Thế nào là xây dựng bài tập tình huống


Ngồi ba loại tình huống này ra cũng có thể phân chia các tình huống theo độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này
rất tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho sinh viên. Khi sinh viên xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là
bản thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Sinh viên vẫn có thể chủ động
xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho sinh viên tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho sinh viên kiến
thức nội dung.

2. Cách thức xây dựng bài tập tình huống


Đối với sinh viên, bài tập tình huống là một bài tập mà họ phải làm; vấn đề trong bài tập tình huống là một thách thức mà họ phải vượt qua bằng cách giải quyết nó.
Để làm được điều đó sinh viên sẽ phải phân tích các tình tiết của tình huống được giao, xác định vấn đề cần phải giải quyết, xác đinh các tiểu vấn đề để xử lý theo
một trình tự nhất định, nghiên cứu, phân tích các tài liệu được giao, xây dựng các phương án lập luận và đưa ra kết luận. Quy trình làm việc của sinh viên khi tiếp
cận với bài tập tình huống có thể được mơ tả bởi sơ đồ sau.
Bước 1: Đọc, phân tích tình huống
Bước 2: Phát hiện vấn đề và tiểu vấn đề
Bước 3: Xây dựng chiến lược giải quyết
Bước 4: Nghiên cứu tài liệu, tìm phương án
Bước 5: Kết luận
Khác với sinh viên, đối với giáo viên bài tập tình huống được xây dựng nên là để áp dụng phương pháp vấn đề vào giải quyết một vấn đề nào đó và qua q trình đó
giúp sinh viên tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải quyết bài tập tình
huống của sinh viên. Quy trình này có thể được mơ tả bằng sơ đồ sau.
Bước 1: Xác định kiến thức cần truyền đạt
Bước 2: hình thành vấn đề
Bước 3: hình thành tiểu vấn đề
Bước 4: xây dựng tình tiết sự kiện
Việc xây dựng tình huống ln bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt tới sinh viên. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
sinh viên nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có
thể là một nguyên tắc pháp lý cùng với những quy định của pháp luật thực định giáo viên muốn sinh viên hiểu và áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến
thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần sinh viên tiếp thu. Việc giải quyết vấn
đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn đề,
giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống hồn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự
kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc mà tòa án hoặc cơ quan nhà nước đã giải quyết. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến
thức pháp luật mà giáo viên đang muốn sinh viên tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với u cầu của
mình. Thứ hai, nếu khơng tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một
tình huống tốt như phân tích trên đây phải được tuân thủ. Việc xây dựng được tình huống tốt là một cơng đoạn quan trọng trong quá trình
giảng dạy luật bằng phương pháp vấn đề. Tuy nhiên, có một tình huống tốt thơi cũng chưa đủ mà cần phải có một bài tập tình huống hồn chỉnh thì mới có thể bảo
đảm sự thành công của việc triển khai dạy luật bằng phương pháp vấn đề. Một bài tập tình huống thơng thường bao gồm những nội dung sau[16]:
1. Một tình huống pháp lý, trong đó có vấn đề mà sinh viên cần phải giải quyết. Giáo viên có thể rất linh hoạt trong cách thiết kế tình huống. Các tình tiết của tình
huống có thể xếp theo một trật tự nhất định hoặc khơng theo một trật tự nào. Tình huống cũng có thể được làm dưới dạng một bản phỏng vấn hoặc hỏi cung .v.v.
Kèm với tình huống phải có câu hỏi rõ ràng và cụ thể để sinh viên có thể xác định được vấn đề. Để cho tình huống gần với thực tiễn nhất, các câu hỏi này có thể
được thiết kế dưới dạng thư hỏi của một đối tượng khách hàng nào đó tới sinh viên
với một vai trò nào đó, ví dụ thư u cầu của khách hàng gửi luật sư, của thẩm phán gửi thư ký chun mơn của mình, của đại biểu quốc hội gửi chuyên gia pháp
luật của mình 2. Chỉ dẫn khoanh vùng tài liệu cụ thể mà sinh viên cần phải nghiên cứu để giải
quyết được vấn đề. Giáo viên phải đảm bảo rằng những tài liệu này là đủ để sinh viên có thể giải quyết vấn đề. Nếu có một loại tài liệu nào đó bị dấu đi, mức độ
khó của tình huống sẽ tăng lên rất nhiều và khi triển khai trên lớp phương pháp vấn đề sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn do sinh viên khơng có cơ hội
nghiên cứu tài liệu đó từ trước. 3. Mẫu Dàn ý vấn đề. Dàn ý vấn đề được xây dựng như một dàn bài với những ý
chính tương ứng với vấn đề và các tiểu vấn đề cần giải quyết. Tương ứng với những tiểu vấn đề là những câu hỏi cần sinh viên phải trả lời và những câu trả lời
của sinh viên có đối chiếu với các tài liệu tham khảo. Để giờ học theo phương pháp vấn đề được hiệu quả, việc mỗi sinh viên chuẩn bị các Dàn ý vấn đề của
mình là rất quan trọng. Trên lớp, giáo viên sẽ yêu cầu sinh viên trình bày dựa trên Dàn ý mà sinh viên đã chuẩn bị, trên cơ sở có sự góp ý của các sinh viên khác. Ở
một nghĩa nào đó, Dàn ý vấn đề có vai trò đóng khung các nội dung cần trao đổi trên lớp. Chính vì vậy, trong bộ bài tập tình huống, giáo viên phải cung cấp mẫu
dàn ý này cho sinh viên. Tuy nhiên, giáo viên không được làm hộ sinh viên mà chỉ đưa ra cấu trúc của một dàn ý tiêu chuẩn và yêu cầu sinh viên điền các nội dung
tương ứng với tình huống mà họ được giao. 4. Tất cả các chỉ dẫn cần thiết để sinh viên triển khai công tác chuẩn bị, cụ thể như
chuẩn bị Dàn ý vấn đề, các cách triển khai làm việc theo nhóm nếu có, u cầu sinh viên trình bày lập luận bằng văn bản nếu có. Mục đích của phần này là làm
cho bài tập tình huống và cách thức triển khai bài tập tình huống trên lớp trở nên minh bạch tối đa đối với sinh viên, qua đó trên lớp sinh viên sẽ chỉ tập trung vào
nội dung chuyên môn của bài tập tình huống mà khơng bị bất ngờ bởi các yếu tố mang tính kỹ thuật.

3. Triển khai bài tập tình huống trên lớp