Phùng chí kiên là ai

.

Cập nhật lúc: 21:09, 17/05/2021 (GMT+7)

Tại hội thảo Đồng chí Phùng Chí Kiên với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An đã được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Nghệ An phối hợp tổ chức mới đây, GS-TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương đánh giá: “Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Phùng Chí Kiên đã vượt qua mọi gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hoạt động trong hoàn cảnh bí mật, đầy gian nguy, thách thức, đồng chí vẫn luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng và con đường đã chọn, hết mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, nêu tấm gương sáng về tinh thần kiên trung, bất khuất của người cộng sản…”.

* Sớm tham gia cách mạng

Đồng chí Phùng Chí Kiên, tên khai sinh là Nguyễn Vỹ, còn có tên khác là Mạnh Văn Liễu, sinh năm 1901 tại làng Mỹ Quan, tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên), H.Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Tham gia học tập và lao động từ rất sớm, nhất là trong phong trào công nhân, vì vậy, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc, Phùng Chí Kiên là một trong những người đầu tiên tham gia Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu - Trung Quốc (1925-1927).

Tháng 10-1926,  Phùng Chí Kiên cùng một số hội viên được giới thiệu sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Trường Quân sự Hoàng Phố là nơi đào tạo nhiều nhà lãnh đạo quân sự nổi tiếng của cả Quân đội Trung Hoa Dân quốc và Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Tuy trường chỉ đào tạo được 5 khóa và sau đó phải đóng cửa, song đã có một số người Việt Nam tham gia học tập ở ngôi trường nổi tiếng này như: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Vương Thừa Vũ, Nam Long, Phùng Thế Tài…

Năm 1927, Tưởng Giới Thạch khủng bố cộng sản, nhà trường bị đóng cửa. Phùng Chí Kiên cùng với một số cán bộ Việt Nam gia nhập Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo và tham gia khởi nghĩa Quảng Châu (ngày 12-12-1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, làm Đại đội trưởng Hồng quân công nông Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa thất bại, quân cách mạng rút về xây dựng khu Xô Viết ở 2 huyện Hải Phong và Lục Phong. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, Phùng Chí Kiên gia nhập Đảng và được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu đi học tại Trường đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản ở Moskva vào tháng 2-1931. Tuy nhiên, khi đến Mãn Châu, ông bị phát xít Nhật bắt giam gần một năm. Ra tù, Phùng Chí Kiên đổi tên là Can rồi tiếp tục lên đường sang Liên Xô học.

Từ năm 1933-1934, ông học tại Trường đại học Phương Đông. Năm 1934, ông về Hương Cảng, tham gia Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, cùng Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) vào năm 1935; được đại hội bầu vào Thường vụ Ban chấp hành Trung ương phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936, Phùng Chí Kiên về Sài Gòn hoạt động cùng Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở Đông Dương theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII của Quốc tế cộng sản và Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 16-7-1936, nhằm đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình.

* Một cuộc đời cách mạng sôi nổi

Từ năm 1938, Phùng Chí Kiên tham gia Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương và xuất bản Báo Đồng thanh ở Côn Minh (Trung Quốc). Đầu năm 1940, Phùng Chí Kiên hoạt động với Nguyễn Ái Quốc ở Côn Minh và nhiều lần đưa Nguyễn Ái Quốc đến các nơi như: Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chi Thôn... thuộc tỉnh Vân Nam. Trong tập Hồi ký Đầu nguồn, tác giả Vũ Anh cho biết Phùng Chí Kiên là người thường xuyên đi lại giữa Việt Nam và Trung Quốc để báo cáo tình hình cách mạng Việt Nam cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Tháng 6-1940, Phùng Chí Kiên cùng Nguyễn Ái Quốc về Tĩnh Tây, một thị trấn thuộc tỉnh Quảng Tây giáp biên giới Trung Quốc - Việt Nam để chuẩn bị về nước khi có thời cơ. Ngày 28-1-1941, Phùng Chí Kiên cùng Hồ Chí Minh về Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Ông tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi. Ông tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương; được cử trực tiếp tổng chỉ huy Khu căn cứ Bắc Sơn, thành lập và chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân 1, tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn. Trong trận chống càn khi thực dân Pháp tấn công vào căn cứ địa tháng 6-1941, Phùng Chí Kiên đã chỉ huy đội Cứu quốc quân Bắc Sơn chiến đấu, phá một số trận càn lớn của Pháp. Tuy nhiên sau đó vào ngày
21-8-1941, đơn vị của ông lại bị phục kích và bị bao vây tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng, mặc dù bị thương nặng, Phùng Chí Kiên vẫn bắn chặn quân đối phương để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng, ông bị đối phương bắt.

Ngày 22-8-1941, thực dân Pháp đã xử tử ông bằng cách chặt đầu rồi đem cắm ở đầu cầu Ngân Sơn để hòng uy hiếp tinh thần cán bộ, nhân dân địa phương. Đây là một giai đoạn khó khăn của cách mạng Việt Nam bởi vì sau đó đúng 5 ngày, tại Sài Gòn, thực dân Pháp đã xử bắn nhiều nhà lãnh đạo tối cao của Đảng như các Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Bí thư và Ủy viên Xứ ủy Nam bộ Võ Văn Tần và Nguyễn Hữu Tiến, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác.

* Nhà lãnh đạo quân sự đầu tiên

Đối với lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 1948 được ghi dấu ấn là năm Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong tướng cho các vị chỉ huy đầu tiên của Quân đội, trong đó có Sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ; Sắc lệnh số 107/SL bổ nhiệm thiếu tướng Lê Thiết Hùng làm Tổng thanh tra Quân đội; sắc lệnh phong quân hàm trung tướng cho ông Nguyễn Bình; các ông Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong quân hàm thiếu tướng. Tuy nhiên, Phùng Chí Kiên mới là vị tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Để lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cùng với việc xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương khi ấy đã quyết định thành lập lực lượng vũ trang. Tổ chức vũ trang đầu tiên do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập chính là Đội du kích Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn chính thức được thành lập trong một buổi lễ tổ chức tại khu rừng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) ngày
14-2-1941. Ban đầu, các đồng chí Chu Văn Tấn và Lương Văn Tri là những nhà lãnh đạo của Đội du kích Bắc Sơn, từ tháng 6-1941, đồng chí Phùng Chí Kiên là người chỉ huy tổ chức quân sự này.

Ngày 19-5-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Cùng với sự kiện này là việc đổi tên các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trước đây thành các hội cứu quốc. Đồng chí Phùng Chí Kiên tiếp tục được bầu là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách quân sự, trực tiếp chỉ huy khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Trung đội Cứu quốc quân.

Sau đó, các Trung đội Cứu quốc quân thứ hai và thứ 3 lần lượt được thành lập và đến ngày 15-5-1945, sau Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, theo chủ trương của Đảng, các Trung đội Cứu quốc quân sáp nhập với Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành Việt Nam Giải phóng quân.

Như vậy, có thể thấy, Phùng Chí Kiên là nhà lãnh đạo quân sự đầu tiên của cách mạng Việt Nam sau khi có Đảng. Vì vậy, sau ngày đồng chí Phùng Chí Kiên hy sinh, ngày 23-7-1947, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 89/SL truy phong cấp tướng cho đồng chí Phùng Chí Kiên. Đây là sắc lệnh phong tướng đầu tiên của Nhà nước ta (truy phong). Tháng 11-2003, đồng chí Phùng Chí Kiên được Đảng, Chính phủ ra quyết định công nhận là nguyên Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng (khóa I), cán bộ lãnh đạo quân đội cấp tướng, liệt sĩ hy sinh anh dũng trong chiến đấu.

