Tổng cục thi hành án hướng dẫn nghị quyết 42 năm 2024

KIEMSAT.VN - Từ khi có hiệu lực thi hành, Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, qua đó củng cố niềm tin của xã hội đối với công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng; đóng góp quan trọng vào kết quả cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu.

1. Tình hình thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính năm 2007, kinh tế vĩ mô diễn biến bất ổn, hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) ở thời điểm cuối năm 2011 hết sức khó khăn, nợ xấu của hệ thống các TCTD tích tụ rất lớn, tiềm ẩn rủi ro gây đổ vỡ hệ thống. Sau gần 04 năm triển khai thực hiện Đề án: “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” và Đề án: “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC)” theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, việc xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc dẫn đến những hậu quả xấu cho nền kinh tế. Tính đến ngày 31/12/2016, tỉ lệ nợ xấu là 10,08% trên tổng dư nợ cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế. Việc kéo dài thời gian xử lý nợ xấu sẽ làm ảnh hưởng tới niềm tin đối với ngành Ngân hàng, ảnh hưởng không tốt đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD và tạo ra nguy cơ rủi ro lan truyền. Hơn nữa, mô hình tăng trưởng của Việt Nam còn phụ thuộc vào tín dụng, ngân hàng. Nếu các khó khăn, vướng mắc về xử lý nợ xấu không được tháo gỡ thì sẽ không thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, hạn chế quyền tiếp cận vốn của doanh nghiệp, khó giảm được lãi suất cho vay, qua đó ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và tăng trưởng GDP của nền kinh tế. Trong khi đó, cơ sở pháp lý về xử lý nợ xấu chưa đồng bộ, một số bất cập của pháp luật đã cản trở việc tạo lập và phát triển thị trường mua bán nợ xấu, chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD/VAMC; thủ tục giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án chưa phù hợp, việc hiểu và áp dụng pháp luật không thống nhất, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự liên quan đến thu hồi nợ tín dụng, ngân hàng còn hạn chế…

Trước thực trạng này, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu là rất cần thiết, nhằm thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, thực hiện nhiệm vụ theo các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, cũng như đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ nợ. Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42/2017/QH14) ra đời đã góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, bảo đảm phù hợp với thực tiễn, xử lý những bất cập, khó khăn và duy trì tỉ lệ nợ xấu ở mức an toàn (dưới 3% tổng dư nợ của hệ thống TCTD), nâng cao vai trò và năng lực của VAMC.

Trong thời gian áp dụng, việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD có nhiều tiến triển, nhất là nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14. Các hình thức xử lý nợ xấu được đa dạng hóa, đặc biệt là xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ tăng cao so với trước đây. Một số biện pháp được thí điểm như mua bán nợ theo giá trị thị trường, xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán từng bước phát huy tác dụng. Các tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu hoạt động sôi động hơn, hoạt động của VAMC đạt kết quả tốt, bước đầu tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ. Trong giai đoạn 2017 - 2021, nợ xấu cơ bản được kiểm soát, tỉ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2%; quy mô, năng lực tài chính của các TCTD được tăng cường; năng lực quản trị, điều hành tiếp tục được nâng cao; sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD được giữ vững; hệ thống các TCTD tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro; một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42/2017QH14 chưa phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án...). Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỉ lệ cao; một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỉ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: Bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%)....

Có thể thấy, mặc dù vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nêu trên, nhưng không thể phủ nhận những kết quả mà Nghị quyết số 42/2017/QH14 mang lại trong việc xử lý nợ xấu và sự ổn định của nền kinh tế. Kết quả thí điểm xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã chứng minh các chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu phát huy hiệu quả tích cực, giúp khơi thông dòng vốn, đưa dòng vốn luân chuyển vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế. Các chính sách xử lý nợ xấu cần được tiếp tục duy trì, nhất là trong bối cảnh hậu đại dịch COVID-19 và những bất ổn chính trị trên thế giới sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước; nợ xấu của các TCTD có khả năng tiếp tục tăng trong thời gian tới, nguy cơ làm mất đi những thành quả đã đạt được.

