Ưu và nhược điểm của các nguồn tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước

Đề tài: Phân tích ưu, nhược điểm của các biện pháp xử lý thâm hụt ngân sách trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay

Đề tài: Phân tích ưu, nhược điểm của các biện pháp xử lý thâm hụt ngân sách trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay trình bày tổng quan về thâm hụt ngân sách, thực trạng thâm hụt và các biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách. » Xem thêm » Thu gọn Chủ đề:

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Đề tài 2: Phân tích ưu, nhược điểm của các biện pháp xử lý thâm h ụt ngân sách trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay Thành viên: Trần Ngọc Diệp Nguyễn Thu Hương Phạm Thị Thùy Dung I. Thâm hụt ngân sách 1. Các khái niệm - Ngân sách nhà nước: là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được th ực hi ện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước (Luật Ngân sách Nhà nước CHXHCN Việt Nam). - Thâm hụt ngân sách: Thâm hụt ngân sách nhà nước là tình trạng các khoản thu ngân sách nhỏ hơn các khoản chi. Thâm hụt ngân sách được thể hiện bằng tỉ lệ phần trăm so với GDP (khi tính người ta thường tách riêng các khoản thu mang tính hoán trả trực tiếp như viện trợ, vay nợ ra khỏi số thu thường xuyên và coi đó là nguồn tài trợ cho thâm hụt ngân sách). B=T-G B < 0 :Thâm hụt ngân sách (B là hiệu số giữa thu và chi) Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của quản lý ngân sách nhà nước là đảm bảo sự cân đối giũa thu và chi. Tuy nhiên do khả năng nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm, thời kỳ vừa qua (1976 đến nay) các nhu c ầu chi l ại tăng nhanh nên ngân sách nhà nước mới bội chi kinh niên.Thâm hụt ngân sách cũng là hiện tượng phổ biến ở các quốc gia trên toàn thế giới Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. -Thâm hụt ngân sách cơ cấu cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,... 1
  2. -Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên. 2. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong nh ững năm qua Giai đoạn trước năm 1986, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình trạng cao quá mức, thu ngân sách không đủ bù đắp cho chi th ường xuyên, chi tiêu của Chính phủ Việt Nam phải dựa chủ yếu vào sự viện trợ của nước ngoài, đặc biệt là Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Sang giai đoạn 1986-1990, trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta ti ến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ ch ế kế hoạch hoá t ập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. V ới những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm h ụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Giai đoạn 1991-1995, cơ cấu chi ngân sách đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nuớc đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã ch ấm d ứt. Trong giai đoạn này chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Năm                                  1991     1992    1993     1994    1995 Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP        1,4%     1,5%    3,9%     2,2%    4,17% Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là r ất thấp (bình quân 2,63%) thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính ph ủ trong thời kỳ 1991-1995 và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp ph ần ki ềm chế lạm phát. Giai đoạn 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhi ều chuy ển bi ến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đ ầu t ư phát tri ển, 2
  3. thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn 1996 - 2000 do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bị giảm dần từ 1996 đến 1999 và đến năm 2000 tốc độ này mới tăng lên chút ít, ch ặn đứng đà giảm sút. Năm                                1996    1997     1998    1999    2000 Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP      3%      4,05% 2,49% 4,37% 4,95% Giai đoạn 2001-2010: trong những năm gần đây, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%. T ốc đ ộ tăng chi bình quân hàng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP. Đơn vị tính: Tỷ Đồng Số Bội chi          Bội chi so với GDP Năm 200           25.885                    4,67% 1 200           25.597                    4,96% 2 200           29.936                    4,9% 3 200           34.703                    4,85% 4 200           40.746                    4,86% 5 200           48.500                     5% 6 200           56.500                     5% 7 200           66.200                    4,95% 8 200          142.355                    6,9% 9 201          119.700                    6,2% 3
