Tại sao cần luyện chính âm tiếng Việt

[otw_is sidebar=otw-sidebar-1]

Cùng với sự phát triển và hội nhập nền kinh tế, ngày nay tiếng việt cũng được đứng vào hàng thứ 12 trên thế giới số đông người sử dụng và đang được phát triển. Hàng năm, có không ít người nước ngoài có nhu cầu học tiếng Việt. Đối với những người nước ngoài học tiếng việt làm thế nào học tiếng việt hiệu quả?

Trước tiên khi bắt đầu học một ngôn ngữ nào điều đầu tiên chúng ta không thể bỏ qua đó là làm quen với bảng chữ cái điều này hết sức quan trọng giúp người học tiếp cận được với ngôn ngữ .Chúng ta cần phải nắm chắc bảng chữ cái và những quy luật của nó. Bảng chữ cái tiếng việt như chúng ta đã biết bao gồm 29 chữ theo thứ tự như sau: a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y. Trong bảng chữ cái này được chia ra như sau:

  • 12 nguyên âm : a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y (nguyên âm có dấu phụ là ă, â, ê, ô, ơ và ư)
  • 17 phụ âm: b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x
  • có 4 trường hợp bán nguyên âm là: oa, oe, uy, uê thì có o và u là bán nguyên âm, đóng vai trò đệm cho nguyên âm. Có nghĩa là o và u không được xem là nguyên âm trong tổ hợp 4 âm tiết trên.
  • các phụ âm ghép chuẩn là: ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr, gi và qu

Thứ hai là làm quen về mặt thanh điệu, tiếng việt là thứ tiếng đa thanh điệu bao gồm 06 thanh điệu: thanh bằng, thanh huyền, thanh sắc, thanh ngã, thanh hỏi, thanh nặng. Mỗi thanh điệu kết hợp với âm tiết mang một thanh điệu khác nhau.

Khi đánh dấu thanh điệu cần lưu ý vào các nguyên âm đơn và nguyên âm đôi còn các phụ âm thì không bao giờ mang thanh điệu. Ngoài có một số nguyên tắc khi đánh thanh điệu chúng ta cần chú ý

Khi đánh dấu thanh điệu cần lưu ý vào các nguyên âm đơn và nguyên âm đôi còn các phụ âm thì không bao giờ mang thanh điệu. Ngoài có một số nguyên tắc khi đánh thanh điệu chúng ta cần chú ý

  • Âm tiết có một nguyên âm thì thanh điệu sẽ được đặt chính nguyên âm đó: bà, bố, mẹ, xã, để
  • Âm tiết có hai nguyên âm mà tận cùng của âm tiết là phụ âm thì nguyên âm nào liền ngay trước phụ âm tận cùng sẽ mang thanh điệu: hàng, tiếng, điện, ngỗng, bảng
  • Âm tiết có hai nguyên âm mà tận cùng của âm tiết là nguyên âm thì nguyên âm nào đứng trước sẽ mang dấu thanh điệu: mèo, hái, loại ,bữa, thổi
  • Âm tiết có ba nguyên âm mà tận cùng âm tiết là phụ âm thì nguyên âm nào đứng trước phụ âm tận cùng sẽ mang dấu thanh điệu: thuyền, tuyết, chuyện, hoãn, tuyển
  • Âm tiết có ba nguyên âm mà tận cùng âm tiết là nguyên âm thì nguyên âm ở giữa các nguyên âm đó sẽ mang dấu thanh điệu: ruồi, chuối, thoại, duỗi, khuỷu
  • Âm tiết có hai nguyên âm tận cùng tạo thành các vần oa, oe, uy, uê thì thanh điệu sẽ đặt ở nguyên âm cuối: xòe, hóa, ngọa, lũy, khỏe

Thứ ba là phần phát âm và luyện âm như chúng ta đã biết tiếng việt có quan hệ logic giữa đọc và viết. Do vậy khi phát âm chuẩn thì bạn có thể viết được cái bạn nghe, cái bạn nhìn thấy đó là nền tảng tốt cho việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Khi học phát âm gắn liền với việc nghe chúng ta không cần phải cố nhớ và hiểu rõ nghĩa từ cần phát âm mà quan trọng là giúp ta quen dần với ngữ điệu và nhịp điệu từ đó. Học phát âm chuẩn tiếng Việt là một quá trình lâu dài do vậy không nên vội vàng mà cần có phương pháp luyện tập thường xuyên và từng bước đưa vào ngữ cảnh cụ thể.

