Theo nghiên cứu của Kurt LEWIN các hành vi của người lãnh đạo được chia theo

Phong cách độc đoánNgười lãnh đạo tập trung quyền lực trong tay,cấp dưới chỉ được cấp trên cung cấp thông tintối thiểu để thực hiện nhiệm vụ.Người lãnh đạo ra mạnh lệnh, quyết định màkhông để ý đến ý kiến của người dưới quyềnvà kiểm tra việc thực hiện một cách nghiêmngặt.Dòng thông tin sẽ theo chiều từ trên xuống© 2006 by South-Western, a12-4 Ưu điểm:Giải quyết nhanh các nhiệm vụNhược điểm:Không phát huy được sự sáng tạo, kinh nghiệmcủa người dưới quyền.© 2006 by South-Western, a12-5 Phong cách dân chủNgười lãnh đạo thu hút người lao động thamgia vào việc thảo luận, xây dựng và lựa chọncác phương án quyết định và giải quyết cáccông việc những nhiệm vụ của tổ chức.Người lãnh đạo tập trung vào việc giải quyếtcác việc lớn, quan trọng và giao các việc cònlại cho người dưới quyền.Dòng thông tin theo hai chiều: từ trên xuốngvà từ dưới lên.© 2006 by South-Western, a12-6 Ưu điểm:Cho phép khai thác những sáng kiến, kinhnghiệm của những người dưới quyềnNgười lao động cảm thấy thỏa mãn vì được thựchiện những công việc do chính họ đề ra.Nhược điểm:Tốn kém thời gian, đôi khi việc bàn bạc kéo dàikhông đi tới được quyết định trong thời gian chophép.© 2006 by South-Western, a12-7 Phong cách tự doNgười lãnh đạo tham gia ít nhất vào các côngviệc của nhóm, giao hết quyền hạn và tráchnhiệm cho mọi người.Các thành viên được cung cấp tối đa thông tinvà được phép tự do hành động.Dòng thông tin: thông tin được thực hiện chủyếu theo chiều ngang.© 2006 by South-Western, a12-8 Ưu điểm:Phát huy tối đa năng lực sáng tạo của người dướiquyềnNhược điểmCó thể dẫn đến sự hỗn loạn, vô chính phủ trong tổchức do thiếu các chỉ dẫn của người lãnh đạo.© 2006 by South-Western, a12-9 Hiệu quả của cả ba phong cáchKurt Lewin cho rằng phong cách dân chủ là phongcách mang lại hiệu quả cao nhất, đây là phong cáchcủa người lãnh đạo thành công.Tuy nhiên vào những năm 1960 nhiều nhà nghiêncứu đã phê phán kết luận của Kurt Lewin và chorằng không phải phong cách dân chủ luôn tạo ranăng suất cao. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng một sốtrường hợp, phong cách độc đoán mang lại năng suấtvà sự thỏa mãn của người dưới quyền cao hơn.© 2006 by South-Western, a12-10 Mô hình của trường Đại học OHIOCho rằng có hai nhóm hành vi đối lập nhau:Quan tâm đến công việcQuan tâm đến con người© 2006 by South-Western, a12-11

Các dạng phong cách lãnh đạo cơ bản

a. Phong cách lãnh đạo độc đoán

Đây là phong cách lãnh đạo được đặc trưng bằng việc tập trung mọi quyền lực vào một mình người lãnh đạo, họ quản lý bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể. Lãnh đạo chuyên quyền là người thích ra lệnh, quyết đoán, ít có lòng tin ở cấp dưới. Họ thúc đẩy nhân viên làm việc bằng đe doạ, trừng phạt là chủ yếu. Ưu điểm của phong cách lãnh đạo này là người lãnh đạo giải quyết công việc nhanh chóng, triệt để và thống nhất, nắm bắt được thời cơ, cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, phong cách lãnh đạo này đảm bảo quyền lực của nhà lãnh đạo. Tuy nhiên, nhược điểm của phong cách này là không phát huy tính sáng tạo của nhân viên cấp dưới, tạo ra sự căng thẳng, áp lực đối với nhân viên, có thể dẫn tới sự chống đối của cấp dưới. Đồng thời, nhân viên ít thích lãnh đạo, hiệu quả làm việc thấp khi không có mặt người lãnh đạo, không khí trong tổ chức ít thân thiện.