  4. 0 Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là thành tựu đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này đă góp phần to lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những năm 80. Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của nh ững bi ện pháp c ứng rắn như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ c ấp qua giá, lương, trợ cấp cho xí nghiệp quốc doanh Nhiều năm thâm h ụt gi ảm xu ống dưới 5% so với GDP  một kết quả đáng khích lệ. II. Các biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách 1.Phát hành tiền a. Giới thiệu phương pháp Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có th ể tài trợ số thâm h ụt của mình bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh tế đất nước suy thoái.Khi sản lượng th ực tế th ấp h ơn m ức s ản lượng tiềm năng thì việc tài trợ số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực hiện những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tế thông qua việc đưa nền kinh tế tiến đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm phát. Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế cao hơn mức sản lượng tiềm năng ) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm hụt của mình bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như v ậy s ẽ càng 4
  5. kích tổng cầu lên cao và đẩy sản lượng thực tế vượt xa m ức s ản l ượng ti ềm năng,hậu quả là làm tăng lạm phát . b. Thực trạng phát hành tiền bù đắp thâm hụt ở nước ta Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta vô cùng yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình trạng cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Tuy nhiên, mức thâm hụt quá lớn khi ến vi ệc bù đ ắp thâm h ụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Đơn vị: tỷ đồng Phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách Năm 1984                                   0,4 1985                                   9,3 1986                                   22,9 1987                                   89,1 1988                                   450 1989                                  1.655 1990                                  1.200 5
  6. Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm h ụt của Ngân sách nhà nước được hệ thống ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Trong bối cảnh mà tỷ lệ tích lũy nội bộ của nền kinh t ế còn rất th ấp (có th ể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn, tỷ lệ chi đầu tư phát triển lại quá lớn và nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách lại chủ yếu do phát hành tiền nh ư trên chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đ ến l ạm phát phi mã trong giai đoạn 1986-1990. c. Ưu nhược điểm - Ưu điểm: Nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần. - Nhược điểm: Tài trợ thâm hụt ngân sách theo phương pháp này thì xu hướng sẽ tạo ra một tổng cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tăng nhanh . Như vậy, biện pháp này có nhược điểm lớn là ch ứa đựng nguy c ơ lạm phát,gây tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị ,kinh tế và xã hội. Kinh nghiệm chua xót về việc phát hành tiền quá dễ dãi đ ể bù đắp thâm hụt ngân sách gây ra lạm phát cao trong thập kỷ 80 đã cho chúng ta những bài học quý giá. Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Vi ệc này đã đ ẩy t ỷ lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ... Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi đ ược s ử d ụng. Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Ngày 1/4/1990 thành lập hệ thống kho bạc nhà nước trực thuộc bộ tài chính (chịu trách nhiệm về thâm hụt ngân sách nhà nước ) độc lập với ngân hàng nhà nước ( chịu trách nhiệm phát hành tiền vào lưu thông ). Đây là một cuộc cách mạng về cơ cấu nhằm tách chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước ra khỏi chức năng phát hành tiền,tránh tình trạng tiền túi nọ bỏ vào tuúi kia. Cơ chế đó đã đóng góp có kết quả vào việc kiềm chế bội chi và lạm phát trong thập kỷ vừa qua.Từ năm 1991 nhà nước đã tiến hành vay nợ đ ể bù đ ắp thâm hụt ngân sách. 6