  • Đối với các nguyên âm (i, ê, e ) vị trí lưỡi đưa ra trước. Nguyên âm (u, ô, o) lưỡi lùi về sau và tròn môi.
  • Hai nguyên âm ngắn ă chính là âm a phát âm ngắn, nhanh và â chính là âm ơ phát âm ngắn, nhanh
  • Ba nguyên âm iê, uô, ươ phát âm bắt đầu bằng i, u, ư sau đó trượt nhanh xuống ê, ô, ơ

Thứ tư là sự phân bố các âm trong âm tiết và cách ghi chính tả: âm tiết tiếng việt thường có mẫu như sau:

Thanh điệu
Phụ âm đầu Âm đệm Âm chính (các nguyên âm) Âm cuối ( một số phụ âm và bán phụ âm)
  • Vị trí phụ âm đầu bao gồm tất cả các phụ âm đều có thể đứng ở vị trí âm đầu
  • Vị trí âm đệm: u thường trước các nguyên âm ê, iê, â và sau q. O trước các nguyên âm e và a
  • Vị trí âm chính: là vị trí của các nguyên âm. Các nguyên âm kết hợp cùng với thanh điệu tạo thành một âm tiết (trường hợp không có các phụ âm đầu, phụ âm cuối)
  • Vị trí âm cuối: có 8 phụ âm và 2 bán phụ âm đứng ở cuối âm tiết đó là m, p,n, t, ng, c, nh, u và i. Cần lưu ý các phụ âm nh, ch không bao giờ đứng ở sau các nguyên âm u, ô, o.
  • Vị trí cuối âm tiết , k bao giờ cũng viết là c

Thứ năm là phương pháp phân tích các từ loại trong tiếng Việt. Trong tiếng Việt có mười từ loại và được phân chia làm hai nhóm chính là thực từ và hư từ.

Thực từ bao gồm:

  • Danh từ: Là từ dùng để chỉ vật, việc, hiện tượng. Danh từ thường được sử dụng làmchủ ngữ, tân ngữ và bổ ngữ
  • Động từ: Là từ dùng để hoạt động, trạng thái của người và sự vật. Động từ chia ra làm hai loại là nội động từ và ngoại động từ
  • Tính từ: Là từ dùng để chỉ đặc điểm, tính chất của sự vật, hành động, trạng thái. Tính từ được phân chia làm hai loại:
    • Tính từ chỉ đặc điểm tuyệt đối: là tính từ không thể kết hợp với từ chỉ mức độ: vàng hoe, xanh nhạt.....
    • Tính từ chỉ đặc điểm tương đối: là những tính từ có thể kết hợp với từ chỉ mức độ: tốt, xấu, đẹp....
  • Số từ: Là từ dùng để chỉ số lượng của vật, việc, hiện tượng (ví dụ: một, hai, ba....)
  • Trạng từ: Là từ dùng để chỉ trạng thái của vật, việc, hiện tượng. Chia ra làm nhiều loại tùy thuộc vào vị trí và ý nghĩa của câu
    • Trạng từ chỉ cách thức: diễn tả hành động như thế nào (nhanh, lười......)
    • Trạng từ chỉ thời gian: (sáng, tối, ngay lập tức....)
    • Trạng từ chỉ tần suất: diễn tả mức độ của một hành động (thường xuyên, liên tục....)
    • Trạng từ chỉ nơi chốn: diễn tả hành động hiện đang xảy ra ở đâu (ở kia, đằng ấy...)
    • Trạng từ chỉ mức độ: diễn tả mức độ của một tính chất và một đặc tính ( kém, giỏi...)
    • Trạng từ chỉ số lượng: diễn tả số lượng (một, hai....)
    • Trạng từ nghi vấn: là trạng từ thường đứng đầu câu hỏi (ở đâu, như thế nào.....)
    • Trạng từ liên hệ: là trạng từ giúp liên kết hai chủ thể để ngoặc hai câu lại với nhau (lí do, thời gian....)
  • Đại từ: Là từ dùng để thay thế cho vật, việc, hiện tượng được nói đến trong ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi.

Hư từ gồm có:

  • Quan hệ từ: Là từ dùng để nối các từ hoặc các câu, nhằm thể hiện mối quan hệ giữa các từ hoặc các câu ấy với nhau
  • Phụ từ: Là những từ chuyên đi kèm động từ, tính từ để bổ sung ý nghĩa cho động từ, tính từ
  • Trợ từ: Là những từ chuyên đi kèm một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc được nói đến ở từ ngữ đó
  • Thán từ: Là những từ dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của người nói hoặc dùng để gọi đáp

Trên đây là một số lưu ý để người học có thể tham khảo và vận dụng giúp mình có thể học tiếng việt hiệu quả.

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=L4nqjTnGLOA]

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=ThgjuMpZPO4]

Theo PGS Mai Xuân Huy, nguyên Phó viện trưởng Viện Ngôn ngữ, nói ngọng là hiện tượng phát âm không chuẩn trong tiếng Việt. Ngôn ngữ chuẩn là một phương ngữ đã được chuẩn hóa, sử dụng trên đài phát thanh, truyền hình quốc gia và phương tiện truyền thông chính quy khác.

Nói ngọng hình thành trong một số cộng đồng phương ngữ địa lý, tồn tại hàng trăm năm. Nói sai "l, n" cũng do phương ngữ, xuất hiện ở nhiều vùng ngoại thành Hà Nội, các tỉnh thành Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hải Phòng... Hiện tượng này sở dĩ phổ biến vì nhiều người sống trong cộng đồng nói ngọng, ít khi di chuyển. Họ cảm thấy việc đó bình thường, không cần thiết phải sửa. Trẻ em lớn lên trong cộng đồng đó sẽ nói ngọng như thói quen.

"Phương ngữ mang bản sắc văn hóa vùng miền. Giọng vùng Ba Vì không rõ thanh huyền Con bò vang, giọng Nghệ An, Hà Tĩnh, miền Nam..., tôi nghe rất dễ thương. Nghe tiếng nói, ta nhận ra người đó ở vùng nào. Cái đó không phải sửa và không nên đặt vấn đề sửa. Tuy nhiên, nói ngọng hai phụ âm đầu l, n lại là lỗi phải sửa", ông Huy nêu quan điểm.

Chuyên gia ngôn ngữ học dẫn chứng bất tiện của việc nói ngọng "l, n". Chẳng hạn khi gọi tên một người tên "Nam", ngọng thành "Lam"; "nước này là nước nào?", ngọng thành "Lước lày là lước Lào"... làm sai hoàn toàn nghĩa của từ và câu, gây cười hoặc khiến người nghe không hiểu.

"Tâm lý chung nhiều người cho rằng nói ngọng l, n là văn hóa thấp, không biết tự sửa chữa cho mình. Đặc biệt, đối với những người làm công việc như giáo viên, hướng dẫn viên, người truyền bá văn hóa, phát biểu trước đám đông, việc nói ngọng l, n khó được chấp nhận", ông Huy nói.

Tại sao cần luyện chính âm tiếng Việt

PGS Mai Xuân Huy, nguyên Phó viện trưởng Viện Ngôn ngữ. 

Quảng cáo

Phát âm chuẩn "l, n" phải là tiêu chí bắt buộc của giáo viên

PGS Huy đánh giá chương trình "Luyện phát âm, viết đúng chính tả hai phụ âm đầu l, n" cùa Hà Nội rất sáng tạo. Tuy nhiên, việc triển khai "nhắc nhở" như hiện nay chắc chắn sẽ ít đem lại hiệu quả. Với giáo viên, cần đưa vào tiêu chí bắt buộc, bởi họ làm công việc truyền bá văn hóa kiến thức cho nhiều thế hệ. 

"Sửa phát âm ngọng cho giáo viên hoàn toàn được nếu có sức ép thi đua, tăng lương. Sở Giáo dục trực tiếp triển khai chương trình, cùng với khảo sát, đánh giá khoa học, sức ép sẽ lớn hơn nhiều so với nhắc nhở", ông Huy nói. 

Hơn 40 năm giảng dạy ngôn ngữ, PGS Nguyễn Hữu Đạt, Chủ nhiệm bộ môn Việt ngữ học (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) tỏ ra gay gắt khi bắt gặp sinh viên ngọng. "Nói ngọng l, n không những gây hiểu lầm, gây cười mà còn biến vấn đề nghiêm túc thành ra chuyện bông phèng. Phát hiện sinh viên ngọng tôi đều dừng giảng để sửa ngay", ông Đạt kể.

