Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới

Bài văn mẫu Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang của Huy Cận dưới đây nhằm giúp các em hiểu hơn về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong một tác phẩm văn học cụ thể. Từ đó, các em có thêm kiến thức cần thiết khi làm văn. onthihsg chúc các em có những bài văn thật hay. Bên cạnh đó, các em có thể tham khảo thêm bài soạn văn Tràng giang.

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang

Dưới đây là hướng dẫn Sơ đồ tư duy vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang ngắn nhất chi tiết đầy đủ nhất :

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
Sơ đồ tư duy vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang ngắn nhất

Hướng dẫn Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang dàn ý mới nhất chi tiết nhất hãy cùng tham khảo va làm bài nhé !

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang dàn ý

A. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

  • Tác giả Huy Cận có hồn thơ cô đơn, buồn ảo não nhưng mang đậm chất cổ điển và hiện đại.
  • Tràng giang (sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng) là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, Tràng giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

B. Thân bài:

  • Cảm xúc chủ đạo của bài thơ Tràng giang là nằm ở nhan đề và lời đề từ của bài thơ. Cảm xúc ấy chính là hồn thơ của Huy Cận.
  • Bài thơ mở đầu với dòng sông ngoại cảnh cũng là dòng sông tâm hồn, nỗi buồn trải ra cùng lớp lớp sóng. Khác với trường giang hùng vĩ, cuồn cuộn của Lý Bạch, Đỗ Phủ, tràng giang của Huy Cận lặng lờ (sóng gợn, thuyền xuôi mái), nhuốm nỗi chia li (thuyền về nước lại, sầu trăm ngả). Củi lạc cành khô lạc mấy dòng là hình ảnh đời thực, gửi gắm ưu tư của tác giả về thân phận con người.
  • Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người (làng, chợ, bến) những cảnh hoang vắng, trơ trọi. Huy Cận đã học từ câu thơ dịch Chinh phụ ngâm (Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò), nhưng thêm một từ láy (Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu) khiến cảnh vật càng quạnh quẽ. Câu thơ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều nói đến âm thanh mà lại làm nổi bật cái vắng lặng.
  • Khổ thơ 3 thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi thân quen vừa giàu sức gợi. Những cảnh nghèo phiêu dạt giữa lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng phải chăng cũng là hình ảnh những kiếp người lênh đênh, vô định.
  • Nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là không gian mênh mông, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Con người cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật.
  • Nỗi cô đơn càng thấm thía lúc hoàng hôn. Được gợi từ câu dịch thơ Đỗ Phủ (Mặt đất mây đùn cửa ải xa), Huy Cận đã sáng tạo nên hình ảnh một hoàng hôn hùng vĩ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Cánh chim quen thuộc trong thơ ca về hoàng hôn đến Huy Cận cũng mang nét mới lạ: cái hữu hình của cánh chim nhỏ nghiêng xuống làm hiện lên cái vô hình của bóng chiều trĩu nặng; cánh chim giữa trời rộng gợi “cái tôi” cô đơn, rợp ngợp trước vũ trụ, trước cuộc đời.
  • Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng.
  • Tràng giang đồng thời thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lôi ra”.
  • Ở tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh thân quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều…), nhiều hình ảnh, tứ thơ được đợi từ thơ cổ.
  • Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…).

C. Kết bài:

  • Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.
  • Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển vừa hiện đại cũng là nét đặc trưng của phong cách Hụy Cận.

Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang ngắn nhất được tổng hợp đầy đủ những bài văn hay phân tích chất cổ điển trong bài Tràng giang cho các em học sinh tham khảo

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
Tổng hợp bài văn mẫu vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang ngắn nhất

