So sánh tinh bột và glycogen năm 2024

Glycogen là một đại phân tử polysaccharide đa nhánh của glucose có vai trò làm chất dự trữ năng lượng trong cơ thể động vật và nấm. Cấu trúc polysaccharide đại diện cho dạng lưu trữ chính của glucose trong cơ thể.

Ở người, glycogen được hình thành và tích trữ chủ yếu trong các tế bào của gan và cơ hiđrat hóa với ba hoặc bốn phần nước. Chức năng của glycogen là một nguồn phụ dự trữ năng lượng lâu dài, với nguồn dự trữ chính là chất béo nằm trong mô mỡ. Glycogen ở cơ chuyển hóa thành đường glucose bởi các tế bào cơ, và glycogen ở gan chuyển hóa thành glucose được sử dụng cho toàn bộ hệ thống cơ thể bao gồm hệ thần kinh trung ương.

Glycogen tương tự như tinh bột, một polyme glucose có chức năng dự trữ năng lượng ở thực vật. Nó có cấu trúc giống với amylopectin (thành phần của tinh bột), nhưng có nhiều nhánh hơn và xếp khít nhau hơn so với tinh bột. Cả hai có dạng bột trắng khi ở trạng thái khô. Glycogen có hình dạng hạt trong bào tương/tế bào chất ở nhiều loại tế bào, và nó đóng vai trò quan trọng đối với chu trình glucose. Nguồn cấp năng lượng từ glycogen có thể nhanh chóng biến đổi thành dạng năng lượng đáp ứng ngay lập tức yêu cầu cần thiết của cơ thể về glucose, nhưng sự tích trữ này vẫn nhỏ hơn so với chất béo triglyceride (lipid) tích trữ năng lượng.

Trong gan, glycogen chiếm 5 đến 6% trọng lượng tươi của nó (khoảng 100–120 g ở người lớn). Chỉ glycogen trong gan là nguồn dự trữ năng lượng cho các cơ quan khác. Ở các cơ, glycogen chiếm tỷ trọng thấp (khoảng 1-2% khối lượng cơ). Lượng glycogen trữ trong cơ thể—đặc biệt là ở cơ, gan, và hồng cầu—chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động thể chất, tốc độ trao đổi chất cơ sở, và thói quen ăn uống. Có một lượng nhỏ glycogen trong thận, và một lượng ít hơn nữa trong các tế bào thần kinh đệm (Neuroglia cells) ở não và bạch cầu. Tử cung cũng tích lũy glycogen trong thai kỳ để nuôi dưỡng phôi.

Cấu trúc[sửa | sửa mã nguồn]

1,4-α-glycosidic linkages in the glycogen oligomer

So sánh tinh bột và glycogen năm 2024
1,4-α-glycosidic and 1,6-glycosidic linkages in the glycogen oligomer

Glycogen là một polyme sinh học phân nhánh chứa các mạch thẳng của phần cặn của glucose và cứ cách từ 8 đến 12 phân tử glucose thì có một mạch nhánh. Glucose được liên kết thẳng với nhau thông qua liên kết glycosidic α(1→4) từ một glucose tới phân tử tiếp theo. Các nhánh liên kết với chuỗi polyme chính bằng liên kết glycosidic α(1→6) giữa glucose thứ nhất của nhánh mới với glucose trên mạch chính.

Do quá trình sinh tổng hợp lên glycogen, mỗi hạt glycogen có một protein glycogenin ở lõi của nó.

Glycogen trong cơ, gan và tế bào béo được giữ dưới dạng hydrat hóa, (3 đến 4 phần nước) kết hợp với kali (0,45 mmol K/g glycogen).

Dec 22, 2022Để lại lời nhắn

Tinh bột là chất dự trữ dinh dưỡng chính của thực vật. Tinh bột chủ yếu được phân bổ trong hạt thực vật, trái cây, một số củ và rễ, và nó cũng là nguồn carbohydrate chính trong thức ăn của con người. Phân tử tinh bột được cấu tạo từ nhiều - Được tạo thành từ glucozơ. Có hai loại cấu trúc của tinh bột trong tự nhiên: amyloza và amylopectin. Phân tử amilozơ được cấu tạo từ nhiều - Phân tử glucôzơ, qua liên kết - 1, 4 glicozit. vì - Liên kết 1,4 glycosid tạo thành một góc nhất định (do các đơn vị glucozơ liền kề trong phân tử amyloza tạo thành một góc nhất định) và chuỗi dài của nó được cuộn theo hình xoắn ốc và mỗi vòng tròn (vòng xoắn) gồm 6 đơn vị glucôzơ. Amylopectin lớn hơn amylose và có cấu trúc phân nhánh cao. Có nhiều nhánh nhỏ (khoảng 25-30 đơn vị glucose tạo ra một nhánh). Mỗi nhánh gồm nhiều - Phân tử glucôzơ, thông qua - 1, 4 liên kết glycozit được nối với nhau, nhưng giữa các nhánh (điểm) - 1,6 liên kết glycozit. Tinh bột tồn tại trong tế bào thực vật ở dạng hạt tinh bột, có hình bầu dục hoặc hình cầu và kích thước khác nhau tùy thuộc vào nguồn gốc thực vật. Tinh bột có thể được sử dụng làm nguyên liệu năng lượng của thực vật hoặc nguyên liệu cho các phản ứng khác. Cellulose là polysacarit phân bố rộng rãi và phong phú nhất trong tự nhiên. Các phân tử xenlulozơ được cấu tạo từ mười - Nó được cấu tạo từ các phân tử glucozơ - Các đại phân tử mạch dài được hình thành do sự kết hợp của 1,4 liên kết glicozit. Người ta thấy rằng trong các phân tử cellulose, hướng liên kết hóa học giữa các phân tử glucose là khác nhau và chúng sẽ tạo thành một chuỗi không có nhánh và cuộn lại. Một số lượng lớn các phân tử chuỗi đơn của cellulose tương tác với nhau thông qua các liên kết hydro, làm cho hàng ngàn chuỗi đơn liên kết với nhau để tạo thành các vi sợi. Do đó, cấu trúc phân tử của cellulose thường rất ổn định, không hòa tan trong nước, dung môi hữu cơ thông thường và dung dịch kiềm loãng. Ở thực vật thân gỗ, một số lượng lớn sợi nhỏ tạo thành sợi, được kết hợp với các loại polyme khác và có vai trò hỗ trợ mạnh mẽ, do đó hỗ trợ cây cao. Đường tiêu hóa của người và động vật không chứa cellulase và không thể sử dụng trực tiếp cellulose. Tuy nhiên, đối với con người, ăn vào một lượng chất xơ nhất định có thể hấp thụ nước, có lợi cho việc thúc đẩy nhu động đường tiêu hóa, thúc đẩy quá trình bài tiết phân, duy trì chức năng của hệ tiêu hóa, có lợi cho sức khỏe. Một số động vật, chẳng hạn như ngựa và gia súc, có vi sinh vật có thể thủy phân dây cellulose trong đường tiêu hóa của chúng. Những vi sinh vật này có thể thủy phân cellulose để tạo ra glucose để thu được dinh dưỡng. Glycogen, còn được gọi là tinh bột động vật, phân bố trong tế bào chất của tế bào động vật dưới dạng hạt glycogen. Nó chủ yếu được phân phối trong gan động vật và cơ xương, và cũng chứa một lượng nhỏ glycogen trong cơ tim, não, thận và các mô khác. Glycogen cũng được tìm thấy trong vi khuẩn như Escherichia coli. Về thành phần hóa học, glycogen cũng là một polysacarit cao phân tử với glucose là đơn vị cơ bản. Về mặt cấu trúc, glucose trong các phân tử glycogen chủ yếu được liên kết bằng liên kết glycosid -1, 4-để tạo thành một chuỗi thẳng. Tương tự như amylopectin, các phân tử glycogen tạo thành chuỗi phân nhánh thông qua liên kết glycosid -1 và 6-. Sự khác biệt là glycogen có mức độ phân nhánh cao hơn và chuỗi phân nhánh ngắn hơn. Trung bình, cứ 8-12 dư lượng glucose xảy ra một nhánh. Người ta phát hiện ra rằng các nhánh glycogen đa dạng ở động vật có thể làm tăng khả năng hòa tan của các phân tử glycogen, hơn nữa các đầu đường không khử có thể bị phân hủy đồng thời bởi glycogen phosphorylase, đẩy nhanh quá trình thủy phân (phosphoryl hóa) thành monosacarit, có lợi cho việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của các hoạt động sống.

Glycogen khác gì tinh bột?

Tinh bột và glycogen là hai polysaccharide khác nhau về chức năng, trong đó tinh bột là carbohydrate dự trữ của tế bào thực vật, còn glycogen là carbohydrate dự trữ của tế bào động vật.

Glycogen là tinh bột gì?

Glycogen là một đại phân tử Polysaccharide đa nhánh của Glucose, làm chất dự trữ năng lượng trong cơ thể động vật và nấm. Cấu trúc Polysaccharide đại diện cho dạng lưu trữ chính của Glucose trong cơ thể. Glycogen được hình thành và tích trữ chủ yếu trong các tế bào của gan và cơ ở người.

Cellulose và tinh bột khác nhau như thế nào?

- Điểm khác nhau giữa tinh bột và cellulose về cấu tạo mạch carbon là: + Tinh bột có 2 dạng cấu trúc xoắn hoặc phân nhánh. Nhìn chung, các loại tinh bột có cấu trúc ít phân nhánh. + Cellulose có dạng mạch thẳng, không phân nhánh, nhiều phân tử cellulose liên kết với nhau thành bó sợi dài nằm song song.

Tinh bột là gì sinh 10?

Tinh bột: Là nguồn năng lượng cũng như dạng cacbon dự trữ ở thực vật và chiếm phần lớn nguồn năng lượng của con người. Glicogen: Là nguồn năng lượng đồng thời là dạng cacbon dự trữ của động vật. Xenlulozo: Cấu trúc nên thành tế bào thực vật.