So sánh 2 khuynh hướng phong kiến và tư sản

So sánh 2 khuynh hướng phong kiến và tư sản

Nhận xét về khuynh hướng chính trị, kết cục và ý nghĩa của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.

Các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX diễn ra theo hai khuynh hướng chính trị: khuynh hướng phong kiến và khuynh hướng dân chủ tư sản.

–Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX theo khuynh hướng phong kiến:

+Hệ tư tưởng phong kiến vẫn tồn tại cho dù giai cấp này đã mất vai trò lịch sử, nhân dân Việt Nam vẫn còn tiếp tục sử dụng hệ tư tưởng phong kiến để đánh Pháp. Nếu khuynh hướng này thành công sẽ dẫn đến sự ra đời của nhà nước phong kiến tồn tại, chưa giải quyết triệt để những mâu thuẫn của xã hội.

+Ba cuộc khởi nghĩa tieu biểu nhất trong phong trào Cần vương là: Cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo; Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo; Cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Cùng thời giai với phong trào Cần vương còn diễn ra cuộc khởi nghĩa nông dân ở rừng núi Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Những phong trào này mặc dù kéo dài đến 10 năm, phong trào Cần vương bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Riêng cuộc khởi nghĩa Yên Thế vẫn còn tiếp tục kéo dài đến tận 1913. Sự thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, khẳng định: Hệ tư tưởng phong kiến không còn đủ khả năng giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi kiếp nô lệ, con đường cứu nước dưới sự chi phối bở hệ tư tưởng này là không thành công. Do đó, độc lập dân tộc không gắn liền với chủ nghĩa phong kiến.

+Ý nghĩa: thể hiện truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam; góp phần khảo sát thử nghiệm khuynh hướng cứu nước phong kiến, tránh vết xe đổ của khuynh hướng cứu nước này và đặt ra yêu cầu cần phải có khuynh hướng cứu nước mới tiến bộ hơn.

–Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XX theo khuynh hướng dân chủ tư sản:

+Hệ tư tưởng dân chủ tư sản được du nhập vào Việt Nam qua các Tân thư, Tân báo được đưa vào Việt Nam một cách gián tiếp. Nếu khuynh hướng này thành công sẽ hình thành nên một chế độ mới – tư bản chủ nghĩa, không xóa bỏ hoàn toàn sự bóc lột, mà chuyển từ chế độ bóc lột này sang chế độ bóc lột khác với trình độ cao hơn.

+Trong điều kiện lịch sử mới đó, giai cấp tư sản Việt Nam chưa ra đời cho nên người tiếp thu những tư tưởng lúc bấy giờ là các sĩ phu văn thân tư sản hóa mà điển hình là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Từ đó, hình thành nên hai xu hương khác nhau trong phong trào yêu nước: xu hướng bạo động và xu hướng cải cách. Nhìn chung, phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX với hai xu hướng bạo động và cải cách đã diễn ra khá sôi nổi với những hình thức phong phú nhưng cuối cùng thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản dù hết sức mới mẻ đối với nhân dân Việt Nam xong nó không đủ khả năng giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi vòng nô lệ.

+Việc không thành công của Phong trào yêu nước cuối thế kỷ XX đã khẳng rằng con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản không thể giành được thắng lợi. Và cùng với Phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX rốt cuộc không thành công, làm cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam lâm vào khủng hoảng “dường như trong đêm tối không có đường ra”. Đó chính là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước. Tình hình ấy đã đặt ra yêu cầu bức thiết là phải tìm con đường cứu nước mới. Trong điều kiện đất nước nô lệ, độc lập tự do luôn là yêu cầu thiết tha nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Cùng với đó là yêu cầu phải tìm kiếm con đường cứu nước mới, nó tác động vào tất cả những người yêu nước Việt Nam thời bấy giờ. Và trong bối cảnh đó, có nhiều người Việt Nam yêu nước ra đi với hi vọng tìm thấy con đường cứu nước mới để cứu nước, cứu dân. Trong số đó, có người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.

Phân tích ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

+Sự xuất hiện nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới đã tạo ra thể chế xã hội chủ nghĩa; làm cho bản đồ chính trị thế giới có sự thay đổi. Kể từ đây, thế giới đã hình thành hai hệ thống đối lập: hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội chủ nghĩa.

+Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã đánh dấu mốc lớn cho sự phát triển của lịch sử - lịch sử thế giới đã chuyển sang thời kì hiện đại.

+Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã thúc đẩy mạnh mẽ và cổ vũ phong trào cách mạng thế giới; mở ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc cho giai cấp công nhân và các dân tộc thuộc địa. Đối với phong trào giải phóng dân tộc, Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra trước mắt các dân tộc bị áp bức ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.

+Cách mạng tháng Mười Nga đã nêu lên một tấm gương sáng cho các dân tộc đang bị chủ nghĩa đế quốc thực dân nô dịch. Một xu hướng mới đã xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước.

+Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển, làm cho kẻ thù của phong trào giải phóng dân tộc suy yếu, còn nước Nga Xô viết trở thành đồng minh tin cậy, là chỗ dựa vững chắc cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Nêu điểm giống nhau và khác nhau về nhiệm vụ chiến lược cách mạng tư sản dân quyền được xác định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng ta.

Năm 1930, ở Việt Nam có hai văn kiện quan trọng, đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930) và Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10/1930). Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, mà hai văn kiện này có những điểm giống nhau và khác nhau.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị đều xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là từ cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; đều xác định nhiệm vụ cách mạng là chống đế quốc và phong kiến.

Tuy có những điểm giống nhau nhưng Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị có những điểm khác nhau cơ bản sau:

Về nội dung của cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Cương lĩnh chính trị đầu tiên, tư sản dân quyền cách mạng không bao gồm cách mạng ruộng đất mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, cách mạng ruộng đất là một cuộc cách mạng khác. Còn trong Luận cương chính trị tháng 10/1930, tư sản dân quyền sẽ bao gồm hai nhiệm vụ cách mạng ruộng đất và nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định nhiệm vụ cách mạng gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến nhưng nổi lên hàng đầu là chống đế quốc và giải phóng dân tộc. Còn Luận cương chính trị nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất, không đưa ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam có phải là một cuộc bạo lực cách mạng không? Vì sao?

Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một cuộc cách mạng bạo lực.

Sở dĩ nói như vậy, là vì:

Thứ nhất, trong điều kiện một nước thuộc địa, kẻ thù luôn dùng bạo lực để thống trị nhân dân thì con đường cùng nhất để giành độc lập dân tộc là con đường cách mạng bạo lực.

Thứ hai, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc vùng dậy của cả dân tộc Việt Nam, được tiến hành bằng khởi nghĩa vũ trang, đập tan của chính quyền đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân ta đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa (được xác định và chuẩn bị từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 tháng 5/1941).

Thứ ba, Cách mạng tháng Tám năm 1945 dựa vào sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam (trừ bọn tay sai), không phân biệt tâng lớp, giai cấp, đảng phái chính trị. Lực lượng tham gia của Tổng khởi nghĩa giành chính quyền được tổ chức thành hai lực lượng cơ bản, có quá trình chuẩn bị chu đáo và lâu dài là lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, có sự kết hợp chặc chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Đó là sức mạnh áp đảo của toàn dân tộc đã đưa cách mạng đến thắng lợi.

Vì sao trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân ta thực hiện phương châm đánh lâu dài?

Đường lối kháng chiến của Đảng đã được vạch ra trước và trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, được thể hiện cụ thể trong Chỉ thi “toàn dân kháng chiến” (12/12/1946) của Ban thường vụ Trung ương Đảng, trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946) của chủ tịch Hồ Chí Minh và được giải thích cụ thể trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” (23/9/1947) của Tổng bí thư Trường Chinh. Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng được tóm tắt trong các chữ: toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân ta thực hiện phương châm đánh lâu dài vì:

Thứ nhất, so sánh tương quan lực lượng về kinh tế và quân sự không cho phép ta chiến thắng nhanh chóng mà cần đánh lâu dài.

Thứ hai, ta cần có thời gian dể vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, vừa xây dựng hậu phương và vận động quốc tế nhằm từng bước thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tiến lên chớp lấy thời cơ giành chiến thắng quyết định và giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.

Thứ ba, đánh lâu dài nhằm chống lại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp. Địch cần đánh nhanh thắng nhanh để phát huy ưu thế của quân đội nhà nghề và phương tiện chiến tranh hiện đại, khắc phục chỗ yếu của chiến tranh phi nghĩa, tránh phản ứng bất lợi của dư luận quốc tế và nước Pháp, để tiết kiệm chi phí chiến tranh và sớm hoàn thành mục tiêu xâm lược thuộc địa nhằm khai thác về kinh tế. Ta đánh lâu dài là để chúng đánh theo cách của ta, không phát huy được lối đánh sở trường của chúng, hãm địch vào thế trận do ta chọn.