b. Phong cách lãnh đạo dân chủ

Phong cách lãnh đạo dân chủ là phong cách được đặc trưng bằng việc người lãnh đạo phân chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo các quyết định. Người lãnh đạo sử dụng phong cách này còn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực trong quá trình quản lý. Theo phong cách lãnh đạo này, người lãnh đạo sẽ không hành động khi không có sự đồng thuận của cấp dưới hoặc người lãnh đạo tự quyết định hành động nhưng có tham khảo ý kiến của cấp dưới của mình. Ưu điểm của phong cách lãnh đạo dân chủ đó là nhân viên thích lãnh đạo hơn, không khí trong tổ chức thân thiện, định hướng nhóm, định hướng nhiệm vụ rõ ràng. Mỗi thành viên trong tổ chức đều thấy cần phải gắn bó với nhau để cùng làm việc nhằm đem lại kết quả chung, hiệu quả công việc cao, kể cả khi không có mặt của người lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo dân chủ giúp người lãnh đạo phát huy được năng lực và trí tuệ của tập thể, phát huy được tính sáng tạo của cấp dưới, quyết định của người lãnh đạo được cấp dưới tin tưởng và làm theo. Nhược điểm của phong cách này là người lãnh đạo có thể tốn khá nhiều thời gian để ra được một quyết định, và đôi khi cũng khó đi đến thống nhất ý kiến trong một số vấn đề cụ thể nếu không có người điều hành đủ chuyên môn, hiểu biết và sự quyết đoán.

c. Phong cách lãnh đạo tự do

Phong cách lãnh đạo tự do là phong cách mà theo đó người lãnh đạo rất ít sử dụngquyền lực để tác động đến người dưới quyền, thậm chí không có những tác động đến họ. Phong cách lãnh đạo tự do có đặc điểm là nhà lãnh đạo cho phép các nhân viên được quyền ra quyết định nhưng nhà lãnh đạo vẫn chịu trách nhiệm đối với những quyết định được đưa ra đó. Họ xem vai trò của họ chỉ là người giúp đỡ các hoạt động của thuộc cấp bằng cách cung cấp thông tin và hành động như một đầu mối liên hệ với môi trường bên ngoài. Người lãnh đạo phân tán quyền ra quyết định cho cấp dưới và dành cho cấp dưới mức độ tự do cao. Ưu điểm của phong cách lãnh đạo tự do là tạo ra môi trường làm việc “mở” trong nhóm, trong tổ chức. Mỗi thành viên đều có khuynh hướng trở thành chủ thể cung cấp những ý tưởng, ý kiến để giải quyết những vấn đề quan trọng do thực tiễn đặt ra. Nhược điểm của phong cách lãnh đạo này đó là dễ tạo ra tâm lý buồn chán cho người lãnh đạo, dẫn tới tùy tiện, lơ là công việc. Ngoài ra, trong phong cách này nhân viên ít tin phục lãnh đạo, người lãnh đạo có thể vắng mặt thường xuyên.

