Soạn văn 7 bài hồi hương ngẫu thư năm 2024

Phiên âm Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi, Hương âm vô cải, mấn mao tồi Nhi đồng tương kiến, bất tương thức, Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai ? (Hạ Tri Chương (*) Dịch nghĩa Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về, Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng. Trẻ con gặp mặt, không quen biết, Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến? (Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại. Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn. Âm: tiếng, giọng nói, vô : không, cải : đổi, mấn mao : tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng. Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau. Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến.)125Dịch thơKhi đi trẻ, lúc về già Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.Trẻ con nhìn lạ không chào Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi ?(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)Trẻ đi, già trở lại nhà, Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu.Gặp nhau mà chẳng biết nhau, Trẻ cười hỏi: “Khách từ đâu đến làng ?”(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I, Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)126 Chú thích(*) Hạ Tri Chương (659–744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi Lí Bạch là “trích tiên” (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.ĐọC-HIÊU VẢN BẢN 1. Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này có gì độc đáo ? (Gợi ý:So sánh với tình huống thể hiện tình quê hương trong bài Tĩnh dạ tứ) 2. Chứng minh hai câu đầu đã dùng phép đối trong câu (còn gọi là tiểu đối, tự đối). Nêu tác dụng của việc dùng phép đối ấy. Luru ý : Ở thơ ngũ ngôn và thất ngôn, số chữ của hai vế đối nhau trong câu không bằng nhau, tuy vậy, xét về mặt từ loại và cú pháp, vẫn có thể đối rất chỉnh.3. Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu x vào ô mà em cho là hợp lí:- ié Phượng thức | Tựsự | Miêu tả | Biểu cảm | Biểu cảm | Biểu cảm. biểu đạt – – qua tự sự | qua miêu tả Câu 1 Câu 2Sau khi đánh dấu, có thể dùng lời để giải thích thêm; cũng có thể dùng cách giải thích khác không có trong các ô. 4. Sự biểu hiện của tình quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu ? (Gợi ý: Phân tích xem vì sao chỉ có nhi đồng xuất hiện và sự xuất hiện đó cùng al ltiéng cười câu hỏi hồn nhi lác giả vui lên không)o127Bài thơ biểu hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ. Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài Hồi hương ngẫu thư và những điều cảm nhận được qua việc học bài thơ, hãy so sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.

1. Hạ Tri Chương sinh năm 659, mất năm 744, người tỉnh Chiết Giang. Ông sinh sống và làm việc 50 năm ở kinh đô Trường An, khi già mới trở về quê. Ông là bạn vong niên của nhà thơ Lí Bạch. Hạ Tri Chương còn để lại 20 bài thơ, trong đó có bài rất nổi tiếng là Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.

2. Qua miêu tả và cảm nhận hiện thưc chân thật, hóm hỉnh, có phần chua xót, nhà thơ thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết của một người dằng dặc xa quê trong giây phút đầu tiên trở về.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Qua tiêu đề bài thơ, ta thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này độc đáo ổ chỗ tình cảm quê hương bộc lộ mạnh mẽ ngay khi vừa đặt chân về tới quê, làm cho tác giả xúc cảm mà thành thơ. Nó khác với bài Tĩnh dạ tứ là ở xa quê nhìn trăng mà thương nhớ (vọng nguyệt hoài hương).

2. Trong hai câu đầu, tác giả đã dùng phép đốỉ (tiểu đối) trong câu: thiếu - lão (trẻ - già), tiểu — đại (nhỏ — lớn), li - hồi (rời xa - trở về); hương âm - mấn mạo (giọng quê — tóc mai), vô cải - tồi (không đổi - rụng). Việc dùng phép đối để nhấn mạnh thời trẻ — lúc già có những sự khác biệt, thay đổi rất lớn. Tuy là tiêu đốì nhưng đối rất chỉnh về từ loại và ý nghĩa.

3. Đánh dấu vào bảng

Phương thức biểu đạt

Tự sự

Miêu tả

Biểu cảm

Biểu cảm qua tự sự

Biểu cảm qua miêu tả

Câu 1

X

X

X

Câu 2

X

X

X

X

X

4. Sự thể hiện tình cảm quê hương của hai câu đầu và hai câu cuối khác nhau về giọng điệu: Hai câu đầu là cảm xúc nhắc lại sự thay đổi của thời gian và con người. Tất cả thay đổi, nhưng có một điều không đổi nhờ vào ý thức, vào tấm lòng yêu quê hương. Đó là giọng quê. Hai câu sau thiên về tự sự và biểu cảm về việc xuất hiện đám trẻ nhỏ. Nhìn mà không biết, không hiểu. Đó là một ngỡ ngàng. Nhưng chua chát hơn, bọn trẻ lại coi nhà thơ như là một vị khách lạ từ xa tới. Đây chính là điểm trớ trêu, nhưng lại rất hiện thực. Tác giả chấp nhận và không khỏi xót xa. Vì đi quá lâu nên bị coi là người lạ ngay trên quê hương mình, một miền quê mà tác giả không nguôi thương nhớ, bằng mọi cách giữ bằng được giọng quê. Giọng thơ đượm một nỗi buồn sâu kín. Nhưng nhờ thế mà càng làm nổi bật tình quê thắm thiết, sâu nặng của nhà thơ.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

So sánh bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San:

- Bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ mất chi tiết tóc mai rụng mà chỉ có tóc đà khác xưa, thiếu đi tính cụ thể . Trần Trọng San lại dịch sương pha mái dầu, chỉ tóc bạc như sương. Như vậy cả hai bản dịch không dịch trung thành chi tiết này.

- Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ đánh mất tiếng cười hồn nhiên của trẻ con khi đưa ra câu hỏi, và cũng không sát nghĩa câu thơ gặp nhau, không biết nhau. Trong khi đó, bản dịch của Trần Trọng San trong hai câu này sát với nguyên tác hơn.