Phân tích về mối tình Mị Châu -- Trọng Thủy

Theo Đại viêt sử ký toàn thư, sau nhiều lần giao tranh với An Dương Vương không thắng được, Triệu Đà sai Trọng Thủy sang nước Âu Lạc, hầu trong cung An Dương Vương làm túc vệ, rồi cầu hôn công chúa Mỵ Châu. An Dương Vương bằng lòng, cho Trọng Thủy lấy con gái mình.

Trong thời gian ở Âu Lạc gửi rể, Trọng Thủy đánh cắp các bí mật quân sự của Âu. Truyền thuyết kê rằng, Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ gãy lẫy nỏ, thay cái khác vào. Sau khi phá được bí mật quân sự của Âu Lạc, Trọng Thủy xin An Dương Vương về thăm cha mẹ. An Dương Vương bằng lòng. Trọng Thủy báo lại cho Triệu Đà mọi việc.

Triệu Đà lại phát binh đánh Âu Lạc, sai Trọng Thủy cầm quân. An Dương Vương chủ quan vì có vũ khí “nỏ thần”, khi ra trận mới biết vũ khí không còn hiệu nghiệm, thua trận mang Mỵ Châu chạy về phía nam.

Trọng Thủy theo lời dặn của Mỵ Châu trước khi chia tay, cứ theo dấu lông ngỗng mà Mỵ Châu rắc ra đường làm dấu mà đuổi theo. An Dương Vương nhận ra chính con gái tiếp tay cho họ Triệu, liền giết chết Mỵ Châu rồi tự vẫn. Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ Châu đã chết, thương khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành. Vì thương tiếc nhớ tiếc Mỵ Châu, Trọng Thủy trở lại chỗ Mỵ Châu tắm gội trang điểm khi trước, cuối cùng nhảy xuống giếng mà chết.

Phân tích về mối tình Mị Châu -- Trọng Thủy

Giếng Trọng Thủy ở Thành Cổ Loa

Có nhiều ý kiến cho rằng câu chuyện tình giữa Trọng Thủy và Mỵ Châu được ghi chép trong các bộ sử của nước ta trước đây là mang tính huyền thoại với mục đích lý giải cho sự thất bại của An Dương Vương trong cuộc kháng chiến chống Triệu 179 TCN. Tuy nhiên, trên cơ sở khai thác và phân tích các nguồn tư liệu khác nhau, câu chuyện này đang được minh chứng không chỉ là câu chuyện truyền thuyết.

Trong thời gian gần đây, khảo cổ học đã phát hiện ra mộ của Triệu Văn Vương ở Quảng Châu (Quảng Đông, Trung Quốc). Trên cơ sở các văn tự và các di vật được tìm thấy có thể khẳng định Triệu Văn Vương (Triệu Muội hay Triệu Hồ) nối ngôi Triệu Vũ Đế vào năm 137 TCN. Triệu Muội là cháu đích tôn của Triệu Đà, con cả của Trọng Thủy (với người vợ ở Quảng Đông). Như thế có thể biết đến năm 137 TCN Trọng Thủy đã mất, và vì mất trước cha nên ngôi vua mới được truyền cho cháu nội.

Trong Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ thế kỷ XVIII có chép về việc Nguyễn Công Hãng sang Trung Quốc bị tướng nhà Thanh đòi nước giếng để rửa ngọc trai. Ông đã đứng đối giỏi mà phá được lệ đó. Nhân dân Cổ Loa cũng cho biết, xưa kia chúng ta phải cống nước giếng Ngọc sang Trung Quốc.

Tổng hợp các nguồn tư liệu, có thể xác định Trọng Thủy là nhân vật có thật và câu chuyện tình Mỵ Châu – Trọng Thủy cũng có nhiều yếu tố xác thực.

Dù hiện nay chúng ta chưa có đủ tư liệu để xác minh những vấn đề trên nhưng có một thực tế là huyền thoại về Trọng Thủy và Mỵ Châu cũng như câu chuyện tình của họ được phản ánh một cách đậm đặc trong các truyền thuyết dân gian khu vực Cổ Loa.

Tương truyền, dù Mỵ Châu bị An Dương Vương giết chết nhưng được rùa vàng giúp sức, nàng hiện hồn lên trên thuyền ở giếng Ngọc. Và, khi Trọng Thủy trông thấy thì Mỵ Châu hát: “Hỡi anh hàng trứng nở ra hai lòng”, Trọng Thủy lại gần liền bị chém chết, máu chảy dọc sông Hồng. Vì thế, dọc hai bên sông Hồng còn nhiều đền thờ Triệu Đà và Trọng Thủy như ở xã Lực Canh, Xuân Trạch, Văn Tinh. Nhiều ý kiến lại cho rằng Trọng Thủy vốn không muốn nhưng vì bị ép buộc nên mới phải làm điều trái với lương tâm. Và sau khi Triệu Đà đánh bại An Dương Vương và ăn mừng chiến thắng, vì nhớ vợ Trọng Thủy ra giếng ngồi khóc và than rằng: “Thà rằng thác xuống cả đời. Còn hơn sống ở trên đời xa nhau”, rồi lao mình xuống giếng tự vẫn.

Phân tích về mối tình Mị Châu -- Trọng Thủy

Những thông tin, sự nhìn nhận đánh giá nhiều chiều về Trọng Thủy đã thấy cái nhìn đầy đủ hơn về nhân vật lịch sử này trong thời kỳ An Dương Vương. Trên thực tế, những quan niệm về Trọng Thủy trong tâm thức chính người dân Cổ Loa đã có những thay đổi nhất định.Từ một sự phê phán, lên án thì giờ đây đã có những sự bao dung, cảm thông hơn. Tục đãi dâu không đãi rể được coi là một phong tục, thể hiện sự phản ứng của người Cổ Loa với câu chuyện Trọng Thủy – Mỵ Châu thì giờ đây ít được nhắc đến hoặc có được nói tới thì với một thái độ khoan dung.

Trong suốt nhiều thế kỷ qua nhân dân làng Lực Canh, Xuân Trạch ( xã Xuân Canh, huyện Đông Anh) vẫn thờ cúng Trọng Thủy và mở hội hàng năm vào ngày 8 tháng 3 tại đền thờ của làng.

Hẳn là mỗi lần nhắc đến cái nỏ thần chúng ta đều nhớ đến câu chuyện “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu thể hiện được những buổi đầu dựng nước của ông cha ta. Đọc truyện ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả bi kịch tình yêu của nàng công chúa Mị Châu.

Trong truyền thuyết dân gian, An Dương Vương xuất hiện như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Nhờ sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành vững chắc và chế được nỏ thần – một vũ khí vô cùng lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc.

Năm ấy, Triệu Đà cử binh xâm lược phương Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua lớn, bèn xin giao hoà. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho con trai mình với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu – một người con gái nhẹ dạ cả tin đã thành thật giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, tạo điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với lý do “tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể vứt bỏ” và nói dối Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triệu Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành vẫn ung dung ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao? ”. Cho đến khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao ước, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt nước, thét lớn “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển.

Vì sao một con người tài trí như vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp lớn lao trong phút chốc? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần ? Đúng như vậy. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà An Dương Vương đã đánh thắng quân giặc nhưng cũng chính vì nó mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu kế bẩn thỉu của bọn xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà.

Nước mất nhà tan còn do vua An Dương Vương không hiểu được con gái của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của con gái yêu Mị Châu là nàng công chúa hết sức thật thà, nhẹ dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin tưởng vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật quốc gia.

Bên cạnh bi kịch mất nước còn là bi kịch tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy. Mối tình Mị Châu – Trọng Thủy là mối tình éo le, bởi song song và đan cài với sự nghiệp giữ nước Âu Lạc là mối tình của hai người, mà nguyên nhân của nó chính là bài học muôn đời cho những ai muốn đặt tình yêu cá nhân lên trên vận mệnh quốc gia, dân tộc, tác tình yêu khỏi những mối quan tâm chung.

Nếu có thể coi quan hệ Mị Châu – Trọng Thủy là một mối tình thì đó cũng không thể là mối tình chung thủy, bởi trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng vì chồng thì Trọng Thủy đã sẵn có âm mưu chiếm bí mật nỏ thần. Trọng Thủy đến Âu Lạc vì mục tiêu duy nhất đó. Nhưng những ngày ở Âu Lạc, bên cạnh người vợ đẹp người, ngoan nết, trong sáng và tin yêu. Trọng Thủy đã nảy sinh mối tình thật sự chân thành với Mị Châu, cũng là nảy sinh mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thủy, tham vọng chiếm được nước Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người đẹp. Vì vậy, trộm được nỏ thần, về nước để chuẩn bị chiến tranh, Trọng Thủy vẫn muốn tìm lại Mị Châu nhờ dấu lông ngỗng đưa đường, hy vọng sẽ sống với Mị Châu trên đất Âu Lạc mà mình làm bá chủ. Nhưng hai tham vọng đó làm sao có thể dung hòa ! Trọng Thủy có thể vừa chiếm nước Âu Lạc vừa tận hưởng hạnh phúc bên người con gái biết mình vô tình bán nước được chăng? Rắc lông ngỗng dọc đường chạy loạn, lại một lần nữa Mị Châu đã vô tình chỉ dẫn cho quân giặc đuổi theo, vô tình đưa hai cha con đến chỗ cùng đường. Nàng chỉ kịp nhận ra sự thật đau lòng đó trước lúc rơi đầu, khi Kim Quy kết tội nàng là “giặc”. Cái chết của Mị Châu khiến tham vọng của Trọng Thủy cũng tiêu tan. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ phải là người vui mừng hưởng thụ vinh quang thì Trọng Thủy lại tự tử vì nỗi “tiếc thương Mị Châu khôn cùng“. Thủy đã tự vẫn vì không thể chỉ chọn một trong hai tham vọng, chết vì bị giày vò bởi mối tình mâu thuẫn không thể giải quyết nổi trong con người anh. Cái chết đó đã gợi chút xót xa cho mọi người. Mối tình giữa Mị Châu – Trọng Thủy éo le, giang dở là do luôn có âm mưu gây chiến của Triệu Đà len lỏi vào. Nếu như Đà thực sự cầu hòa, nếu như hai nước đều lấy hòa bình làm trọng, thì mối tình Mị Châu – Trọng Thủy chẳng phải là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc sao? Kết thúc bi thảm của mối tình đó có nguyên nhân sâu xa từ âm mưu xâm lược và đã thực sự mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh.

Mị Châu mang phẩm chất của người phụ nữ truyền thống. Nhưng cũng vì vậy mà nàng đã gây ra bi kịch cho đất nước. Nàng một lòng tin tưởng và yêu thương chồng. Nàng đã dành cho chồng một tình yêu vô cùng chân thành và tha thiết. Ấy thế mà Trọng Thuỷ – con người bội bạc kia đã nỡ tâm chà đạp lên tình yêu đó. Hắn cưới nàng làm vợ chỉ vì mục đích lợi dụng để xâm lược Âu Lạc. Sao nàng lại có thể bỏ qua những câu nói lạ lùng, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc hai người chia tay: “Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một gợi nhắc, cảnh báo trước chuyện gì sẽ đến với đất nước nàng, Nhưng nàng lại thật thà đáp lại: “Thiếp thân phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đớn đau khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau”.

Trong thời phong kiến, không ít nhà Nho đã lấy đạo “tam tòng” để có ý minh oan cho Mị Châu. Họ nói rằng, phụ nữ “xuất giá tòng phu”, Mị Châu một dạ tin chồng, không giấu giếm Trọng Thủy điều gì là vô tội. Nhưng họ quên rằng, trong một đất nước nhiều giặc giã, một nàng công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ tòng mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có tội. Lời kết tội đanh thép của thần Rùa Vàng “Kẻ ngồi sau lưng ngựa chính là giặc đó” cũng chính là thái độ giận , thương minh bạch của nhân dân Âu Lạc đối với Mị Châu. Nàng Mị Châu trước khi chết cũng nhận ra tội lỗi của lớn của mình và không hề chối tội. Nàng chỉ muốn thanh minh “Nếu có lòng phản nghịch, mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù“. Nàng chỉ mong rửa tiếng “bất trung, bất hiếu”, chỉ muốn mọi người hiểu rằng mình “một lòng trung hiếu mà bị lừa dối” chứ không kêu oan, cũng không xin tha tội. Công chúa Mi Châu được người Âu Lạc xưa và người Việt Nam đời đời thương xót vì đã biết tội, dám nhận tội và cam lòng chịu tội. Nếu lấy đạo “tam tòng” để thanh minh cho Mị Châu, rằng nàng chỉ là phận gái, rằng nàng làm vợ chỉ cần phục tùng chồng là đủ thì chính là đã hạ thấp bản lĩnh và tư cách của nàng công chúa nước Âu Lạc này.

Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” ở phần kết truyện là hình ảnh đẹp. Một số người cho rằng đó là kết tinh của mối tình chung thủy Trọng Thủy – Mị Châu, bởi viên ngọc (vốn là máu Mị Châu chảy xuống biển, trai ăn phải mà thành) đem rửa vào giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy đã nhảy xuống tự tử) thì càng trong sáng hơn. Rồi sau đó, mấy chục năm, có một nhà thơ hiện đại cũng đầy mâu thuẫn khi viết về Mị Châu:

“Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường là cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu…”

Có phải tình yêu bị dối lừa vẫn là một tình yêu đẹp? Nói đúng hơn hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là hình ảnh tượng trưng cho sự hóa thân và gặp lại của hai người ở kiếp sau, đó không phải là biểu tượng của mối tình chung thủy mà chỉ là hình ảnh một nỗi oan tình được hóa giải mà thôi. Những viên ngọc là máu Mị Châu kết đọng lại sẽ không vì bất cứ ngoại cảnh nào mà đổi màu, nó chỉ càng sáng hơn, đẹp hơn trong thử thách.

Kết thúc bi thảm của cha con An Dương Vương trong được kể lại trong truyền thuyết mãi mãi là bài học nhắc nhở ý thức công dân của mỗi người đối với đất nước. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước đã khép lại câu chuyện, nhưng đó không phải là biểu hiện của tình yêu chung thủy mù quáng của Mị Châu đối với Trọng Thủy mà là sự thể hiện tập trung nhất nhận thức về lịch sử và lòng cảm thông sâu sắc của nhân dân đối với nhân vật này.