  7. 2. Vay nợ a,Vay nợ trong nước Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là nh ững chứng ch ỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà n ước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phi ếu kho b ạc; trái phiếu công trình. Đơn vị: tỷ đồng Số tiền vay trong nước để Năm Số bội chi bù đắp bội chi ngân sách nhà nước 2010                 98.700                         119.700 2009                 88.520                         115.900 2008                 51.200                         66.200 2007                 43.000                         56.500 2006                 36.000                         48.500 2005                 32.420                         40.746 2004                 27.450                         34.703 2003                 22.895                         29.936 2002                 18.382                         25.597 7
  8. 140 120 100 80 Số tiền vay trong nướ c đ ể bù đ ắp b ội chi ngân sách nhà nướ c 60 S bội chi ố 40 20 0 2002   2003   2004   2005   2006   2007   2008   2009   2010 Ưu điểm: - Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì vi ệc thâm h ụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. - Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân c ư,tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai. Hạn chế : Thứ nhất, chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình th ức vay nh ư phát hành trái phiếu, tín phiếu, công trái... Đồng th ời phải thực hi ện nhi ều biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về thuế thu nhập... ngoài ra còn phải triển khai các biện pháp khác, k ể cả tuyên truyền, vận động... để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã định. Tuy nhiên, tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho chính phủ vay bị giới hạn trong tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ huy động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu t ư phát triển sản xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi. 8
  9. Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm nh ư thế nào đối v ới l ượng tiền huy động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu v ực các doanh nghiệp và dân cư đó sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu tư phát triển kinh tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của ngân hàng càng có lãi suất cao thì càng t ạo ra lu ồng ti ền v ốn d ịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang h ệ thống tài chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinh doanh. Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn ch ứa đựng nguy cơ kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng kinh tế của chính phủ thông qua con đường phát hành trái phiếu, tín phiếu... bị chính bản thân giải pháp này c ản tr ở ngay t ừ ngu ồn gốc. Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều tránh các biện pháp có nguy cơ làm giảm khẳ năng tự đầu tư của các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh và các tầng lớp dân cư. Biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực hiện trong trường hợp nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm h ụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân trách nhiệm nộp thêm thuế trong tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu đấy. Thứ hai, việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ khi những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu cho các dự án đầu tư có sức sinh lời). Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này s ẽ tr ở nên khó khăn h ơn vào các năm sau. Tuy nhiên điều này chưa xảy ra ở Việt Nam. Ngược lại, tức thực tế hiện nay, lãi suất trái phiếu chính ph ủ vẫn không đáp ứng được lãi suất kỳ vọng của thị trường nên phát hành trái phi ếu luôn bị thất bại. Hậu quả có khi cũng tệ không kém, thị trường gần nh ư không có thanh khoản. 9
  10. b, Vay nợ nước ngoài Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn v ốn n ước ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính th ế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế... Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các t ổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của m ột nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA. Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng... Số tiền vay nước ngoài để bù              Số bội chi Năm đắp bội chi ngân sách nhà nước (đơn vị tính: Tỷ Đồng) 21.000                         119.700 2010 2009                27.380                         115.900 2008                15.000                          66.200 2007                13.500                          56.500 2006                12.500                          48.500 2005                8.326                           40.746 2004                7.253                           34.703 2003                7.041                           29.936 2002                7.125                           25.597 10