Theo nghiên cứu của các học thuyết lãnh đạo theo hành vi nổi bật, điển hình là nghiên cứu của Đại học Bang Ohio, đã đưa ra các dạng phong cách lãnh đạo khác nhau dựa trên sự kết hợp của hai dạng hành vi lãnh đạo cơ bản: khởi xướng công việc và sự quan tâm nhân viên. Khới xướng công việc là hành vi nhà lãnh đạo nhấn mạnh đến việc đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ, đưa ra các thời hạn, thiết lập các tiêu chuẩn thực hiện nhiệm vụ rõ ràng, theo dõi mức độ hoàn thành công việc. Chiều hướng sự quan tâm nhân viên thể hiện mức độ hỗ trợ khích lệ, quan tâm đến lợi ích, hoàn cảnh riêng của nhân viên. Sự kết hợp của hai dạng hành vi lãnh đạo này sẽ hình thành nên bốn dạng phong cách lãnh đạo khác nhau.  Bốn phong cách đó bao gồm: phong cách có hành vi khởi xướng công việc cao, quan tâm nhân viên thấp; phong cách có chiều hướng khởi xướng công việc thấp, quan tâm nhân viên cao; phong cách có cả hai hành vi đều cao; phong cách có cả hai hành vi cùng thấp. Mô hình lưới quản trị cũng đưa ra các dạng hành vi lãnh đạo tương tự. Cả hai nghiên cứu này đều chỉ ra rằng, nhà lãnh đạo có phong cách mà cả hai dạng hành vi đều cao mang lại thành tích cao hơn cả.

Tuy nhiên trên thực tế, không có một phong cách lãnh đạo nào đó sẽ thành công hơn các phong cách lãnh đạo khác. Bởi vì lãnh đạo thành công hay không còn tùy thuộc vào tình huống mà nhà lãnh đạo cần lãnh đạo. Tình huống lại đặc trưng bởi đặc điểm cấp dưới, đặc điểm công việc, đặc điểm môi trường cạnh tranh và kinh doanh nói chung, quyền lực mà nhà lãnh đạo nắm giữ,...Nhà lãnh đạo thành công phải là người có dạng hành vi lãnh đạo phù hợp với tình huống. Điều đó cũng có nghĩa là nhà lãnh đạo cần có khả năng sử dụng linh hoạt các dạng hành vi lãnh đạo khác nhau cho phù hợp với tình huống cụ thể, như vậy mới có khả năng mang lại thàng công.

Kurt Lewin, một trong những thành viên chính của Trường Gestalt, đã có những đóng góp to lớn cho tâm lý xã hội mà còn cho các ngành khác, chẳng hạn như các tổ chức.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích ba phong cách lãnh đạo mà Kurt Lewin đã mô tả: độc đoán, dân chủ và "laissez-faire", có thể được dịch là "hãy làm".

  • Bài viết liên quan: "Kurt Lewin và lý thuyết về lĩnh vực: sự ra đời của tâm lý học xã hội"

Lý thuyết của Kurt Lewin

Kurt Lewin (1890-1947) là một nhà tâm lý học người Đức, người có ảnh hưởng cơ bản đến sự phát triển của khoa học này trong nửa đầu thế kỷ 20. Giống như Wertheimer, Köhler và Koffka, anh ta là một phần của trường Gestalt, rằng ông đã cố gắng tìm ra các định luật xác định nhận thức của con người và xu hướng của tâm trí để tổ chức các kích thích nhận được.

Lewin được ghi nhận với nền tảng của tâm lý học xã hội như một kỷ luật độc lập. Điều này là do quan niệm của họ về các tình huống xã hội là "các trường lực" nơi các yếu tố khác nhau hoạt động và đối đầu với nhau, do các cuộc điều tra của họ xung quanh các hành động xã hội, để phân tích về động lực nhóm hoặc phương trình nổi tiếng của họ để dự đoán hành vi.

Một trong những đóng góp quan trọng khác của tác giả này là lý thuyết của ông về ba phong cách lãnh đạo, dựa trên các thí nghiệm ông thực hiện năm 1939. Đoạn này trong tác phẩm của ông có tác động lớn đến một ngành khác của tâm lý học: công nghiệp, còn được gọi là tâm lý học của công việc hoặc tổ chức, phân tích hành vi trong khuôn khổ của thế giới công việc.

Tuy nhiên, lý thuyết lãnh đạo của Lewin không chỉ hữu ích để phân tích bối cảnh của các tổ chức, mà có thể được áp dụng cho bất kỳ nhóm người nào có đặc điểm cấu trúc như phân cấp hoặc cố gắng đạt được một hoặc nhiều mục tiêu. Tất nhiên, môi trường tổ chức đã cho thấy mối quan tâm đặc biệt đối với loại lý thuyết này.

