Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo được xây dựng trên cơ sở

Mục lục

  • 1 Phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh
  • 2 Mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều hàng hóa và nhiều quốc gia
  • 3 Hạn chế của nguyên tắc lợi thế so sánh
  • 4 Lợi thế so sánh về giá yếu tố đầu vào
  • 5 Tham khảo
  • 6 Liên kết ngoài

Phân tích của Ricardo về lợi thế so sánhSửa đổi

Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã nghiên cứu và chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và gọi kết quả này là quy luật lợi thế so sánh. Ông đã phân tích như sau:

Bảng 1 - Chi phí về lao động để sản xuất
Sản phẩm Tại Bồ Đào Nha (giờ công) Tại Anh (giờ công)
1 đơn vị lúa mỳ 15 10
1 đơn vị rượu vang 30 15

Trong ví dụ này Anh có lợi thế tuyệt đối so với Bồ Đào Nha trong sản xuất cả lúa mỳ lẫn rượu vang: năng suất lao động của Anh gấp hai lần Bồ Đào Nha trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy nghĩ thông thường, trong trường hợp này Anh sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ Bồ Đào Nha cả. Thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận hoàn toàn khác:

  • 1 đơn vị rượu vang tại Bồ Đào Nha sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mì (hay nói một cách khác, chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 2 đơn vị lúa mì); trong khi đó, tại Anh để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mì (hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 1,5 đơn vị lúa mì). Vì thế ở Anh sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Bồ Đào Nha.
  • Tương tự như vậy, ở Bồ Đào Nha, sản xuất lúa mì rẻ hơn tương đối so với Anh (vì chi phí cơ hội chỉ có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Anh phải mất 2/3 đơn vị rượu vang). Hay nói một cách khác, Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mì còn Anh có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang. Để thấy được cả hai nước sẽ cùng có lợi nếu chỉ tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh: Bồ Đào Nha chỉ sản xuất lúa mì còn Anh chỉ sản xuất rượu vang rồi trao đổi thương mại với nhau, Ricardo đã làm như sau:
  • Ông giả định nguồn lực lao động của Bồ Đào Nha là 270 giờ công lao động, còn của Anh là 180 giờ công lao động.
  • Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá và theo chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra như sau:
Bảng 2 - Trước khi có thương mại
Quốc gia Số đơn vị lúa mì Số đơn vị rượu vang
Bồ Đào Nha 8 5
Anh 9 6
Tổng cộng 17 11
  • Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mì rồi trao đổi thương mại với nhau thì số lượng sản phẩm được sản xuất ra sẽ là:
Bảng 3 - Sau khi có thương mại
Đất nước Số đơn vị lúa mì Số đơn vị rượu vang
Bồ Đào Nha 18 0
Anh 0 12
Tổng cộng 18 12

Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mì và rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại (là lúc hai nước cùng phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai loại sản phẩm). Lưu ý rằng phân tích của Ricardo kèm theo những giả định sau:

  • Không có chi phí vận chuyển hàng hoá.
  • Chi phí sản xuất cố định không thay đổi theo quy mô.
  • Chỉ có hai nước sản xuất hai loại sản phẩm.
  • Những hàng hoá trao đổi giống hệt nhau.
  • Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo.
  • Không có thuế quan và rào cản thương mại.
  • Thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết nơi có hàng hoá rẻ nhất trên thị trường quốc tế.

1. Các giả thiết

  • Phân tích mô hình thương mại có hai quốc gia và hai loại sản phẩm
  • Thương mại quốc tế hoàn toàn tự do
  • Các yếu tố sản xuất di chuyển trong phạm vi một quốc gia, nhưng không được di chuyển ra bên ngoài
  • Chi phí sản xuất là cố định
  • Không có chi phí vận chuyển
  • Công nghệ của hai quốc gia là như nhau
  • Dựa trên lý thuyết tính giá trị bằng lao động

2. Quy luật lợi thế so sánh

Theo nguyên tắc của lợi thế so sánh, nếu một quốc gia kém hiệu quả hơn (bất lợi thế tuyệt đối) so với quốc gia khác trong việc sản xuất cả hai loại hàng hóa thì thương mại vẫn xảy ra và đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Một quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu hàng hóa mà nước đó có lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) và nhập khẩu hàng hóa mà nước đó không có lợi thế so sánh. Quy luật này sẽ được làm sáng tỏ bằng ví dụ sau đây.

Ví dụ minh họa

Bảng 1: Ví dụ minh họa lợi thế so sánh

Mặt hàng Mỹ Anh
Lúa mì – W (kg/người/giờ) 6 1
Vải – C (mét/người/giờ) 4 2

Trong 1 giờ lao động, Mỹ sản xuất được 6 kg lúa mì, lớn hơn so với 1 kg lúa mì mà Anh sản xuất trong thời gian tương đương. Tương tự, Mỹ sản xuất được 4 mét vải, lớn hơn so với 2 mét vải mà Anh sản xuất. Do đó, Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả lúa mì và vải, còn Anh bất lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng.

Tuy nhiên, nếu so sánh giữa sản xuất lúa mì và vải thì Mỹ có năng suất lao động gấp Anh 6 lần về sản xuất lúa mì và 2 lần về sản xuất vải. Do đó, Mỹ có lợi thế tương đối về sản xuất lúa mì (6 > 2). Anh có năng suất lao động về sản xuất lúa mì bằng 1/6 của Mỹ và năng suất lao động về sản xuất vải bằng 1/2 Mỹ. Do đó, Anh có lợi thế tương đối về sản xuất vải (1/2 > 1/6).

Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ có lợi từ thương mại quốc tế nếu Mỹ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì và xuất khẩu một phần để đổi lấy vải được sản xuất tại Anh (cùng lúc đó, Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu vải).

Lưu ý trong mô hình hai quốc gia với hai loại hàng hóa, khi chúng ta quyết định một quốc gia có lợi thế so sánh về một loại hàng hóa nào đó thì quốc gia còn lại sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng khác.

Khái niệm lợi thế so sánh là gì?

Trong kinh tế học, lý thuyết lợi thế so sánh (Comparative Advantage) đề cập đến khả năng của một bên (có thể là một cá nhân, một công ty hoặc một quốc gia) trong việc sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể với chi phí cơ hội thấp hơn một bên khác. Đó là khả năng sản xuất một sản phẩm hiệu quả nhất so với tất cả các sản phẩm khác có thể được sản xuất. Lợi thế so sánh có thể được xem là đối lập với lợi thế tuyệt đối đề cập đến khả năng của một bên sản xuất một hàng hóa cụ thể với chi phí tuyệt đối thấp hơn bên khác. Đây là lý do tại sao thương mại có thể tạo ra giá trị cho cả hai bên - bởi vì mỗi bên có thể tập trung vào hoạt động mà họ có chi phí cơ hội thấp hơn.

Lợi thế so sánh giải thích cách thương mại có thể tạo ra giá trị cho cả hai bên ngay cả khi một bên có thể sản xuất tất cả hàng hóa với ít nguồn lực hơn bên kia. Lợi ích ròng của một kết quả như vậy được gọi là lợi nhuận từ thương mại. Đây là khái niệm chính của lý thuyết thuần túy về thương mại quốc tế.

Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo được xây dựng trên cơ sở

Lợi thế so sánh là gì?

Lợi thế tuyệt đối và Lợi thế so sánh: Sự khác biệt là gì?

18/03/2021
Facebook
Twitter
Telegram
Email
Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo được xây dựng trên cơ sở