Vũ Trung Kiên

KỶ NIỆM 120 NĂM NGÀY SINH ĐỒNG CHÍ PHÙNG CHÍ KIÊN

 ( 18/5/1901 - 18/5/2021 )

          Đồng chí Phùng Chí Kiên tên thật là Nguyễn Vĩ, sinh ngày 18/5/1901 trong một gia đình nông dân ở làng Mỹ Quan, tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) một quê hương giàu truyền thống cách mạng. Học hết bậc sơ học, do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, Nguyễn Vĩ phải nghỉ học ở nhà làm ruộng. Vốn là người thông minh, có ý chí, ham học hỏi nhưng lớn lên trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, tận mắt chứng kiến bao nỗi đau của quê hương, đất nước, Nguyễn Vĩ đã sớm mang trong mình những khát khao, hoài bão cứu nhà, cứu nước, cứu dân.

          Năm 1925, Nguyễn Vĩ ra làm thuê ở ga Yên Lý, Diễn Châu. Tại đây, Nguyễn Vĩ gặp gỡ, giao lưu với nhiều tầng lớp người, nhiều luồng tư tưởng, trong đó có cả những người đã từng tham gia Hội Duy Tân của Phan Bội Châu, qua đó, Nguyễn Vĩ đã biết được những hoạt động của Hội và sớm tiếp cận ánh sáng tư tưởng tiến bộ; được biết những tin tức về thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, về phong trào cộng sản quốc tế, về những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu. Thời gian này, Tổng hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu, Trung Quốc đã cử cán bộ về Nghệ Tĩnh hoạt động, Nguyễn Vĩ được giác ngộ, dìu dắt, giúp đỡ, kết nạp vào Hội.

          Tháng 10/1926, Nguyễn Vĩ được tổ chức cử đến Quảng Châu, dự lớp huấn luyện chính trị đầu tiên do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Nguyễn Vĩ đổi tên là Phùng Chí Kiên, sau khóa học, Phùng Chí Kiên được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Năm sau, do Tưởng Giới Thạch phản bội, nhà trường bị đóng cửa, Phùng Chí Kiên cùng với cán bộ cách mạng Việt Nam đứng về phía Đảng Cộng sản Trung Quốc chống lại hành động phản cách mạng của bọn quân phiệt.

          Tháng 12/1927, khi khởi nghĩa ở Quảng Châu nổ ra, Phùng Chí Kiên chỉ huy một đơn vị của đội quân cộng sản. Ngày 30/12/1928, đồng chí Phùng Chí Kiên bị quân Tưởng bắt và giam trong nhà tù Quảng Châu. Sau 9 tháng giam cầm, Phùng Chí Kiên được trả tự do và trở lại Trường Quân sự Hoàng Phố.

Tháng 12/1929, Phùng Chí Kiên được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, gia nhập Hồng quân và thời gian sau được tín nhiệm và được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, quân đoàn 2, Hồng quân Đông Giang.

          Tháng 12/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương gọi Phùng Chí Kiên về Hồng Kông. Tại đây, Đồng chí được gặp lại Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được truyền đạt những chủ trương, đường lối mới của Đảng sau Hội nghị hợp nhất. Những ngày ở Hồng Kông, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tháng 1/1931, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi Phùng Chí Kiên sang học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản.

          Năm 1934, đồng chí Phùng Chí Kiên về Ma Cao, Trung Quốc và tham gia Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Tháng 3/1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao, Trung Quốc, đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định vào Ban Thường vụ của Đảng.

          Giữa năm 1937, đồng chí Phùng Chí Kiên được cử về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Do yêu cầu mới của cách mạng, cuối năm 1937, Đồng chí quay lại Hồng Kông, Trung Quốc lãnh đạo Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng thay cho đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động. Với tư cách là người được Ban Chấp hành Trung ương phân công phụ trách công việc ở ngoài, Đồng chí không thể rời bỏ công việc của mình và thường xuyên giữ liên lạc không bị ngắt quãng với trong nước, với Đảng Cộng sản Xiêm, Đảng Cộng sản Trung Quốc cho đến cuối tháng 10/1938 khi Đồng chí bị bắt. Sau khi được trả tự do và bị trục xuất khỏi Hồng Kông, đồng chí Phùng Chí Kiên đến tỉnh Quảng Đông, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Giữa năm 1939, Phùng Chí Kiên có mặt tại Côn Minh, sẵn sàng cho những công việc mới của Đảng, của cách mạng trong hoàn cảnh mới.

          Đầu năm 1940, Nguyễn Ái Quốc đến Côn Minh, Trung Quốc, thời gian này, Phùng Chí Kiên được làm việc gần Người và nhiều lần đưa Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi thăm và khảo sát những cơ sở cách mạng dọc tuyến đường sắt Côn Minh – Hà Khẩu.

          Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức, Nhật nhảy vào Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc xem đây như là thời cơ đã từng mong đợi cho việc trở về nước của mình, Người cùng với Ban Chỉ huy ở ngoài lựa chọn địa điểm trở về Tổ quốc.

          Ngày 28/1/1941, Phùng Chí Kiên theo Nguyễn Ái Quốc về Pắc Bó, tỉnh Cao Bằng. Ở đây, Đồng chí hoạt động bên cạnh Người và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, bảo vệ khu căn cứ. Để có tài liệu giảng dạy cho cán bộ địa phương, Nguyễn Ái Quốc lại giao cho Phùng Chí Kiên soạn thảo các bài viết về “Con đường giải phóng dân tộc”, trong đó có nội dung về đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng, chiến thuật chiến tranh du kích, đồng thời tổ chức các lớp huấn luyện quân sự cho các địa phương ở  Cao Bằng, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi.

          Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5/1941), đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được phân công phụ trách công tác quân sự Đảng, trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Đội Cứu quốc quân.

          Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, gây tiếng vang lớn trong cả nước, làm thực dân Pháp ra sức tìm cách đối phó. Cuối tháng 6/1941, chúng mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ cách mạng của ta nhằm bắt các đồng chí lãnh đạo Đảng, tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh và lực lượng vũ trang cách mạng mới hình thành. Chúng huy động tới 4.000 quân, đủ các sắc lính cùng bọn cường hào phản động địa phương, tổ chức tấn công khu căn cứ. Phùng Chí Kiên chỉ huy đội Cứu quốc quân Bắc Sơn chiến đấu, phá một số trận càn lớn của Pháp. Do chênh lệch lực lượng và vũ khí, Ban lãnh đạo căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại một tiểu đội chặn đối phương, còn hai tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng để bảo toàn lực lượng.

          Ngày 19/8/1941, cánh quân do đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri (Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ) chỉ huy qua Pò Kép (châu Na Rì, Bắc Kạn) thì bị địch phục kích, nhưng đơn vị thoát được. Ngày 21/8, đơn vị lại bị phục kích tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng. Mặc dù bị thương nặng, đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn giữ chặt khẩu súng, bắn chặn quân địch để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng, đồng chí sa vào tay giặc.

          Ngày 22 tháng 8 năm 1941, địch chặt đầu Đồng chí rồi đem cắm ở đầu cầu Ngân Sơn để hòng uy hiếp tinh thần cán bộ và nhân dân địa phương.

Ngày 23/9/1947, ghi nhận công lao của đồng chí Phùng Chí Kiên trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 89/SL truy phong cấp tướng cho đồng chí Phùng Chí Kiên. Đây là sắc lệnh phong tướng đầu tiên của Nhà nước ta.

          Tháng 11/2003, Đảng, Chính phủ ra quyết định công nhận đồng chí Phùng Chí Kiên là nguyên Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng (khóa I), cán bộ lãnh đạo quân đội cấp tướng, liệt sĩ hy sinh anh dũng trong chiến đấu.

          Cuộc đời, sự nghiệp của đồng chí Phùng Chí Kiên để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một gương sáng mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản trên nhiều phương diện. Đó là tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, giữ vững ý chí chiến đấu đến cùng

          Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Phùng Chí Kiên, là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của Đồng chí đối với cách mạng Việt Nam; qua đó giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc; cổ vũ, động viên các tầng lớp Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam học tập, noi theo, góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước./.