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào Thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời… vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng giang. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập Lửa thiêng, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, thương cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Trước hết về chất cổ điển trong bài thơ Tràng giang, tinh thần trung của tập thơ Lửa thiêng không phải là sự chối bỏ quá khứ, với tập thơ này Huy Cận chủ trương có sự kết hợp, vận dụng những tinh hoa của văn học truyền thống vào các bài thơ của mình. Bởi vậy, không chỉ Tràng giang mà tất cả các bài thơ trong tập thơ này của ông đều có màu sắc của văn học cổ điển. Với tác phẩm này, nét cổ điển đầu tiên chính là ở đề tài, cảm hứng mà bài thơ đề cập đến. Đề tài đứng trước sông rộng, trời cao nhận thấy sự nhỏ bé, hữu hạn của con người là đề tài thường thấy trong văn học trung đại. Chất cổ điển đó thể hiện ở ngay nhan đề bài thơ, tuy là tác phẩm được sáng tác trong phong trào thơ mới nhưng lại có một cái tên rất cổ điển: Tràng giang. Tràng vốn là một âm đọc khác của trường – dài, còn giang là từ để chỉ chung tên của các dòng sông.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ Tràng giang là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai vầng ang đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ Tràng giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ Tràng giang mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Trước cảnh trời rộng, sông dài sa mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm bâng khuâng và nhớ. Từ láy bâng khuâng được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con sông dài, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộc sống lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Trong sự cô đơn đến tột cùng, Huy Cận tìm kiếm một hơi thở, một âm thanh của sự sống, nhưng chỉ nhận lại: “Đâu tiếng là xa vãn chợ chiều”. Là âm thanh nhỏ, vẳng lại khiến người nghe không thể xác định được rõ âm thanh đến từ đâu, âm thanh tưởng làm cho bức tranh tâm trạng đỡ quạnh hiu buồn bã, thì nay lại càng sầu muộn hơn vị sự quạnh quẽ, vắng lặng đến khôn cùng của không gian. Trong hai câu thơ cuối mặc dù ảnh hưởng từ câu thơ của Thôi Hiệu, nhưng cảm xúc của nhân vật không bị ẩn đi, mà được bộc lộ một cách trực tiếp: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Ngoài ra, những kết hợp từ mới lạ như: buồn điệp điệp, sâu chót vót đã tăng tính chất hiện đại cho bài thơ. Từ “buồn” kết hợp với từ láy “điệp điệp” khiến cho nỗi buồn mênh mông, dàn trải và kéo dài ra mãi. Từ sâu chót vót cũng là một sáng tạo từ đặc biệt, chót vót vốn chỉ dùng để chỉ độ cao, nhưng lại được Huy Cận kết hợp với từ sâu, khiến cho câu thơ mở rộng ra các chiều kích khác nhau, nhấn mạnh hơn nữa sự mênh mông của vũ trụ.

Trong thơ cổ, nỗi buồn hiu quạnh đã được gợi lên thông qua việc lấy không gian để miêu tả thời gian. Còn trong thơ Huy Cận, chúng ta cũng bắt gặp không gian trời chiều cùng cánh chinh đem đến phong vị cổ điển và gợi nhắc đến câu thơ của Vương Bột đời Đường: “Lạc hà cô lộ dữ tề phi” (Nắng chiều cùng cánh cò đơn chiếc đang bay). Cánh chim như một giọt nắng chiều đang rớt xuống và mang theo tâm trạng của người thi nhân.

Như vậy, bài thơ “Tràng giang” đã khắc họa bức tranh thiên nhiên về dòng sông gần gũi và quen thuộc, ẩn chứa bức tranh tâm trạng với nỗi sầu thiên cổ, sầu vũ trụ và sầu nhân thế. Tất cả đã được thể hiện qua sự quyện hòa của phong vị cổ điển và những nét hiện đại và mới mẻ.

Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là chủ soái dòng Tây, Nguyễn Bính là chủ soái dòng quê thì nhà thơ Huy Cận được coi là chủ soái dòng Đường. Sinh thời, một trong những gương mặt xuất sắc của phong trào thơ mới, còn được mệnh danh là “hồn thơ ảo não” ấy cũng đã tự nhận mình có ảnh hưởng không nhỏ của thơ ca cổ điển, nhất là thơ Đường. Bởi vậy sáng tác của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Bài thơ Tràng giang, ra đời vào năm 1939, in trong tập “Lửa thiêng” đã xuất sắc thể hiện một cái tôi đa sầu, đa cảm qua màu sắc nghệ thuật rất đặc trưng đó.

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong khổ 1 bài thơ tràng giang

Cổ điển và hiện đại là sự kết hợp của hai màu sắc nghệ thuật vô cùng độc đáo trong sáng tác của những nhà thơ tài năng. Đối với nhà thơ Huy Cận sự kết hợp của hai màu sắc đó chính là yếu tố làm nên phong cách nghệ thuật của thơ ông. Bài thơ Tràng giang có sự kết hợp đầy sáng tạo giữa hai yếu tố ấy tạo nên một dấu ấn rất riêng để Huy Cận khẳng định cái tôi buồn bã, cô đơn trước cuộc đời qua một nguồn cảm hứng bất tận với không gian của vũ trụ bao la.

Tựa đề của bài “Tràng Giang” xuất phát từ nghĩa Hán-Việt. “Tràng” là dài, “Giang” là sông, kết hợp lại “Tràng Giang” mang nghĩa là “Sông Dài”. Nhưng tại sao nhà thơ lại không đặt nhan đề của bài là “Sông Dài” mà lại lấy là “Tràng Giang”. Bởi lẽ “Tràng Giang” mang một sắc thái cổ kính, trang nhã, vần “ang” gợi nên sự mênh mang, bát ngát của sóng nước, còn là nỗi niềm của nhà thơ cũng mênh mang, vô định. Hai từ “Tràng Giang” như cho ta một nét buồn man mác, mang màu sắc cổ điển. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã toát lên không chỉ là cảnh mà còn là tình. Cảnh “trời rộng sông dài” còn tình người “bâng khuâng”. Bên cạnh đó, câu đề từ cũng gợi ra nét nhạc chủ âm cho bài thơ. Nét đẹp cổ điển của Tràng giang hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại mang nỗi buồn da diết: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Một hình ảnh đẹp đẽ của sóng gợn những từ ngữ “buồn điệp điệp” ở cuối câu thơ đã làm cho ta một cảm nhận về nỗi buồn dạt dào. Hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” vẽ lên vẻ đẹp thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ, nhưng cũng không làm trôi đi nỗi sầu. Câu thơ cuối bài: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường, được nhà thơ Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Qua đó nói lên nỗi sầu xa xứ, nỗi buồn đau trăn trở và thêm da diết, ý thơ thêm sâu, tình thơ thêm lặng.

Chính nhà thơ Huy Cận từng tâm sự, ban đầu Tràng giang có dự định là một bài thơ Đường theo thể thất ngôn bát cú. Bởi cảm xúc của một chàng sinh viên buồn bã trước thời cuộc, nhớ nhà, nhớ quê hương da diết đã khiến ông bật thành những câu thơ thất ngôn mang âm hưởng Đường thi. Có lẽ bởi vậy mà ngay từ nhan đề cho tới lời đề từ và xuyên suốt cả bốn khổ thơ, màu sắc cổ điển trong bài đã hiển hiện như một mạch nguồn kết nối tạo nên cái dư vang cho cái điệu buồn thương, ảo não rất đặc trưng của hồn thơ Huy Cận.

Thật vậy, nét cổ điển của bài thơ được gợi lên ngay từ nhan đề “Tràng giang”. Nếu đặt là “Chiều trên sông” như ban đầu thì sẽ không có được điều đó. “Tràng giang” là một từ Hán Việt, có nghĩa là một con sông dài, với điệp vần “ang” vừa tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng vừa có âm hưởng ngân vang dài rộng hơn. Bởi vậy thi đề khiến độc giả cảm nhận như tên một bài thơ Đường nào đó. Thêm vào nữa là lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài – một câu thơ thất ngôn vẽ nên một khung cảnh cũng rất Đường thi. Đó là cảm xúc buồn bã, cô đơn của con người trước một không gian rộng lớn bát ngát của trời, của sông mà ta cũng hay bắt gặp trong thơ của một thi sĩ xưa nào đó. Màu sắc cổ điển ngay từ ban đầu đã dẫn dắt cảm xúc của nhân vật trữ tình, khơi dậy nguồn cảm hứng để vẽ nên một khung cảnh đẹp, mênh mông có khả năng chất chứa nỗi sầu nhân thế của nhà thơ.