  11. Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hi ệu, có thể bù đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn v ốn thi ếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhược điểm: Thứ nhất, việc vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Thứ hai, dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhi ều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay b ị phụ thuộc nhiều. Vay nước ngoài phụ thuộc vào đối tác cho vay và thường phải chịu những điều kiện ngặt nghèo về lãi suất và thời hạn vay trả. Hình th ức vay thường qua các hiệp định song phương,nguồn hỗ trợ phát triển chính th ức (ODA) và vay trên thị trường tài chính quốc tế. Nguồn h ỗ trợ phát tri ển chính thức thường cho vay với các điều kiện ưu đãi, nh ưng ngày càng hi ếm hoi và do vậy có sự cạnh tranh gay gắt. Dù thế nào, thì vay n ước ngoài cũng ch ịu s ự ràng buộc của nhiều điều kiện vay áp đặt từ nước cho vay. Ví dụ, Quỹ MIYAZWA của Nhật Bản quy định :Trong tống số vốn được cho vay tài trợ, phải có ít nhất 50% được sử dụng để mua hàng của 11
  12. Nhật hoặc các công ty Nhật đóng tại nước sở tại. Ngoài ra còn kèm theo các điều kiện, thủ tục không thành văn khác như phải qua khâu trung gian là Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM) hoặc các trung gian tài chính khác của Nhật thì mới có thể vay được tiền từ MIYAZAWA Như vậy nếu ta vay được của Nhật 1 tỷ ta đã góp phần trực tiếp ch ấn hưng nền kinh tế Nhật tới trên 500 triệu, chưa kể các áp l ực v ề th ủ t ục đ ấu thầu,giá cả,công nghệ... Tính đến cuối năm 2000, mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng 12,8 tỷ USD, chiếm 40-45% so với GDP và vẫn còn nằm trong giới hạn an toàn. ( ngưỡng an toàn là 50% GDP). Năm 2008, nợ Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên đến 40% GDP và năm 2010 khoảng 44% GDP. 3. Tài trợ thâm hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuế Nhà kinh tế học Mỹ-Laffer (thập kỷ 70 ) đã đồ thị hoá hai tác động trái ngược nhau của việc tăng thuế thu nhập tuỳ theo mức thuế suất áp dụng. Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu ngân sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thu ế suất đã cao h ơn m ức tối ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách ch ỉ giảm đi. Hàm ý của đường cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì gi ảm thu ế suất sẽ có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuy ến khích khu vực tư nhân hăng hái đầu tư. 12
  13. - Ưu điểm: Khi còn trong vùng có thể chịu đựng được,tăng thuế suất thuế thu nhập sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các đối tượng mở mang các hoạt động kinh tế,tăng kh ả năng sinh lời,một phần nộp ngân sách nhà nước,còn lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng thuế thu nhập có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. - Nhược điểm: Khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng thuế suất trực thu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà n ước và thúc đẩy trốn thuế ,lậu thuế. Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức ch ịu đựng c ủa n ền kinh tế, phụ thuộc vào hiệu quả làm việc của hệ thống thu,ph ụ thuộc vào hiệu suất của từng sắc thuế. Trong thời kỳ kinh t ế suy thoái, ho ạt đ ộng kinh tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không kh ả thi mà còn c ản tr ở ho ạt động sản xuất kinh doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thu ế c ủa các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách. Ở Việt Nam, năm 2009 Chính phủ đã giải quyết thâm hụt ngân sách bằng cách: Tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế bất động sản. Liên quan tới các ưu đãi về thuế TNDN: Từ 1-1-2009 thuế suất thu hẹp lại chỉ còn 10% và 20%, bỏ thuế suất ưu đãi 15%. Các ưu đãi miễn giảm thuế thu hẹp lại, không mặc nhiên áp dụng cho các DN mới thành lập hay đang đầu tư mở rộng nữa. Chỉ ưu đãi với các dự án đầu tư vào lĩnh vực mang tính chất nhà nước đặc biệt khuyến khích. Ví dụ: lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư hạ tầng quan trọng, sản xuất ph ần mềm, các d ự án đ ầu t ư vào các khu kinh tế... Mức để miễn giảm thuế tối đa là miễn 4 năm giảm 9 năm. Các doanh nghiệp đã thành lập trước ngày 1-1-2009 và đang được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành sẽ tiếp tục được áp dụng thời gian ưu đãi như cũ. Luật mới cũng khống chế cách xác định thời gian bắt đầu tính thuế ưu đãi: tính từ năm có thu nhập chịu thuế. Nếu doanh nghiệp nào lỗ trên 3 năm, thì năm đầu tiên tính ưu đãi là năm thứ 4. 13
  14. Thay đổi về thuế GTGT: Thu hẹp nhóm hàng hoá dịch vụ có thuế suất 5%. Đây là bước chuyển tiếp để tiến đến chỉ duy trì hai m ức thu ế su ất là 0% và phổ thông 10%. Ví dụ: hiện nay qui định sản phẩm cơ khí phục vụ sản xuất là 5% còn phục vụ tiêu dùng là 10%, tuy nhiên rất khó phân bi ệt hai lo ại này nên s ẽ chuyển hết sang 10%; sản phẩm luyện cán kéo kim lo ại cũng chuy ển h ết sang thuế suất 10%; hóa chất cơ bản, thông thường được chuyển qua nhóm 10%; máy xử lý tự động; than đá, đất đá sỏi, bốc x ếp tr ục v ớt c ứu h ộcũng vậy. 4. Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách Đây là một giải pháp tuy mang tính tình th ế, nh ưng vô cùng quan tr ọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Tri ệt đ ể tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những d ự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát tri ển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để ti ết ki ệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Xét theo góc độ kinh tế học,cắt giảm chi tiêu với hy vọng giảm t ổng chi nhằm giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước là một biện pháp tiêu cực. Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên,bao gồm cả chi lương ,chi mua sắm trang thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính,thậm chí sẽ trì hoãn hoặc cắt giảm đầu tư phát triển. Đương nhiên, ở đây cần phân biệt tính hiệu quả, tiết kiệm trong mỗi khoản chi ngân sách với khái niệm cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà n ước,c ần phân biệt khái niệm lãng phí và phạm trù kích cầu. Nếu nh ư công vi ệc trung gian gián tiếp kích thích hoạt động kinh tế thì đó không ph ải là lãng phí mà là những việc cần làm ngay giúp cho nền kinh tế phục hồi.Dù trước mắt ,ngân sách có thiếu hụt cũng phải tạo nguồn để chi cho khoản đó nh ằm ch ấn h ưng nền kinh tế và nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai. 14
  15. Chẳng hạn ở Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá c ủa ta, cần tăng khả năng lưu thông,muốn tăng khả năng lưu thông c ần gi ảm chi phí vận chuyển,muốn giảm chi phí vận chuyển nhà nước c ần đ ầu t ư vào c ơ sở hạ tầng giao thông vận tải, cải tạo, hoàn thiện và xây mới các tuy ến đường... 5. Dự trữ ngoại hối: Sử dụng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia (bao gồm ngoại tệ mạnh và vàng) để bù đắp thâm hụt NSNN. Đây là một trong những giải pháp tương đối chu toàn vừa đảm bảo ổn định tỷ giá vừa đảm bảo không gây ra l ạm phát. Tuy nhiên đối với Việt Nam điều này không kh ả thi cho l ắm do d ự tr ữ ngoại tệ quốc gia đang ở mức thấp và tình trạng mất kiểm soát đối với th ị trường ngoại tệ chợ đen còn nghiêm trọng. Thông tin nhà nước giảm dự trữ ngoại tệ sẽ khiến cho tình trạng đầu cơ găm giữ ngoại tệ trở nên phổ biến và điều này sẽ khiến cho những cố gắng ổn đỉnh tỷ giá h ối đoái thêm khó khăn. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện nay như sau: Đơn vị tính: USD Country Name     United States       Malaysia          Indonesia             Vietnam 1995        $175,995,515,363   $24,698,753,699   $14,907,560,253       $1,323,681,942 $160,660,248,05 1996                           $27,891,911,688   $19,396,150,431       $1,735,897,815 3 $134,836,014,67 1997                           $21,470,189,843   $17,486,799,311       $1,985,854,198 0 1998        $146,006,229,281   $26,235,703,349   $23,605,844,202       $2,002,261,895 1999        $136,450,057,506   $30,930,645,528   $27,345,097,354       $3,326,147,671 2000        $128,399,558,849   $28,650,938,059   $29,352,929,930       $3,416,511,106 $130,076,681,86 2001                           $29,845,803,324   $28,103,636,214       $3,674,565,625 1 $157,762,834,84 2002                           $33,761,681,180   $32,033,584,740       $4,121,051,660 7 $184,024,327,17 2003                           $44,309,888,341   $36,256,203,610       $6,224,181,087 0 $190,464,849,51 2004                           $66,393,548,615   $36,310,734,315       $7,041,460,610 7 2005        $188,259,191,182   $70,458,191,541   $34,730,799,705       $9,050,561,634 15
  16. $221,088,707,67 2006                      $82,876,090,372   $42,597,039,985   $13,384,067,980 6 2007   $277,548,957,726 $101,994,769,392    $56,935,744,301   $23,479,392,789 $294,045,678,44 2008                      $92,166,457,214   $51,640,625,792   $23,890,250,553 4 2009   $404,098,902,069   $96,704,053,355   $66,118,916,966   $16,447,103,983 16