã rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, duy tâm, khái niệm không gian được rút ra từ kinh nghiệm chứ không phản ánh đúng thực tại khách quan, chính thực tại có mặt hàng triệu năm trước khi có con người. V.I.Lênin nhấn mạnh tính chất của không gian có tính ba chiều, ông viết: “khoa học tự nhiên không nghi ngờ gì rằng vật chất mà nó nghiên cứu chỉ tồn tại trong không gian ba chiều thôi, và do đó, những phần tử của vật chất đó dù nhỏ bé đến mức ta không thể nhìn thấy được, cũng vẫn tồn tại một cách tất yếu trong cái không gian ba chiều đó”.Thuyết tương đối thế kỷ XX đã chứng minh cho tính chất lệ thuộc của không gian và thời gian vào vật chất đang vận động và mối liên hệ giữa chúng, thời gian không tách khỏi không gian, thể hiện tính vô tận, vĩnh viễn bao gồm tính gián đoạn và liên tục.

Với những nội dung nêu trên, định nghĩa vật chất có những ý nghĩa to lớn:

Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. V.I.Lênin thừa nhận rằng, trong nhận thức luận,vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh...Lênin muốn nhấn mạnh rằng, bằng những phương thức nhận thức khác nhau (chép...) con người có thể nhận thức được thế giới. Như vậy, đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thờikhắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình – máy móc về vật chất. Không có một dạng cụ thể cảm tính nào của vật chất hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất. Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được.

Ngoài điều nói trên, định nghĩa vật chất còn có ý nghĩa định hướng với các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của của vật thể trong thế giới. Cho phép xác định cái gì làvật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa làm được. Đồng thời, giúp cho các nhà khoa học giải thích nguyên nhân của những biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở đó tìm ra phương pháp tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.

5. Vài điểm kết

Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ra đời chấm dứt quá trình khủng hoảng của vật lý học thế kỷ XX, có tác dụng định hướng đối với các nhà khoa học tự nhiên trên cơ sở nhận thức luận duy vật biện chứng. Với định nghĩa vật chất, một lần nữa, Lênin đã khắc phục toàn bộ sai lầm của các nhà triết học trước Mác, siêu hình lẫn duy tâm về vật chất và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Xoay quanh vấn đề vật chất, Lênin đã thể hiện tinh thần mácxít khi đã bày tỏ những quan điểm chính xác của mình để đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm vật lý học đứng đầu là chủ nghĩa Makhơ, góp phần bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác. Tóm lại, nghiên cứu định nghĩa vật chất của V.I.Lênin trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, giúp chúng ta khắc sâu và sáng tỏ hơn trong việc nghiên cứu học tập và giảng dạy triết học hiện nay, trong bối cảnh thế giới và trong nước có những diễn biến mới, đối với việc tiếp tục nghiên cứu bổ sung lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin sao cho phù hợp với thực tế Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

1. Doãn Chính – Đinh Ngọc Thạch, Vấn đề triết học trong các tác phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.496-523.

2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Tr.174-183.

3. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980.

ThS. Lê Hữu Lợi -Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

Phạm trù vật chất

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Ngay từ thời cổ đại, chung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người.

Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ được quan niệm là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy thì chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới; thực thể của thế giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc tính của chứng.

Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học duy vật quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản sinh ra vũ trụ. Thời cổ đại, phái ngũ hành ở Trung Quốc quan niệm vật chất là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ở Hy Lạp, phái Milet cho rằng đầu tiên ấy đơn thuần là nước, không khí, lửa, nguyên tử…Cho đến thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất như trên của các nhà duy vật cơ bản vẫn không có gì khác tuy hình thức diễn đạt có thể khác đi ít nhiều.

Với quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản sinh ra vũ trụ chứng tỏ các nhà duy vật trước Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể. Việc đồng nhất này là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong nhận thức: không hiểu được bản chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa vật chất với ý thức; không có cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội. Hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để: khi giải quyết những vấn đề tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề xã hội họ lại trượt qua chủ nghĩa duy tâm.

Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những phát minh của W. Roentgen, H. Becquerel, J.J. Thomson…đã bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới.

Trong bối cảnh lịch sử đó, Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, ông đã vạch rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:

“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

Theo định nghĩa của Lênin về vật chất:

– Cần phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

– Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

– Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:

– Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

– Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan.