Sông nhà lê ở đâu

Con đường bình Chiêm

Với tầm nhìn chiến lược cả về quân sự và kinh tế, Lê Hoàn đã cho đào kênh từ sông Mã qua núi Đồng Cổ theo trục nam - bắc đến sông Bà Hòa, rồi từ đó khơi dòng vào Nghệ An. Sách Đại Việt Sử ký toàn thư chép: “Quý Mùi (năm Thiên Phúc năm thứ 4 - 983, NV), khi vua đi đánh Chiêm Thành, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa, đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to, bèn sai người đào kênh. Khi đào xong kênh, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện”.

Theo TS sử học Hà Mạnh Khoa, Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Sử học Việt Nam thì vào thế kỷ 10, đường bộ Thanh Hóa vào nam cũng hiểm trở không kém ra phía bắc. Do kinh đô đóng tại Hoa Lư (Ninh Bình) nên muốn tiến vào nam, thủy quân sẽ đi theo các hệ thống sông Tạc Khẩu, sông Hoạt, sông Báo Văn, sông Lèn, sông Mã rồi dừng lại ở vùng Đan Nê - Đồng Cổ. Đồng Cổ khi ấy là điểm tập kết của quân bộ theo đường Thiên Quan từ kinh đô Hoa Lư vào Thanh Hóa. Từ đây quân lính buộc phải hành quân bằng đường bộ để vào châu Hoan, châu Diễn.

Sau chiến thắng Chiêm Thành trở về kinh đô Hoa Lư, Lê Hoàn nhận thức rõ tầm quan trọng của giao thông trong chiến tranh. Những con đường thủy hay đường bộ thuận tiện là yếu tố góp phần không nhỏ vào thắng lợi. Nhưng với điều kiện lúc bấy giờ, việc mở mang phát triển đường bộ không dễ dàng, nên Lê Hoàn tận dụng các chi lưu của sông Mã, sông Cầu Chày, sông Chu, sông Hoàng, sông Yên rồi tổ chức khơi đào nối liền và thông suốt từ Đồng Cổ đến sông Bà Hòa (xã Tân Trường, H.Tĩnh Gia, Thanh Hóa ngày nay). Từ sông Bà Hòa đổ ra cửa Bạng, quân lính Lê Hoàn đào mới một đoạn kênh thẳng ở vùng Mai Lâm, dài khoảng 1,5 km, để uốn thẳng dòng sông chảy men theo khe nước lạnh vào đất Quỳnh Lưu (Nghệ An). Tiếp đó, vào năm Quý Mão (1003), Lê Hoàn đi Hoan Châu (Nghệ An) và ông đã sai đào kênh Đa Cái nối kênh Sắt ở bắc Nghệ An với sông Lam. Như vậy, từ đó đi từ vùng sông Mã (Thanh Hóa) đến vùng sông Lam (Nghệ An) ngoài tuyến đường bộ và đường biển đã hình thành thêm một tuyến đường thủy nội địa an toàn, thuận tiện.

 

Nhiều nhà sử học đã ghi nhận, công trình đào kênh thời Tiền Lê do Lê Hoàn khởi dựng đã mở đầu cho sự nghiệp phát triển hệ thống giao thông thủy nội địa dưới thời phong kiến của Việt Nam vào thế kỷ 10 thể hiện sự lớn mạnh của quốc gia độc lập tự chủ trong việc thực hiện chức năng quản lý các công trình công cộng của nhà nước phương Đông. Sau này, các triều đại nhà Lý, Trần vẫn tiếp tục đào lại, đào mới những dòng kênh trên đất Thanh Hóa tạo nên một con đường giao thông thủy nội địa hoàn chỉnh từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh. Dòng kênh nhà Lê đã góp phần bảo vệ vững chắc biên giới phía nam và mở rộng bờ cõi là một mục tiêu của tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam.

Trong vòng 26 năm trị vì, Lê Hoàn là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía nam. Ông đã tiến hành 6 hoạt động quân sự lớn ở phương nam không chỉ nhằm bảo vệ biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình nam tiến của người Việt, mở rộng thêm cương giới lãnh thổ của quốc gia về sau. Vì vậy chính hệ thống kênh nhà Lê do Lê Hoàn chỉ đạo khai mở nối với các hệ thống sông có sẵn ở phía nam Thanh Hóa vào tới Nghệ An đã mang lại giá trị vô cùng to lớn cho các đợt nam tiến của nhà nước Đại Cồ Việt cũng như các triều đại sau này. 

Khai phá đồng bằng xứ Thanh

Không những đóng vai trò là tuyến giao thông thủy phục vụ quân sự, hành chính, kênh nhà Lê còn có tác dụng vô cùng to lớn về mặt thủy lợi, góp phần khai phá vùng đồng bằng Thanh Hóa. Cũng theo TS Hà Mạnh Khoa thì vào thế kỷ thứ 10, nhờ có hệ thống kênh nhà Lê nên vùng đồng bằng Thanh Hóa đã thu hút nhiều người sống ở vùng trung du, miền núi xuống khai phá trồng lúa nước. Đây là quá trình di dân mang tính bước ngoặt trong phát triển kinh tế, xã hội thời bấy giờ.

Những vùng đất hoang có sông đào chảy qua đã trở thành những miền đất hứa vẫy gọi cư dân khắp nơi đến dựng làng mở ấp. Mùa hạn dòng kênh có nhiệm vụ cấp nước, mùa mưa lũ trở thành nơi dẫn nước ra biển. Nơi dòng kênh chảy qua, người dân đã tạo nên nhiều cánh đồng màu mỡ với những xóm làng trù phú... Sự phát triển kinh tế - xã hội tạo cho những phong tục truyền thống như thờ cúng tổ tiên, ghi công những người đi đầu trong việc đánh giặc giữ nước, dựng làng. Nhiều ngôi chùa được dựng xây dọc trên những làng, ấp theo tuyến kênh nhà Lê, như chùa Hương Nghiêm ở giáp Bối Lý, chùa Báo n, chùa An Hoạch ở Đông Sơn, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở Duy Tinh (Hậu Lộc), chùa Hưng Phúc ở Hương Yên Duyên (Quảng Xương)...

Cuộc sống thanh bình của những làng quê ven kênh nhà Lê đã góp phần sản sinh và phát triển nhiều làng nghề truyền thống với sản phẩm nổi tiếng cả nước, đồng thời tạo dựng nên nhiều dòng họ có thế lực, sản sinh nhiều người tài giỏi cống hiến cho đất nước, như dòng họ Lê Lương ở giáp Bối Lý (H.Thiệu Hóa ngày nay) nổi tiếng suốt từ thời Đinh, Lê đến Lý, Trần với những tên tuổi như bảng nhãn Lê Văn Hưu, Lê Quát, Lê Giốc; hoặc dòng họ Lê Liêm đầy thế lực ở Hà Trung. Chính dòng họ này đã nhận một người họ Hồ làm con nuôi, sau này sinh ra Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly)...

Ngọc Minh

>> Tấm gương thi đua yêu nước - Ba lần truy điệu sống
>> Nhiều nhân vật đã bị làm sai lệch

Kênh Nhà Lê có tổng chiều dài 500 km [6] hiện mang nhiều tên địa phương như:

  • Kênh Nhà Lê ở Ninh Bình được gọi là sông Bút hay sông Yên Mô. Từ kinh đô Hoa Lư theo sông Sào Khê, sông Vạc để vào kênh Nhà Lê.
  • Kênh Nhà Lê ở Thanh Hóa hiện gồm: sông Nhà Lê - sông Yên - sông Thị Long - sông Cây Giang - sông Vực Hùng - sông Thạch Luyện và các tuyến kênh đào liên kết từ thời Tiền Lê. Từ thời Hậu Lê có thêm tuyến kết nối gần hơn về phía biển là các kênh Than, kênh Ma Đa.
  • Kênh Nhà Lê ở Nghệ An gồm các dòng sau: Kênh Mơ - nối liền sông Hoàng Mai và sông Thơi. Kênh Dâu - nối sông Thơi với sông Hàu. Kênh Mi Giang - nối sông Thơi với sông Bùng. Kênh Đạu và Kênh Sắt - nối sông Bùng với sông Cấm. Kênh Gai - Kênh Chính Đích - sông Vinh nối sông Cấm với sông Lam.
  • Kênh Nhà Lê ở Hà Tĩnh gồm có hai con sông Nhà Lê và các sông nối gồm: sông Nghèn rồi sông Đò Diệm, sông Phú, sông Đạo, sông Ngàn Mo, sông Thương Long, sông Quèn, sông Rác.

Sông Nhà Lê ở Ninh Bình

Sông Nhà Lê ở Ninh Bình là nơi khởi đầu của hệ thống sông Nhà Lê. Sông còn có tên là sông Yên Mô hay sông Bút, là một trong 4 tuyến sông ở Ninh Bình được đưa vào danh sách các tuyến đường sông quốc gia. Từ kinh đô Hoa Lư, xuôi dòng sông Sào Khê - sông Vạc thẳng hướng về phía nam 30 km đến ngã ba Đức Hậu là điểm khởi đầu của sông Nhà Lê.

Đại Việt sử ký toàn thư không thấy nói đến Lê Hoàn đào sông ở Ninh Bình nhưng theo thần tích các đền thờ vua Lê Đại Hành tại các xã nằm bên sông này như ở Yên Thái, Yên Lâm, huyện Yên Mô có thể suy đoán sông này được đào từ thời Tiền Lê, tại các xã này hiện còn vết tích thành đắp từ thời Tiền Lê. Đến thời Hậu Lê, việc đào Kênh Nhà Lê ở Ninh Bình vẫn được tiến hành.

Sông Nhà Lê ở Ninh Bình dài 14 km, từ ngã ba Đức Hậu đến cửa Thần Phù, chảy qua 6 xã Yên Từ, Yên Nhân, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Thái, Yên Lâm thuộc huyện Yên Mô rồi nối với hệ thống sông Tống, sông Mã của Thanh Hóa tại vị trí cửa Thần Phù và điểm đầu của sông Càn.

Bên tuyến Kênh Nhà Lê ở Yên Mô có rất nhiều di tích cổ của người Việt như: Đền Thượng Bình Hải (xã Yên Nhân); Miếu Quyết Trí; Chợ Bút, Nhà thờ Ninh Tốn; Đình Từ Đường và đình Quảng Công thờ Vua Lê Đại Hành; Đền Nhân Phẩm và Đình làng Yên Tốt thờ Ấp Lãng Chân Nhân; Cửa Thần Phù,...

Sông Nhà Lê ở Thanh Hóa

Sông Yên, đoạn chảy qua huyện Nông Cống

Thanh Hóa hiện vẫn còn hai sông mang tên sông Nhà Lê. Sông nhà Lê thứ nhất là tuyến sông cổ dài ~65 km với 1 nhánh từ xã Xuân Phú đi vào ranh giới giữa Thọ Xuân và Triệu Sơn hợp với nhánh nối từ sông Vị Giang tại xã Dân Quyền (gần Đồng Cổ) rồi đi theo sát quốc lộ 47C về phía nam tới xã Tế Nông huyện Nông Cống thì nhập vào sông Yên. Sông nhà Lê thứ hai khác là tuyến kênh dài ~25 km cũng nối với sông Vị Giang tại ngã 3 Nông Cống - Đông Sơn - Quảng Xương rồi đi sát quốc lộ 45 làm ranh giới giữa huyện Quảng Xương với Đông Sơn và Tp Thanh Hóa rồi hợp lưu vào sông Mã.

Từ các nhánh sông Nhà Lê nói trên, khi qua địa phận xã Đông Nam, Đông Sơn đều hợp lưu vào sông Yên và tiếp tục xuống hướng nam. Tuyến đường thủy tiếp tục đi theo các sông là sông Yên - sông Thị Long - sông Cây Giang - sông Vực Hùng - sông Thạch Luyện chảy qua các huyện Nông Cống - Như Xuân - Tĩnh Gia trước khi đến địa phận Nghệ An.

Từ thời nhà Hậu Lê, tuyến sông Nhà Lê mới ở Thanh Hóa được các thế hệ người Việt khơi mở nằm gần ven biển hơn tuyến cũ từ Đồng Cổ đến Ba Hòa, tuyến này đi qua các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia. Nhiều ngôi chùa được dựng xây dọc trên những làng, ấp theo tuyến kênh nhà Lê, như chùa Hương Nghiêm ở giáp Bối Lý, chùa Báo Ân, chùa An Hoạch ở Đông Sơn, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở Duy Tinh (Hậu Lộc), chùa Hưng Phúc ở Hương Yên Duyên (Quảng Xương).

Sông Nhà Lê ở Nghệ An

Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" có chép rằng: "Quý Mão (ứng Thiên) năm thứ 10 (1003) Tống Hàm Bình (năm thứ 6) vua đi Hoan Châu vét kênh Đa Cái (nay là Hoa Cái) thẳng đến Tư Củng trường ở Ám Châu"

Các kênh đào thời nhà Tiền Lê đã nối thông với các sông tự nhiên thành một hệ thống đường thuỷ thông suốt từ Quỳnh Lưu ở phía Bắc cho đến sông Lam ở phía Nam. Tàu thuyền vận tải có thể từ các bến cảng: Cửa Cờn, Cửa Quèn, Cửa Thơi, Cửa Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội... đến các vùng đồng bằng Diễn Châu - Yên Thành - Quỳnh Lưu và Nam Đàn - Hưng Nguyên - Nghi Lộc, lại có thể đi thông ra tận Thanh Hoá, đến Kinh đô Hoa Lư, ra Bắc.[7]

