So sánh đời thừa và chí phèo

Nam Cao là nhà văn hiểu hơn ai hết nghệ thuật là một hoạt động sáng tạo. Ông quan niệm: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa). 

Nam Cao tuyên bố như thế và quyết thực hiện như thế trong sáng tác của mình. Ta có thể thấy rõ điều đó qua thiên truyện ngắn Chí Phèo của ông.

 Trong dòng văn học hiện thực phê phán ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám 1945, tình cảnh bi thảm của người nông dân nghèo là một đề tài rất phổ biến. 

Người ta thường nói: ở mỗi người Việt Nam, dù thuộc tầng lớp nào, cũng có một người nông dân. Có lẽ vì thế chăng, mà nhiều cây bút đã viết rất hay, rất sâu sắc về người nông dân Trước khi Nam Cao viết Chí Phèo (1941), Vũ Trọng Phụng đã viết Giông tố, Vỡ đê (1936), Ngô Tất Tô đã viết Tắt đèn (1937), Nguyễn Công Hoan đã viết Bước đường cùng (1938). Đấy là chưa kể Trần Tiêu, Thanh Tịnh ... cũng viết rất hay về nông dân.

 Đối với đề tài ấy, Nam Cao là người đến muộn trên mảnh đất người ta đã đào xới rất kỹ rồi, ông còn tìm tòi được gì mới mẻ đây! Đây quả là một thử thách rất khắc nghiệt đối với một cây bút đòi hỏi nghề văn phải là một nghề sáng tạo. 

Nhưng Nam Cao đã vượt qua được thử thách ấy một cách thật là vinh quang. Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, người ta tưởng chừng như không còn gì để nói thêm nữa về nỗi khổ của người nông dân thời trước, ngoài những điều mà anh Pha (Bước đường cùng), Chị Dậu (Tắt đèn) phải gánh chịu.

 

Vậy mà khi Chí Phèo ngất ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người đọc mới nhận thấy rằng, té ra đây mới là kẻ khốn cùng nhất ở nông thôn ta ngày trước. Chị Dậu phải bán đi tất cả: bán con, bán chó, rồi bán sữa đi ở vú... Người nông dân còn có gì nữa để mà bán! Ấy thế mà Chí Phèo vẫn tìm ra một tài sản để bán, cái tài sản cuối cùng mà chị Dậu chưa phải bán: ấy là nhân tính, là hồn người. Mất tài sản này thì con người thành con quỷ. Chị Dậu dù khổ cực thế nào, nhưng vẫn còn được là người trong khi Chí Phèo phải trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại...

 Phát hiện ra nỗi khổ ấy của người nông dân, Nam Cao đã đem đến cho tác phẩm của mình một sức tố cáo thật sâu sắc mãnh liệt. Đúng vậy, chị Dậu của Ngô Tất Tố thật là cực khổ đủ đường: chồng bị bắt, con phải bán đi, bản thân phải đi ở vú và nhiều lần bị đe doạ hãm hiếp... Nhưng chị vẫn giữ được nguyên vẹn cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo thì đành để mất tất cả. Chính vì thế mà hắn không được chấp nhận trở lại làm người. Cái bộ mặt đầy sẹo ngang dọc ấy, cái lý lịch đầy tội lỗi và những cơn say triền miên ấy, khiến cả làng Vũ Đại, ngoài Thị Nở ra không ai còn có thể tin rằng, trong tâm hồn hắn, còn sót lại một chút gì gọi là lương tâm hay nhân tính. Chí Phèo đã rơi vào tấn bi kịch đau đớn nhất, bị từ chối làm người. 

Trong quan niệm của Nam Cao về nghệ thuật, có điều này cũng rất tiến bộ, ông cho rằng, văn chương phải nhằm mục đích “ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình...” (Đời thừa). Thực ra chủ nghĩa nhân đạo vẫn được xem là cơ sở tư tưởng nói chung của văn học hiện thực chủ nghĩa. Những cây bút hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, hay Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố đều lên án xã hội thực dân, phong kiến trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo. Có điều, về phương diện này, tác giả Chí Phèo vẫn có những đóng góp riêng có thể gọi là độc đáo, mới mẻ.

 

Hãy trở lại với tác phẩm Tắt đèn. Ai nấy đều biết nhà văn Nguyễn Tuân đã từng ca ngợi cuốn tiểu thuyết này của Ngô Tất Tố bằng những hình ảnh thật đích đáng: “Trên cái tối trời tối đất” ngày xưa, tác giả đã dựng nên “bức chân dung lạc quan của Chị Dậu” Nguyễn Tuân muốn nói rằng, qua nhân vật này, Ngô Tất Tố đã thể hiện niềm tin tưởng chắc chắn của mình ở phẩm chất tốt đẹp của người nông dân lao động, dù sống trong bùn vẫn toả hương thơm thanh khiết như một bông sen giữa đầm lầy.

 

Đó là biểu hiện cao đẹp nhất của lòng nhân đạo trong tác phẩm Tắt đèn. Ngô Tất Tố qua hình tượng chị Dậu, chẳng những thông cảm sâu sắc với mọi nỗi khổ cực của người nông dân trong xã hội cũ, mà còn tỏ thái độ kính trọng thật sự những con người thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội ấy nữa. Điều đó không phải nhà văn hiện thực nào cũng có được.

 Tuy nhiên, chị Dậu dù sao cũng là một con người bình thường, một người đàn bà lành mạnh của đời sống lương thiện. Còn Chí Phèo của Nam Cao thì đã bị nhà tù của chủ nghĩa thực dân và thủ đoạn độc ác của Bá Kiến biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vậy mà Nam Cao vẫn tin rằng dưới đáy sâu của tâm hồn tưởng như hoàn toàn đơn độc của Chí, vẫn tồn tại bản chất lương thiện của người nông dân lao động mà không một sức mạnh nào, dù ghê tởm đến đâu cũng không thể tiêu diệt được. Cho nên khi gặp Thị Nở, mối tình chân thật của người đàn bà này mới có thể làm thức dậy cái chất người chưa chết hẳn ở anh ta. Chí thèm khát được trở về cuộc sống lương thiện, muốn sống hoà với mọi người. Nhưng ai tin anh ta được! Xã hội độc ác đã cướp đi bộ mặt người của anh ta rồi còn đâu! Và Bá Kiến đã tạo cho anh ta một bản lý lịch đầy tội ác, làm sao tẩy xoá đi được! Trong cơn tuyệt vọng, anh ta đã đâm chết Bá Kiến và tự sát Nam Cao đã sáng tạo nên một nhân vật nô lệ thức tỉnh đứng lên đòi quyền làm người. Anh ta phải tự sát vì một mặt không muốn trở về cuộc sống của con quỷ dữ của làng Vũ Đại, mặt khác đã bị từ chối làm người. 

Đấy là tấn bi kịch đau đớn của Chí Phèo. Nam Cao đã dựng lên tấn bi kịch ấy bằng những trang viết chứa chan tình nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo đặc biệt sâu sắc và cảm động với những biểu hiện độc đáo chưa có dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố cũng như của các bậc đàn anh khác như Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan.

TRƯỜNG THPT CHUYÊN ĐHSP HÀ NỘI

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐBBB 2018

ĐỀ NGUỒN: Ngữ văn 11

Thời gian làm bài: 180 phút (không kể thời gian giao đề)

Đề bài.

Câu 1 (8,0 điểm).

“ Tài sản quý giá nhất của một con người không phải là một cái đầu đầy kiến thức mà là một trái tim đầy tình yêu, một lỗ tai sẵn sàng lắng nghe, một cánh tay sẵn sàng giúp đỡ”

Anh /chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.

Câu 2 (12,0 điểm).

Thế giới nghệ thuật về những con người tha hóa và bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao qua truyện ngắn “Chí Phèo” và “Đời thừa”.

……………………………..Hết……………………………..

GỢI Ý CHẤM BÀI

Câu 1 (8,0 điểm).

I.Yêu cầu chung:

1.Hiểu đúng và trúng bản chất đề: một quan niệm về tài sản quý giá nhất của con người: biết yêu thương,biết lắng nghe, biết sẻ chia. Đó cũng là cách thức để có được thứ tài sản quý giá nhất.

2.Biết vận dụng hợp lý các loại kiến thức từ thực tế đời sống, trong văn học , đặc biệt là những trải nghiệm của bản thân để giải quyết thuyết phục vấn đề cần nghị luận.

II.Yêu cầu cụ thể.

Thí sinh có thể diễn đạt, trình bày theo những cách khác nhau, song cần thể hiện được những nội dung chính sau.

Nội dung cần đạt Điểm
1.Giải thích ngắn gọn:

+Tài sản lớn nhất của con người không phải là cái đầu đầy kiến thức bởi kiến thức được tiếp thu mới chỉ là tiền đề, nền tảng để mỗi con người kiến tạo nên thứ tài sản thực sự lớn nhất. Học mà không biết cảm xúc, không biết lắng nghe và thấu hiểu, không hành động thì mớ kiến thức có được trở nên vô ích, vô nghĩa.

+ “ trái tim đầy tình yêu, một lỗ tai sẵn sàng lắng nghe, một cánh tay sẵn sàng giúp đỡ.

-“Trái tim đầy tình yêu ”– năng lực yêu thương- sẽ giúp con người luôn sống trong tình yêu, biết cách yêu cuộc sống, con người.

-“Lỗ tai sẵn sàng lắng nghe”- năng lực lắng nghe và thấu hiểu- giúp con người biết cảm nhân, thấu hiểu, trở nên nhạy cảm, dễ dàng đồng cảm với mọi vui, buồn của con người, tạo vật.

-“Cánh tay sẵn sàng giúp đỡ”- năng lực hành động- là hệ quả tất yếu khi con người sở hữu năng lực yêu thương, lắng nghe và thấu hiểu để làm những điều, những việc cần thiết. Trước hết là biết tự bênh vực, bảo vệ, đấu tranh cho chính những quyền, lợi ích chính đáng của bản thân, sau đó là biết chia sẻ, giúp đỡ, cưu mang, bênh vực, bảo vệ những con người cần sự giúp đỡ, chia sẻ, cưu mang.

Nói cách khác, chính những năng lực Người này chứ không phải vốn kiến thức, học vấn mới thực sự là tài sản lớn nhất của mỗi con người

Như vậy, ý kiến không chỉ thể hiện một quan niệm riêng về thứ tài sản quý giá nhất của đời người mà còn chỉ ra cách thức con người tạo ra thứ tài sản quý giá nhất bởi đó là “tài sản gốc” để mỗi con người sống hạnh phúc, không chỉ vậy, còn có thể mang đến hạnh phúc cho mọi người.

2,0 điểm

2.Làm sáng tỏ:

Thí sinh biết huy động những hiểu biết của mình từ thực tế đời sống, đặc biệt là những trải nghiệm bản thânđể làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận. Thí sinh cần viết với tâm thế người trong cuộc, bởi đây là biểu hiện chân thực, cụ thể, sống động chất văn trong bài văn NLXH. Hơn thế, đây cũng là một trong những đích đến thiết thực của bài NLXH trong nhà trường.

3,0 điểm

3.Bàn luận:

+Từ ý kiến có thể thấy không nên tuyệt đối hóa vai trò của kiến thức: kiến thức cũng quan trọng nhưng quan trọng hơn, nó phải được chuyển hóa thành các năng lực Người thì mới thực sự trở thành thứ tài sản quý giá nhất. Thậm chí nó còn tiềm ẩn mối nguy hại đối với con người và xã hội khi con người sử dụng kho kiến thức đó để làm điều xấu, việc ác; Người càng học rộng, biết sâu, càng nhiều thủ đoạn, mưu mô tinh xảo, tinh vi khi làm cái ác, việc xấu đến mức khó nhận ra. (Liên hệ thực tế)

+Cần thấy:chỉ khi sở hữu vốn tri thức đủ rộng đủ sâu, bền vững, con người mới có thể hình thành, tự bồi dưỡng năng lực yêu thương- biết yêu thương và biết cách yêu thương, biết lắng nghe, thấu hiểu và biết cách để lắng nghe, thấu hiểu, dám hành động và biết cách hành động đúng, đẹp.

+Điều đặc biệt, đây là thứ tài sản càng được sử dụng thì nó càng làm cho con người trở nên giàu có.

+Cần thấy, có không ít người có học vấn cao nhưng trình độ văn hóa lại rất thấp, chính là bởi vốn tri thức họ có không được chuyển hóa thành năng lực yêu thương, lắng nghe, thấu hiểu và càng không thể tạo sức mạnh hành động.