Thứ tư, kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc là lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo, truyền thống đánh giặc lâu dài của dân tộc ta.

Phân tích điều kiện bùng nổ và ý nghĩa lịch sử của phong trào “Đồng khởi” (1959-1960) ở miền Nam Việt Nam.

Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” là bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta. Điều kiện bùng nổ của phong trào này là:

- Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được kí kết, so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi không có lợi cho cách mạng. Nhân dân miền Nam tiến hành đấu tranh chính trị, đòi thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, tiến lên đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, chống “tố công”, “diệt cộng”, chống đạo luật 10-59. Qua thực tiễn đấu tranh, lực lượng chính trị được bảo tồn, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng được xây dựng lại ở một số nơi. Đó là điều kiện để tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

- Trong những năm 1957-1959, cách mạng miền Nam gặp muôn vàn khó khăn do những chính sách khủng bố tàn bạo của đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đòi hỏi có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt qua khó khăn thử thách.

- Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành Trung ương Đảng khẳng định con đường cách mạng bạo lực. Hội nghị nhấn mạnh: ngoài con đường dùng bạo lực cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác.

- Giáng một đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của đế quốc Mĩ, làm lung lay tận gốc rễ ách thống trị của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.

- Đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên chiến tranh cách mạng.

Nêu và nhận xét về sự phân chia ảnh hưởng và sự xung đột Đông – Tây diễn ra ở châu Á từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX.

Châu Âu có sự phân chia hai cực rõ ràng, phân định chặc chẽ: Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô – xã hội chủ nghĩa và Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ – tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, ở Châu Á, tình hình không hẳn như thế, nó bị “vi phạm” ngay từ đầu và tình hình trong khu vực diễn ra ngày càng có chiều hướng khác với sự đối đầu của hai phe.

Ở Trung Quốc, theo thỏa thuận giữa Anh, Mĩ và Liên Xô tại Hội nghị Ianta thì Trung Quốc sẽ là “khu đệm”, một chính phủ liên hiệp của Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch có sự tham gia của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thành lập. Thế nhưng, tháng 7/1946, cuộc nội chiến Trung Quốc bùng nổ. Tình hình Trung Quốc đã không diễn ra như sự sắp đặt của hai diêu cường Mĩ và Liên Xô.

Ở Đông Nam Á, Tây Á và Nam Á, ba cường quốc đã thỏa thuận những khu vực này thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây, vẫn chấp nhận nền thống trị thuộc của các nước thực dân phương Tây. Ngay sau khi nghe tin phát xít Nhật đầu hàng, các dân tộc ở Đông Nam Á đã nhanh chóng đứng lên đấu tranh nổi dậy giành chính quyền, tuyên bố độc lập và lập nên những nhà nước mới tiêu biểu là Inđônêxia, Việt Nam và Lào, như một phản ứng dây truyền, làn sóng đấu tranh giải phong dân tộc nhanh chóng lan nhanh sang Tây Á và Nam Á. Sau đó, các dân tộc Đông Nam Á đã kiên trì tiến hành các cuộc kháng chiến chống thực dân tái xâm lược và cuối cùng các nước đế quốc thực dân phương Tây đều thất bại, phải tuyên bố công nhận và trao trả độc lập cho các dân tộc.


Như vậy, các dân tộc châu Á đã không cam chịu cái khu vực “phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước tư bản phương Tây” như một thiết chế của một trật tự hai cực Ianta. Phong trào giải phóng dân tộc đã trực tiếp làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, thực dân phương Tây, một cực trong Trật tự “hai cực Ianta” và thực tế là một nhân tố làm rạn nứt và “xói mòn”quyền lực đưa tới sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta. Nhưng mặt khác, trong bối cảnh thế giới hai cực, một số quốc gia sau khi giành được độc lập bị cuồn hút vào một cực này hay cực kia, phe này hay phe kia trong trật tự hai cực Ianta. Khu vực Đông Nam Á trở thành khu vực tiêu biểu. Thậm chí là chiến trường của chiến tranh lạnh trong nhiều thập niên.