Cách sửa nói ngọng "l, n" của PGS Đạt là yêu cầu sinh viên đó đứng tại lớp nói 10 lần câu "Làng tôi có một cô nàng mắt long lanh, lúng liếng, lung linh". Nhiều ngày sau, ông tiếp tục kiểm tra đến khi sinh viên đó sửa được.

Quảng cáo

"Tôi nghĩ việc phát âm chuẩn phụ âm đầu l, n cần đưa vào chương trình đào tạo sinh viên sư phạm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định bắt buộc đối với giáo viên các cấp học", PGS Đạt đề xuất.

Luyện phát âm chuẩn cần đưa vào nhiệm vụ của từng trường

Với bề dày lịch sử gần 60 năm, Đại học Thủ đô Hà Nội, tiền thân là Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, đã đào tạo hàng trăm nghìn giáo viên tiểu học khu vực phía Bắc. Việc phát âm chuẩn được lồng ghép trong các môn nghiệp vụ sư phạm, ngữ văn.

Đến kỳ thực tập, trường khảo sát, sàng lọc những sinh viên phát âm sai để mở lớp sửa trong một tháng. Trung bình mỗi lớp có 50-60 sinh viên, giảng viên môn ngữ văn xây dựng giáo trình phương pháp chữa phát âm sai. Tuy vậy, mỗi khóa đều có 2-3 sinh viên không được thực tập vì phát âm lệch chuẩn "l, n".

"Cấp tiểu học cực kỳ quan trọng đối với việc hình thành ngôn ngữ, chữ viết của học sinh. Với mỗi sinh viên sư phạm, phát âm chuẩn là điều kiện bắt buộc trước khi các em đứng lớp. Sinh viên bị gây sức ép, nếu không sửa được, chúng tôi không cho thực tập", TS Đỗ Hồng Cường, Phó hiệu trưởng Đại học Thủ đô Hà Nội nói.

Theo ông Cường, việc sửa phát âm đối với từng cá nhân giáo viên, học sinh không khó, tự ý thức sẽ sửa được. Tuy nhiên, để thực hiện trên địa bàn tỉnh thành và cả nước cần khảo sát lập đề án, đòi hỏi công sức lớn, kiên trì trong nhiều năm.

TS Cường đưa ra phương án, chia tách từng khu vực, nhóm cụm trường để mở lớp cho giáo viên phát âm sai, theo dõi, khảo sát thường xuyên. "Luyện phát âm cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc, đưa vào nhiệm vụ năm học của từng trường và không hạn định thời gian hoàn thành", ông Cường nói.

Chương trình sửa ngọng "l, n" của Hà Nội được thí điểm ở các trường tiểu học huyện Phú Xuyên từ năm 2009, mở rộng ở 13 huyện ngoại thành từ năm 2011, nhưng đến 2015 không còn là bắt buộc, chỉ nhắc nhở thực hiện.

Theo ông Nguyễn Trí Dũng (nguyên Trưởng phòng Giáo dục tiểu học Hà Nội), người lập kế hoạch, chương trình đạt kết quả khả quan, mỗi năm giảm 2-10% số học sinh, giáo viên bị ngọng. Tuy nhiên, những người thực hiện không ảo tưởng sẽ chuẩn hóa giọng Hà Nội vì việc này đòi hỏi phải làm lâu dài, 10 năm vẫn là "quá ngắn ngủi".

Cách phát âm chuẩn hai phụ âm đầu "l, n"

Cách phát âm L: Đặt đầu lưỡi ở vị trí hàm trên, nâng mặt lưỡi cong lên, chặn luồng khí lên mũi, đồng thời hai bên lưỡi hạ xuống để luồng không khí từ phổi lên, lách qua hai bên, cọ xát vào thành má, qua miệng mà thoát ra ngoài.

Cách phát âm N: Hai bên lưỡi áp vào hai bên miệng, đồng thời đầu lưỡi hạ xuống làm cho luồng không khí từ phổi lên không hoàn toàn qua đường miệng mà phải có một phần qua mũi thoát ra ngoài. Cảm giác như lưỡi thụt phía sau, đè xuống.