2,0 điểm

Bố cục rõ ràng; Trình bày khoa học, hợp lý; Diễn đạt gãy gọn;Không mắc những lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu thông thường; Có đoạn/ý sâu sắc, độc đáo.

1,0 điểm

Câu 2 (12,0 điểm).

I.Yêu cầu chung.

1.Biết cách làm bài nghị luận văn học.

2.Hiểu và làm rõ vấn đề cần nghị luận: Thế giới nghệ thuật về những con người tha hóa và bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao.

3.Biết vận dụng hơp lý, linh hoạt các loại kiến thức về văn học sử, lý luận văn học, đọc-hiểu để giải quyết thuyết phục nội dung cần nghị luận.

II.Yêu cầu cụ thể.

Thí sinh có thể diễn đạt, trình bày theo những cách khác nhau, song cần thể hiện được những nội dung chính sau.

Nội dung cần đạt Điểm
1.Giới thiệu chung.

a.Về tác gia Nam Cao (vị trí, đóng góp nổi bật).

b. Thế giới nghệ thuật :

+Thế giới nghệ thuật- Bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật.

+Thế giới nghệ thuật riêng của Nam Cao là những người tha hóa. Họ là những người nông dân nghèo, là những trí thức- tiểu tư sản nghèo( nhà văn, nhà báo, nhà giáo, sinh viên nghèo,…)

+Viết về thế giới những con người như thế, NC thực sự đã thể hiện và khẳng định được bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của một nhà văn- hiện thực- nhân đạo- tâm lý bậc thầy.

2,0 điểm

2.Thế giới nghệ thuật về những con người tha hóa trong sáng tác Nam Cao.

a.Thế giới những người nông dân tha hóa.

+ Đó là những người lao động nghèo, sống lương thiện nhưng bị hoàn cảnh xô đẩy vào “bước đường cùng” mà trở nên tha hóa, lưu manh.

(Phân tích hình tượng Chí Phèo để làm sáng tỏ quá trình tha hóa của nhân vật)

b.Thế giới những người trí thức tiểu tư sản tha hóa.

+Họ là những trí thức TTS nghèo, khao khát khẳng định mình, tỏa sáng tài năng, nhân cách để sống ý nghĩa nhưng rồi cũng bị hoàn cảnh làm tha hóa.

(Phân tích hình tượng nhân vật Hộ,…)

Tất cả họ là hiện thân của một nỗi khổ, nỗi đau Người rất phổ biến trong xã hội Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 : sinh ra là người mà không được làm Người.

3,0 điểm

3.Bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao:

+Nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực đau đớn khốn cùng của con người, quan trọng hơn đã có những lý giải cảm thông, trân trọng và đầy thuyết phục vì sao những con người đó trở nên tha hóa.

+Quan trọng hơn, tái hiện quá trình tha hóa của những con người đó, nhà văn không những không khiến người đọc khinh, ghét họ mà còn khiến người đọc cảm thông, xót thương và đặc biệt trân trọng, tin tưởng bản chất lương thiện tốt đẹp của họ, ngay cả khi họ rơi vào cảnh tha hóa cùng cực đến mức thành “quỷ dữ”.

Nói cách khác, qua thế giới những con người tha hóa ấy, Nam Cao đã khẳng định đầy trân trọng và tin tưởng: chính những con người ây, dù rơi vào hoàn cảnh nào, hoàn cảnh ấy có nghiệt ngã đến đâu, vẫn nỗ lực để sống như một con người.

+ Chuyển hóa bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật giàu chất hiện thực, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, nhân văn ấy là sở trường miêu tả, phân tích tâm lý bậc thầy của người viết.

4,0 điểm

+ “Có những chủ đề Nam Cao và có những nhân vật Nam Cao” (Lê Đình Kỵ).

+Có được những phát hiện về số phận con người ở chiểu sâu hiện thực, nhân đạo như thế, Nam Cao không chỉ có “đôi mắt” quan sát hiện thực tinh, sắc mà còn có trái tim “nhân đạo từ trong cốt tủy”.

2,0 điểm

Bố cục rõ ràng; Trình bày khoa học, hợp lý; Diễn đạt gãy gọn;Không mắc những lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu thông thường; Có đoạn/ý sâu sắc, độc đáo.

1,0 điểm