Trong khổ thơ cuối ta nhìn thấy nhiều nét đẹp cổ điển hơn, mặc dù câu thơ đầu “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,” là một câu thơ được Huy Cận lấy ý từ một bài thơ cổ của Đỗ Phủ, trong câu “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”, nhưng nhà thơ đã có sự sáng tạo trong việc sử dụng từ láy “lớp lớp” khiến người ta liên tưởng đến độ dày đặc của mây vờn quanh núi, khiến màu núi gần như màu bạc. Trong đó, từ “đùn” lại mang đến một nét động cho bài thơ, một nét hiện đại, bởi giữa cái yên ắng, tĩnh lặng ta lại mới thấy được một cái động tĩnh là như thế. Đến câu “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”, hình ảnh chim nghiêng cánh vốn đã quá quen thuộc trong thơ ca cổ điển, nó mang lại một cái ý thức thời gian kín đáo, dợn buồn. Nhưng đến hai câu sau trái ngược với nét cổ điển của câu trước thì lại là tâm tư thật giản dị và rõ ràng của tác giả thông qua những câu chữ hết sức thẳng thắn, nhà thơ đang nhớ nhà, nhớ quê, đây là cái nét hiện đại của hồn thơ Huy Cận, không ước lệ trong những cảm xúc cốt yếu của mình.

Nét hiện đại trong bài thơ còn được nhà thơ thể hiện qua những cảm xúc chân thật nhất của “một chiếc linh hồn nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu”. Cái tôi cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng trước dòng đời đã được nhà thơ thể hiện một cách trực tiếp, thẳng thắn. Ông đã tái hiện một khung cảnh rộng lớn, mênh mông thuộc về vũ trụ trên tràng giang để tìm chốn ẩn náu cho cái tôi của chính mình. Hơi thở hiện đại chính là từ cảm xúc bất lực của cả một thế hệ đương thời trong hoàn cảnh mất nước. Tất cả điều đó được gửi gắm vào những sự vật nhỏ bé trên dòng tràng giang mênh mông kia. Cái tôi ấy gửi sóng lòng mình theo nỗi buồn điệp điệp, theo mối sầu trăm ngả, theo cành củi khô lạc mấy dòng, theo chiếc cồn nhỏ gió đìu hiu, theo cái bến cô liêu, theo những hàng bèo nối tiếp nhau… mà không đủ sức đối chọi với trời rộng, sông dài. Nỗi buồn cứ từ ấy lan tỏa mênh mông, bận tận đến khi mãi chẳng có điểm dừng. Trái tim thi nhân bỗng rung lên một nỗi niềm cô đơn, lạc lõng. Mọi thứ trôi nổi, bấp bênh, vô định, thiếu vắng sự thân mật của sự sống con người. Nên cái tôi mới dợn dợn trào dâng một nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương khi đang đứng ngay trên quê hương. Tâm sự ấy chính là dấu ấn của cái tôi đương thời, của nỗi niềm yêu quê hương, đất nước thầm kín. Cái tôi đó không lẫn vào đâu được trong tinh thần chung của thơ mới.

Không thể phủ nhận, một phần giá trị rất lớn của Tràng giang chính là ở bút pháp nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại. Phong cách nghệ thuật đặc trưng này của Huy Cận được thể hiện trong bài Tràng giang nói riêng và nhiều bài thơ khác của ông trước cách mạng nói chung, thực sự góp phần làm nên sự phong phú, sáng tạo và độc đáo của phong trào thơ mới. Huy Cận không chỉ khiến chúng ta nhớ là một “hồn thơ ảo não” mà còn là nhà thơ của phong cách nghệ thuật cổ điển và hiện đại này.

Nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: “Nỗi buồn, nỗi sầu là âm hưởng chủ đạo khiến” Lửa thiêng “như một phiên bản của một cơn tang dài. Tập thơ chứa đầy những nỗi niềm trần thế, những nỗi niềm của cuộc đời”. Trong số đó, độc giả biết đến Huy Cận nhiều nhất qua bài thơ Tràng giang, trích trong tập thơ này. “Tràng Giang” đã khắc họa thành công lăng kính cổ kính nỗi buồn và hiện thực tinh tế. Chính vì vậy mà bài thơ Tràng Giang của Huy Cận đã khắc họa thành công vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong khổ cuối bài thơ tràng giang

Có thể thấy sự phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Tràng Giang trong bố cục và nhan đề của bài thơ. Theo tác giả, bài thơ này được lấy cảm hứng từ cảnh sông nước lớn sông Hồng. Huy Cận thú nhận: “Một buổi chiều mùa thu năm 1939, tôi đạp xe dọc bờ sông Cái, có đoạn đi bộ, chiều trên bờ kè sông đẹp quá trời nhạt nhòa, mây giăng giăng mắc. Bên sườn núi nỗi niềm khôn tả, Nửa gần, nửa xa cô đơn ”. Vì vậy, bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong bài thơ này đã gần như trở thành một tác phẩm kinh điển, và tâm hồn của nó là một nỗi buồn u uất, mênh mang, cô đơn. Với mỗi khổ thơ, tác giả lại thêm một nét buồn để gợi cho lòng người một nỗi buồn.