  • Bài viết liên quan: "Các loại lãnh đạo: 5 lớp lãnh đạo phổ biến nhất"

Ba phong cách lãnh đạo

Nghiên cứu của Lewin đã dẫn người tiên phong này đến mô tả Ba loại lãnh đạo khác nhau trong môi trường quản lý tổ chức: nhà độc tài, người có tính độc tài, dân chủ, trong đó ra quyết định là tập thể, và "laissez-faire", trong đó sự giám sát được thực hiện bởi người lãnh đạo các nhiệm vụ do cấp dưới thực hiện là tối thiểu.

Mỗi phong cách lãnh đạo này có liên quan đến mô hình hành vi, động lực tương tác và môi trường cảm xúc xã hội khác nhau. Ba loại nhà lãnh đạo có những ưu điểm và nhược điểm riêng, và không thể nói rằng không có gì vượt trội về mọi mặt; dù sao, Lewin nói rằng dân chủ là hiệu quả nhất trong ba.

1. độc đoán

Môi trường làm việc độc đoán được đặc trưng bởi thực tế là nhà lãnh đạo độc quyền ra quyết định. Chính người này quyết định vai trò của cấp dưới, các kỹ thuật và phương pháp họ phải tuân theo để hoàn thành nhiệm vụ và các điều kiện mà công việc được thực hiện.. Đó là một phong cách lãnh đạo rất mở rộng trong hầu hết các tổ chức.

Bất chấp ý nghĩa tiêu cực của từ "độc đoán", Lewin khẳng định rằng kiểu nhà lãnh đạo này không phải lúc nào cũng tạo ra một môi trường cảm xúc xã hội khó chịu; những lời chỉ trích của nhân viên là phổ biến, nhưng những lời khen ngợi cũng vậy. Các nhà lãnh đạo độc đoán cũng được đặc trưng bởi ít tham gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ công việc.

Theo quan sát của Lewin, lãnh đạo theo phong cách độc đoán có nguy cơ "cách mạng" về phía cấp dưới. Xác suất xảy ra điều này sẽ càng lớn, càng được đánh dấu là tính cách độc đoán của người lãnh đạo.

  • Có thể bạn quan tâm: "10 đặc điểm tính cách của một nhà lãnh đạo"

2. Dân chủ

Phong cách dân chủ mà Lewin mô tả rất khác so với lãnh đạo độc đoán. Các nhà lãnh đạo theo mô hình này không tự mình đưa ra quyết định, nhưng họ phát sinh do kết quả của một quá trình tranh luận tập thể; trong trường hợp này, người lãnh đạo hành động trong vai trò chuyên gia tư vấn cho cấp dưới, và tất nhiên có thể can thiệp vào quyết định cuối cùng nếu cần thiết.

Hầu hết mọi người có xu hướng thích lãnh đạo dân chủ phía trên sự độc đoán và "laissez-faire", đặc biệt là khi họ đã có những trải nghiệm tồi tệ với một trong những phong cách này. Tuy nhiên, lãnh đạo dân chủ có một số rủi ro mất hiệu quả, đặc biệt là liên quan đến việc ra quyết định tập thể.

3. Laissez-faire

Khái niệm "laissez-faire" của Pháp có thể tạm dịch là "cho phép", "không can thiệp" hoặc "chủ nghĩa tự do", theo thuật ngữ kinh tế - chính trị được sử dụng bởi Lewin. Các nhà lãnh đạo thuộc loại này cho phép cấp dưới tự đưa ra quyết định, mặc dù họ không nhất thiết phải chịu trách nhiệm về kết quả của các quyết định này..

Nhìn chung, người ta cho rằng phong cách lãnh đạo này là kém hiệu quả nhất trong ba vì nó có thể dẫn đến thiếu năng suất và tính nhất quán; Tốt hơn là có một nhà lãnh đạo tích cực. Tuy nhiên, Nó hoạt động rất tốt khi cấp dưới là những người có khả năng và có động lực cao và cũng không có nhu cầu lớn về giao tiếp giữa các công nhân.