Tha hóa là khái niệm của nhà xã hội học nào

Vấn đề tha hóa trong "hiện tượng học tinh thần” của Hêghen

TS. Nguyễn Anh Tuấn & ThS. Nguyễn Thị Thanh HuyềnKhoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

05:29 CH @ Thứ Tư - 17 Tháng Mười Hai, 2008

Luận giải quan niệm của Hêghen về "tha hoá" trong "Hiện tượng học tinh thần" theo các cách tiếp cận triết học, nhận thức luận, xã hội học và lịch sử văn hóa, trong bài viết này, các tác giả không chỉ làm rõ quan niệm của Hêghen về "tha hoá" với tư cách một phạm trù mang tính hệ thống và năng động, về tiến trình biện chứng của sự tha hóa và sự “vượt bỏ”, mà còn bước đầu chỉ ra những hạn chế trong quan niệm của ông.

Trước đây trong nghiên cứu lịch sử triết học, thường có ý kiến không đúng rằng, dường như C.Mác đã lấy phạm trù "tha hoá" cùng toàn bộ nội hàm của nó từ triết học Hêghen và dường như phạm trù đó chỉ là sản phẩm của sự tư biện duy tâm. Thực ra, phạm trù đó bắt đầu hình thành không phải trên cơ sở duy tâm trừu tượng, mà trên nền hệ vấn đề chính trị - xã hội về sở hữu và nhà nước ngay từ trong các tác phẩm của một số nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVII - XVIII, nhất là trong suy tư của các nhà lý luận "Khế ước xã hội". Đấu tranh giai cấp ở thời kỳ cách mạng tư sản Anh và Pháp đã là cái kích thích các nhà triết học bắt tay xây dựng khái niệm "tha hoá". C.Mác đã không xa lạ gì với những thành quả tư tưởng của thời đại đó và xa hơn, cả với những khái niệm đã có trước "tha hóa".

Ở đây, chúng tôi không nói đến thuật ngữ "tha hoá" trong các nghĩa khác nhau đã khởi nguồn từ thời Trung cổ, còn những từ gần xa giống với nó, thậm chí đã có ở thời Cổ đại. Dưới dạng rõ ràng hơn, khái niệm “tha hoá” phát sinh vào thế kỷ XVII như một xung lực lý luận trong học thuyết của Hốpxơ: Nhà nước nảy sinh nhờ “khế ước xã hội” giữa các công dân, nhưng sự tha hóa pháp quyền và ý nguyện của các công dân đã biến họ thành công cụ cho ý chí riêng của nó, “… các thần dân của vua không thể thiếu sự cho phép của ngài mà dám lật nhào chế độ quân chủ”.

Tư tưởng về tha hóa tiếp tục được Rútxô và các nhà hoạt động xã hội Pháp thế kỷ XVIII hiểu như tình huống xã hội đặc thù: Kết quả hoạt động của con người trở thành sức mạnh thống trị anh ta.

Như vậy, khi khái niệm “tha hóa” bắt đầu được hình thành trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức như một phạm trù triết học, thì trước đó đã có những quan niệm về tha hóa kinh tế - xã hội do các nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII nêu ra, khi họ phê phán các quan hệ phong kiến. Trong số các nhà triết học Đức, Phíchtơ là người đầu trên dùng khái niệm “tha hoá”. Ông cố gắng dựa vào khái niệm đó để diễn đạt sự kiện sinh ra “không phải Tôi”, xa lạ và đối lập với “Tôi” bởi chính “Tôi”. Thực ra, tư tưởng tha hóa đến với Phíchtơ là qua Cantơ, nhưng về cơ bản, vẫn do ông tự vạch thảo.

Sự hình thành phạm trù tha hóa (die Enfremdung) đã được khởi đầu như vậy. Ở Phíchtơ và những người kế tục gần gũi với khuynh hướng triết học của ông, phạm trù này biểu thị bước chuyển của tinh thần vào trạng thái vật chất xa lạ với nó và sự sắp đặt bởi tồn tại khác đó của tinh thần những thứ trói buộc chính nó. Khi đó, nội dung kinh tế - xã hội của "tha hoá" còn bị thần bí hóa và che đậy.

Thông qua tính đa ngữ nghĩa của từ Freud - xa lạ và xa cách (tức là bị mất tình chí cốt, thậm chí thành thù địch), Phíchtơ đã đi đến một kết cấu tha hóa khác với ở Rútxô. Về sau, Hêghen là người tiếp tục phát triển kết cấu tha hóa đó của Phíchtơ.