Bên cạnh đó, trường hợp Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết hiệu lực, không được kéo dài có thể dẫn tới khó khăn trong xử lý nợ xấu. Do vậy, Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã được Quốc hội cho phép kéo dài thời hạn áp dụng từ ngày 15/8/2022 đến hết ngày 31/12/2023 (quy định tại điểm 2.3 khoản 2 Nghị quyết số 63/2022/QH15 ngày 16/6/2022 kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV). Việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả của các chính sách hiện hành, nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu; hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; giảm thiểu những xung đột, tranh chấp do dừng các cơ chế đang áp dụng; tránh ảnh hưởng lớn đối với quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD; góp phần hoàn thiện, tăng hiệu lực, hiệu quả thể chế theo yêu cầu tại Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025; tạo tâm lý tin tưởng của Nhân dân vào hệ thống các TCTD, hệ thống tài chính quốc gia; khuyến khích, huy động các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia cơ cấu lại các TCTD, nhất là các TCTD yếu kém; tạo thời gian cần thiết để Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến trong năm 2023.

2. Thực trạng công tác kiểm sát các vụ án, vụ việc liên quan đến xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14

- Về công tác triển khai thực hiện:

Ngay sau khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 được Quốc hội thông qua, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao đã tổ chức giới thiệu những nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và những vấn đề cần lưu ý đối với VKSND các cấp. Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát các cấp tổ chức tập huấn đến toàn thể Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức cấp mình.

Cùng với đó, VKSND tối cao đã chỉ đạo VKSND các cấp triển khai phổ biến văn bản hướng dẫn như: (1) Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14; (2) Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 của Ngân hàng nhà nước về việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số 1058/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020; (3) Chỉ thị số 05/CT-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 17/9/2018 về việc tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu; (4) Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân; (5) Công văn số 3022/TCTHADS - NV1 ngày 15/8/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự (THADS), Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung liên quan đến triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14;…

Nhằm hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về nhận thức pháp luật liên quan đến Nghị quyết số 42/2017/QH14, VKSND tối cao đã ban hành Công văn số 506/V14 ngày 20/8/2018; trong đó giải đáp vướng mắc về nhận thức và áp dụng pháp luật đối với 02 nội dung: (1) Khi tổ chức thi hành án, tài sản có liên quan đến việc xác định khoản nợ là nợ xấu tại Nghị quyết số 42/2017/QH14, cơ quan THADS có phải yêu cầu TCTD có văn bản xác định nợ xấu hay không?; (2) Khi tổ chức thi hành án, tài sản có liên quan đến việc xác định khoản nợ là nợ xấu tại Nghị quyết số 42/2017/QH14, cơ quan THADS có được thu phí thi hành án khi chi trả tiền thi hành án cho ngân hàng theo Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 không? Ngoài ra, VKSND tối cao triển khai xây dựng Đề án “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng” để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực này.

Các nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã được VKSND các cấp đưa vào chương trình, kế hoạch và chỉ tiêu công tác hằng năm để cụ thể hóa việc thực hiện. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã kịp thời hướng dẫn VKSND các cấp kiểm sát chặt chẽ các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến xử lý nợ xấu đúng quy định của pháp luật.

Ngoài ra, nhiều đơn vị, Viện kiểm sát trong ngành đã tổ chức hội nghị tập huấn về thi hành các quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 như: Hội nghị sơ kết công tác phối hợp THADS liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân hàng năm 2018 do VKSND tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Cục THADS tỉnh và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Quảng Ninh tổ chức;…

- Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tập trung chỉ đạo VKSND các cấp tăng cường kiểm sát, phối hợp với cơ quan Tòa án thụ lý, giải quyết bảo đảm đúng quy định của pháp luật đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, vụ án có liên quan đến các vấn đề về thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đăng ký tài sản bảo đảm tại cơ quan chức năng có thẩm quyền... liên quan đến giải quyết vay tín dụng của ngân hàng.

Trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, VKSND tối cao đã tiến hành thụ lý, giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm đối với 01 trường hợp liên quan đến việc mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (đơn do Ban Dân nguyện của Quốc hội chuyển đến). Bị đơn đề nghị xem xét Bản án dân sự số 10/2018/DS-ST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do việc mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất không đúng quy định của pháp luật. Sau khi xem xét đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, VKSND tối cao xác định việc mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là phù hợp với quy định của pháp luật và đã ra thông báo về việc không kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án trên.

Hằng năm, thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến xử lý nợ xấu của các TCTD, VKSND các cấp cũng đã kịp thời phát hiện để ban hành kháng nghị đối với những vụ án có vi phạm nghiêm trọng, ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm đối với cơ quan Tòa án và kiến nghị phòng ngừa vi phạm pháp luật đối với các cơ quan hữu quan.

Trong công tác kiểm sát THADS, số việc kiểm sát thi hành án tín dụng, ngân hàng là 152.482 việc, 755.438.142.383 nghìn đồng (chiếm khoảng 3,8% về việc, 54,68% về tiền so với tổng số việc/tiền phải thi hành của toàn quốc); trong đó, số việc đã thi hành xong là 23.622 việc, 131.568.408.790 nghìn đồng, đạt tỉ lệ trung bình khoảng 18,39% về việc, 23% về tiền.

Thông qua công tác kiểm sát THADS liên quan đến xử lý nợ xấu của các TCTD, ngân hàng, VKSND các cấp đã phát hiện kịp thời và kháng nghị những vụ việc có vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật và kiến nghị đối với những vi phạm phổ biến của Chấp hành viên, cơ quan THADS, của các tổ chức, cơ quan hữu quan có liên quan khi xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ như: Vi phạm trong việc ra quyết định về thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, thực hiện kê biên tài sản, thẩm định giá và bán đấu giá tài sản để thi hành án.

Trong công tác kiểm sát loại việc thi hành án liên quan đến nợ xấu, VKSND các cấp đều thực hiện hiệu quả phương thức phối hợp, cùng tháo gỡ khó khăn trong nhận thức và áp dụng pháp luật, tranh thủ sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS. Trường hợp phát hiện vi phạm nghiêm trọng của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS, cá nhân, tổ chức có liên quan, VKSND các cấp đều ban hành văn bản kháng nghị yêu cầu khắc phục kịp thời vi phạm; trường hợp vi phạm chưa nghiêm trọng thì ban hành văn bản kiến nghị.

3. Một số vướng mắc, bất cập

- Về cơ chế tiếp cận thông tin tình trạng tài sản bảo đảm: Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định một trong các điều kiện để thu giữ tài sản bảo đảm là: “Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, hiện nay cơ quan Tòa án, cơ quan THADS không có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD trích xuất, tra cứu thông tin tài sản liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết. Đồng thời, cũng chưa có hướng dẫn về cơ chế hữu hiệu xác định sớm trong quá trình thẩm định để xác định tài sản đang tranh chấp hoặc đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách hiểu khác nhau về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp, gây khó khăn khi áp dụng quy định về thu giữ tài sản theo Nghị quyết số 42/2017/QH14.

- Việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ án dân sự: Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Nghị quyết số 03/2018/NĐ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân đã quy định về thủ tục rút gọn, nhưng thực tế rất khó áp dụng thủ tục này. Bởi lẽ, khi xảy ra nợ xấu, nhiều khách hàng trốn tránh, không hợp tác để phối hợp thu thập tài liệu... Do đó, đa số trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn đều phải chuyển sang thủ tục thông thường, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ việc.