Từ ranh giới phía Bắc Nghệ An, thuộc địa phận thị xã Hoàng Mai, Lê Hoàn cho đào kênh Bà Hòa (thuộc xã Tân Trường, Tĩnh Gia, Thanh Hoá) theo hướng Nam, rồi men theo chân núi Xước, nối với sông Hoàng Mai và Kênh Xước. Kênh này chạy từ Sòi Trẹ (xã Quỳnh Lộc) đổ vào sông Hoàng Mai ở phía Bắc làng Ngọc Huy và gọi là Kênh Son. Từ Ngọc Huy, kênh chảy qua các xã vùng Bãi Ngang gọi là Kênh Mơ (còn gọi là kênh Mai Giang, kênh Ngọc Để) rồi đổ ra Lạch Quèn. Dòng kênh này men theo dòng nước chảy là khe Nước Lạnh, là đường ranh giới phía Nam Thanh Hoá, Bắc Nghệ An, thuộc huyện Quỳnh Lưu.

Những đoạn sông Nhà Lê ở Nghệ An đều nằm ở các huyện ven biển, thường mang các tên địa phương. Đoạn còn mang tên sông Nhà Lê chảy qua huyện Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Vinh.

Kênh Nhà Lê tại Nghi Lộc, Nghệ An.

Trong lịch sử xây dựng và phát triển Nghệ An, Kênh Nhà Lê tại địa phận này đã có nhiều đóng góp về mặt giao thông, thủy lợi, góp phần hình thành nên nhiều làng quê đông đúc trù phú như làng Ngọc Huy, làng Xuân Úc (Thị xã Hoàng Mai), làng Phú Đa (huyện Quỳnh Lưu), làng Đức Thịnh, làng Vạn Phần (huyện Diễn Châu) và góp phần đáng kể vào việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp, thương nghiệp, thủ công nghiệp...[8]

Trong chiến tranh, chỉ tính riêng tuyến kênh nhà Lê tại Nghệ An (từ năm 1965 - 1968) không quân Mỹ đã tiến hành công kích trên 190.000 trận, ném hơn 700.000 tấn bom vào các mục tiêu quân sự, đầu mối giao thông, cơ sở kinh tế và khu dân cư trên địa bàn tỉnh Nghệ An.[9]

Sông Nhà Lê ở Hà Tĩnh

Sông Nghèn thuộc tuyến kênh Nhà Lê, đoạn chảy qua thị trấn Can Lộc

Tại Hà Tĩnh có 2 đoạn còn mang tên sông Nhà Lê ở nửa phía bắc và nửa phía nam tỉnh. Kênh Nhà Lê ở Hà Tĩnh chảy quanh co qua làng mạc của các huyện Đức Thọ, Hồng Lĩnh, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thị xã Kỳ Anh rồi đổ ra biển ở Đèo Ngang.[10]

Sông Nhà Lê ở phía bắc Hà Tĩnh bắt đầu tại ranh giới Nghệ An và Hà Tĩnh trên sông Lam. Vị trí này giữa xã Đức Vĩnh và phường Trung Lương (Thị xã Hồng Lĩnh). Sông là ranh giới tự nhiên giữa huyện Đức Thọ và thị xã Hồng Lĩnh. Khi qua thị trấn Nghèn (Can Lộc), Kênh Nhà Lê đổi tên thành sông Nghèn rồi sông Đò Diệm, sông Phú, sông Đạo, sông Ngàn Mo, sông Thương Long, sông Quèn, sông Rác.

Đoạn sông Nhà Lê phía nam Hà Tĩnh là đoạn cuối cùng mang tên sông Nhà Lê, nó khởi đầu từ sông Rác tại xã Cẩm Lạc, Cẩm Xuyên chảy qua xã Cẩm Minh rồi đi vào huyện Kỳ Anh (qua các xã: Kỳ Phong, Kỳ Tiến, Kỳ Giang, Kỳ Phú, Kỳ Đồng, Kỳ Khang, Kỳ Thọ, Kỳ Ninh rồi đổ ra biển tại cửa khẩu vịnh Vũng Áng. Khu vực này nằm sát chân Đèo Ngang, vốn là ranh giới giữa Đại Cồ Việt và Chiêm Thành thời Tiền Lê.