Trong Hiện tượng học tinh thần (1807), “Tha hoá” là một trong những phạm trù mang tính hệ thống và năng động nhất của triết học Hêghen. Phạm trù này mang tính hệ thống theo nghĩa là, nó chiếm cứ một vị trí xác định trong hệ thứ bậc các phạm trù của Hêghen; nó xuất hiện không phải một lần, cả ở phần cuối của Khoa học lôgíc (ở bước chuyển sang Triết học tự nhiên) lẫn ở các tác phẩm mà Hêghen trình bày về Triết học tinh thần. Phạm trù này mang tính năng động theo nghĩa là, nó thâm nhập vào toàn bộ hệ thống Hêghen như một trong những đòn bẩy phương pháp luận để xây dựng hệ thống. Điều này đã hoàn toàn rõ ngay ở Hiện tượng học tinh thần.

C. Mác gọi Hiện tượng học tinh thần của Hêghen là cội nguồn thực sự và "bí ẩn" của học thuyết Hêghen, tức là cái chìa khoá mà có nó, người ta sẽ mở toang được cánh cửa đi vào nội dung quý giá của học thuyết này. Điều này cũng hoàn toàn đúng với vấn đề tha hóa. Trên thực tế, trong tác phẩm vốn kết thúc thời kỳ hoạt động ở Ien của Hêghen đã có những phác thảo về phép biện chứng của bước chuyển mang tính tha hóa từ chân lý thành sai lầm, lý tính thành giác tính, thống trị - bị trị, tự do - lệ thuộc và nô lệ. Tất cả các dạng đó của quá trình làm tha hóa và bị tha hóa giao hoà với nhau và được phân bố ở Hêghen trong chiều sâu của tha hóa bản thể luận phổ quát (tinh thần thành thế giới vật chất, ý niệm lôgíc thành tự nhiên) như những biểu hiện riêng của sự “tha hoá” chung đó.

Khi rời bỏ Ien, Hêghen chưa viết Khoa học lôgíc, do vậy toàn bộ hệ thống triết học của ông chưa được xây dựng xong. Sau này, trong hệ thống triết học cuối cùng ông đã mô tả rõ ràng ba dạng tha hóa cơ bản: sự chuyển hóa của "ý niệm" từ trạng thái lôgíc trừu tượng thành trạng thái tự nhiên, sự đối tượng hóa của tinh thần khách quan thành các thiết chế xã hội và nói chung, thành lĩnh vực các sản vật của hoạt động xã hội của con người và cuối cùng, sự vật hóa lao động con người trong các sản phẩm lao động của nó.

Theo Hêghen, tinh thần thế giới trực tiếp hay gián tiếp bị tha hóa thành tự nhiên, thành các thể chế và các đồ vật do con người tạo ra. Và, tất cả các quá trình tha hóa đó dường như là mặt trái của sự vận động của ý niệm tuyệt đối đến chính mình, đến sự hiện thân trọn vẹn như sự tự nhận thức. Quá trình này diễn ra nhất thiết phải thông qua mặt đối lập của mình, tức là qua vô tri và thậm chí, qua tri thức giả dối xuất hiện trên đường nhận thức một cách tất yếu như tồn tại như tồn tại khác của nó, tức không phải như lỗi ngẫu nhiên, mà như sai lầm tất yếu và cần thiết. Những giới hạn đó của các hiện tượng tha hóa tương ứng với nguyên tắc Hêghen về đồng nhất tư duy và tồn tại vốn giống hệt như quá trình bản thể luận phổ quát. Và, với bất kỳ quá trình nào trong số chúng - nhận thức luận hay bản thể luận, thì theo Hêghen, tha hóa nhất định phải được vượt bỏ và được khắc phục: Tinh thần quay trở về với chính mình qua đầy rẫy những đớn đau cực hình và những thử thách trải nghiệm đầy thông thái. Chân lý đạt tới độ trọn vẹn và tuyệt đối, thế giới được lý tính rọi sáng hoàn toàn. Lập trường của Hêghen trong vấn đề tha hóa đầy lạc quan và chúng ta có thể cảm thấy điều đó ở khắp nơi trong Hiện tượng học tinh thần.

So với nhận xét ở trên, kết cấu của tha hóa trong Hiện tượng học tinh thần chưa thể coi là hoàn toàn chín. Nếu từ giác độ hệ thống hoàn chỉnh của Hêghen thì ở đây, sự đối tượng hóa tinh thần khách quan mới lấp ló hiện ra; thế nhưng, sự chuyển hóa chân lý thành sai lầm đã được mô tả trong những sắc màu loang lổ của mọi hiện tượng tinh thần có thể có: trong các trạng thái tâm lý xã hội và tư tưởng hệ khác nhau.

Chính trong Hiện tượng học tinh thần, Hêghen đã khảo sát sơ đồ cải biến nổi tiếng mang tính tha hóa của “thống trị” thành “bị trị” và sự chuyển hóa “Nô” thành mặt đối lập của nó. Hêghen mô tả ở đây biện chứng của tính tự trị và tính phi tự trị của tự ý thức trong các hình tượng “chủ nhân” và “người làm công bị cưỡng bức”. Các hình tượng đó hoà quyện vào mạng lưới các biến cố lịch sử - triết học phức tạp: đấu tranh giữa chủ và người làm công - đó vừa là “chiến tranh” kiểu Hêraclít, vừa là “đấu tranh của tất cả chống lại tất cả” kiểu Hốpxơ… Nhưng, trong mọi biến thiên thăng trầm của mối quan hệ qua lại đó giữa Chủ và Nô vốn cũng có thể được đặt một cách tự nhiên vào hệ thống các khái niệm của xã hội phong kiến, thì sơ đồ đó vẫn mang một ý bài phong kiến nhất định. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc ở đây, ở Hêghen còn ẩn giấu cả những lời chỉ trích xã hội tư sản.

Quá trình biện chứng của sự tha hóa và sự “vượt bỏ” tha hóa diễn ra kế tiếp như sau. Sự bùng phát cuộc tranh cãi, đấu tranh giữa các tự ý thức đối lập lẫn nhau đã làm cho “cá nhân chống cá nhân”. Cuộc đấu tranh của chúng đạt đến đỉnh điểm căng thẳng và “mối quan hệ của hai tự ý thức được quy định theo kiểu chúng tự chứng tỏ và chứng tỏ nhau thông qua cuộc chiến đấu mất còn”, thì “chỉ có việc liều mạng sống mới bảo tồn được tự do"(2). Kẻ thất bại trong cuộc chiến này nếu như chưa chết, sẽ trở thành Nô. Người nào phải phục tùng ý chí của kẻ khác sẽ phải nhiễm ý thức nô lệ; còn ông chủ phấn chấn thấy rằng, giờ đây ông ta đã có quyền hoàn toàn không thể bị chia xẻ cho những người làm công đã bị khuất phục, có toàn quyền sai khiến, bắt họ phục vụ các nhu cầu của mình, bởi cá nhân bị tha hóa đã trở nên bất lực và thấy rằng, nó chỉ còn lại mỗi việc là lao động không phải cho mình, mà cho kẻ khác.

Nhưng "đối với Chủ, nhờ thông qua tiến trình trung giới này, mối quan hệ trực tiếp trở thành sự phủ định thuần tuý đối với sự vật; nói khác đi, [chỉ] là sự hưởng thụ. Những gì sự ham muốn đã không thành công thì bây giờ thành công, đó là thanh toán hoàn toàn sự vật và đạt được sự thỏa mãn trong việc hưởng thụ nó. Điều này đã không đạt được bằng sự ham muốn [đơn độc] là bởi do tính độc lập - tự chủ của sự vật; nhưng nay Chủ đã đẩy Nô vào giữa Chủ và sự vật, nên qua đó, chỉ quan hệ với mặt không độc lập - tự chủ của sự vật và hưởng thụ nó một cách thuần tuý; còn mặt độc lập tự chủ của sự vật thì Chủ nhường lại cho Nô, kẻ đang lao động [nhào nặn, tạo hình thể] với sự vật"(3). Tuy nhiên, sự việc không chỉ giới hạn ở đó: "Tính không độc lập tự chủ “chuyển hóa từ vật sang chủ”, bởi lẽ chủ đã biến thành phụ thuộc vào hoạt động sản xuất của kẻ tôi tớ của mình, trong khi đó kẻ tôi tớ ("Nô") càng ngày càng trở nên độc lập - tự chủ và tự bản thân đang trở lên làm chủ tình hình. Bây giờ cá nhân “chủ” đã bị tha hóa, còn “nô” được giải phóng khỏi tha hóa, quan hệ giữa họ bị lật ngược, chuyển hóa thành mặt đối lập, chủ dường như bị biến thành “nô”, còn “nô” thành “chủ”. Sự việc ở giai đoạn các quan hệ phát triển đến mức này đi tới chỗ là, “việc làm nô khi hoàn tất tiến trình, sẽ chuyển thành cái đối lập với những gì nó đang tồn tại trực tiếp (nghĩa là) với tư cách là ý thức bị đẩy ngược lại vào trong chính nó, nó (ý thức làm nô) sẽ đi vào trong chính mình và tự đảo hóa ngược lại (umkehren) thành sự độc lập - tự chủ chân thực”(4).

Không cần thiết phải phê phán một cách chi tiết toàn bộ cái kết cấu trừu tượng mà phần nhiều, là xa rời thực tế về các dữ kiện lịch sử, cuộc đấu tranh giữa các cá nhân ở đây chỉ diễn ra ở địa hạt tinh thần, chỉ có cái “tự ý thức” đấu tranh với nhau, chính xác hơn là các phạm trù đã được nhân cách hóa đấu tranh với nhau. Trong kết cấu đó, Hêghen đã cố dung hoà các mặt đối lập: Tha hóa được "vượt bỏ" bởi nhận thức, còn sự đối kháng lẫn nhau - bởi “sự thừa nhận” tinh thần khác lạ. Nhiều tác giả đã phê phán những hư cấu kiểu đó của Hêghen. Đối với chúng tôi, điều quan trọng là làm rõ tại sao đồ thức tha hóa ấy lại được chính Hêghen đặt vào sơ đồ tha hóa lao động rộng hơn và sự loại trừ tha hóa đó, tức là “giải tha hoá” lao động.

Trong Hiện tượng học tinh thần, Hêghen khảo sát lao động như quá trình hai mặt. Một mặt, tinh thần con người bị trói buộc trong lao động, diễn ra sự tha hóa nó thành lao động và thành kết quả của lao động, và như vậy, không phải tha hóa lao động, mà đúng ra, tất cả chỉ có tha hóa tinh thần thành lao động. Mặt khác, trong Hiện tượng học tinh thần có mục "Cộng đồng thú vật mang tính tinh thần" và sự lừa bịp, hay là bản thân sự việc(5), trong đó Hêghen viết rằng, vào thời ông, các hành vi riêng, trò chơi của các lực lượng, của những ước vọng ích kỷ mà ở đó, sự thật và lừa gạt, phải và trái hoà vào nhau thật chặt chẽ và kỳ lạ nhất, được coi là chính bản chất của sự việc và, những kẻ nào coi mình là bị lừa gạt hoặc làm vu vơ như vậy, thực ra là cũng muốn lừa gạt theo cách đó. Nhưng, nhiệm vụ của nhà triết học là phải biết vạch ra sau những biểu hiện của toàn bộ hoạt động con người đó và trong chính chúng không phải là cốt lõi ảo giác của sự việc, mà là cốt lõi thực sự, bản chất tinh thần phổ biến của chúng. Thành quả lao động - đặc biệt là đối với các cá nhân khác - thực là “một hiện thực xa lạ, ở bên ngoài; và họ không phải thay thế nó bằng hiện thực của riêng họ… trong thành quả của mình, ý thức nhận ra sự đối lập giữa việc làm và tồn tại…”(6). Lao động biến các sức mạnh bản chất của cá nhân con người thành đối tượng, và hẳn điều đó có nghĩa là ở mức độ này hay khác, đã làm cho chúng không chỉ rời xa khỏi tinh thần với một khoảng cách nhất định, mà chủ yếu là thành xa lạ với nó.

Đồng thời, lao động làm phát triển con người, và Hêghen cho rằng, gốc rễ của mọi lao động đã bắt nguồn từ tinh thần (mọi lao động ở Hêghen đều là quá trình tinh thần), cho nên lao động cũng có nghĩa là quá trình tự sản xuất ra con người, tôn cao nó lên. Không chỉ thế, cả giới tự nhiên hoang dã được tha hóa về bản thể từ lâu trước lao động cũng được tôn cao đến tầm tinh thần, và do sự chuyển hóa nguyên liệu tự nhiên từ đối tượng thành kết quả xử lý bởi lao động, theo Hêghen, cũng là hệ quả của hoạt động tinh thần, nên ông mới thấy sự dị biệt của thiên nhiên “thứ hai” được sáng tạo ra và xử lý bởi xã hội với thiên nhiên xuất phát điểm “thứ nhất” ở mức độ đến gần của nó với đấng Tuyệt đối tinh thần.