- Theo Điều 10 Nghị quyết số 42/2017/QH14, điều kiện chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là dự án bất động sản không bắt buộc phải có giấy chứng nhận. Tuy nhiên, điểm b khoản 1 Điều 194 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Đối với các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở thì được chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án khi đã có giấy chứng nhận”. Như vậy, chưa có sự thống nhất giữa hai quy định trên.

- Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu...”. Tuy nhiên, đến nay chưa có hướng dẫn thế nào là “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án”.

- Quy định về thu thuế, phí trong xử lý tài sản bảo đảm chưa thống nhất, dẫn đến khó khăn trong thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người mua tài sản. Các cơ quan thuế nhiều địa phương yêu cầu bên nhận bảo đảm/bên nhận chuyển nhượng phải đóng thay tiền thuế thu nhập cho bên bảo đảm mới thực hiện các thủ tục liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận, sang tên cho người nhận chuyển nhượng, các cơ quan thi hành án sau khi thực hiện thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiến hành trích thu luôn tiền án phí, tiền thuế thu nhập cá nhân đối với các tài sản bảo đảm bán đấu giá thành công trước khi chuyển tiền về cho các TCTD, để bảo đảm việc thu nộp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, các TCTD cho rằng, việc vẫn phải nộp các khoản thuế, án phí trước khi thực hiện nghĩa vụ ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm là không phù hợp với Nghị quyết số 42/2017/QH14, làm giảm số tiền thu hồi nợ của TCTD, trong khi số tiền xử lý tài sản bảo đảm không đủ thu hồi nợ cho TCTD, dẫn đến không bảo đảm hiệu quả của việc xử lý nợ xấu.

- Về việc thi hành án đối với quyền sử dụng đất nông nghiệp khi bị kê biên, xử lý để bán đấu giá: Sau hai lần giảm giá không có người tham gia đấu giá, trả giá, bên được thi hành án là TCTD, doanh nghiệp không trực tiếp sản xuất và không có thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp vẫn không được nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp để trừ vào số tiền được thi hành án theo khoản 2 Điều 104 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Điều 3 Thông tư số 33/2017/TT-BTN&MT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nên các TCTD gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xử lý tài sản.

- Việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các TCTD vẫn cần đến sự hỗ trợ của cơ quan Công an các cấp và chính quyền địa phương. Trong đó, Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh khi xử lý nợ xấu, thu giữ tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trường hợp khách hàng không hợp tác bàn giao tài sản bảo đảm, chống đối khi tiến hành thu giữ, Bộ Công an vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về cơ chế, cách thức thực hiện cưỡng chế. Vì vậy, các TCTD rất khó để thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm theo Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14.

- Nghị quyết số 42/2017/QH14 thực hiện thí điểm nên hiệu lực chỉ kéo dài 05 năm. Mặc dù được kéo dài thời hạn đến hết ngày 31/12/2023, nhưng toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết này sẽ chấm dứt, việc xử lý nợ xấu của TCTD sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không được ưu tiên áp dụng một số chính sách tại Nghị quyết số 42/2017/QH14. Điều này gây ra những khó khăn nhất định cho các TCTD và rộng hơn là cả nền kinh tế. Do đó, cần khẩn trương luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu trong thời gian tới.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, Chính phủ cần nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Theo đó, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017; trong đó, bổ sung 01 chương về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu (kế thừa các quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14) để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến trong năm 2023.

Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng cơ sở quản lý dữ liệu về tài sản được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền (đặc biệt là bất động sản) công khai, minh bạch để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và thu hồi nợ xấu.

Thứ ba, Tòa án nhân dân tối cao cần phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết các khó khăn, vướng mắc nêu trên, thu hồi triệt để tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho các TCTD.

Thứ tư, các đơn vị, VKSND các cấp cần tăng cường công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến xử lý nợ xấu của các TCTD tại Tòa án để bảo đảm các vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.