Tất cả những điều này đến và đi như một làn sóng, vẫn bao la, nhưng cằn cỗi và mục nát, khô héo, bất lực, trôi nổi, chia tay, trôi, trôi… Trước không gian ba chiều bao la, con người luôn chan hòa tình nước, khát khao hòa hợp, yêu thương nhân loại. thể loại. Thiên nhiên luôn là đề tài chung cho các thi nhân và là nguồn cảm hứng dồi dào, bất diệt. Nhưng dường như hình bóng con người, cái bóng của cá nhân, là một nét mới hoàn toàn thoát khỏi cái “tôi” cổ đại và trung cổ và khám phá chiều kích bên trong. Là nhà thơ nổi tiếng của trào lưu thơ cách tân, Huy Cận đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong thơ ca bằng việc gìn giữ, bảo tồn nét cổ điển của thơ xưa và có những khám phá đáng ngạc nhiên trên hành trình thơ của mình. Mới.

Nhan đề ‘Jjangjang’ xuất phát từ một biến thể của từ ‘changjang’, hai âm Hán Việt và vần ‘ang’ kết hợp với nhau khiến dòng sông trong bài thơ bỗng dài ra, rộng ra, hoang tàn và rùng rợn. lấn át tâm trí người đọc. Nó có chú thích “Em nhớ sông dài” với anh. Lời tựa này được coi như cảm xúc chủ đạo của bài thơ, qua đó người đọc nhập tâm và phân tích giá trị của bài thơ.

Vẻ đẹp cổ điển và đương đại của bài thơ còn được khơi nguồn từ chủ đề, cảm hứng và chất liệu thơ. Tràng giang đầy ắp thời gian, không gian vô hạn và những nỗi niềm xa xưa của một con người nhỏ bé, hữu hạn trước vô hạn. Bài thơ chỉ gồm bốn khổ và mở đầu bằng màu chia li.

“Sóng buồn sầu Thuyền đi dưới mái nhà song song Tàu về quê trăm chiều buồn.

Cành củi khô nằm vài hàng ”

Chúng tôi sử dụng hàng loạt chất liệu thơ từ khi nhà thơ sử dụng sóng, tàu, nước. Sự xuất hiện của củi khô ở câu thơ cuối là một hình ảnh mới lạ, độc đáo, là vẻ đẹp giản dị, tầm thường của văn học hiện đại. Nhưng màu nước đẹp mang đầy nỗi niềm: “Có nỗi buồn của một thế hệ thời ấy, nỗi buồn không tìm được lối đi kéo dài mãi không thôi”. Những điệp từ “điệp điệp”, “song hành” như muốn lột tả một cách sâu sắc nỗi buồn ấy. Chia tay anh, vĩnh biệt quyết “về nước”, “lạc mấy dòng”. Ở khổ thơ tiếp theo, nỗi buồn bao trùm ấy nghe càng xót xa hơn.

“Một bài thơ nhỏ cô đơn bay trong gió
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?

Bản thân tác giả cũng đã hai lần phủ nhận sự hòa hợp, kết nối giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người, phủ nhận những dấu hiệu của sự sống để gợi lên một cái tôi cô đơn và rùng rợn.

“Bạn đang trôi dạt về đâu? khổng lồ mà không có tàu đi qua Không yêu cầu sự thân mật.

Lặng lẽ, bãi biển xanh và bãi biển vàng gặp nhau

Cảm hứng đơn độc tràn ngập trong bài thơ. Sự sáng tạo tiếp tục như nó vốn có và tách biệt như nó vốn có. Để rồi, trong cái bao la của nó, con người thật đáng thương và nhỏ bé. Con người như một lữ khách lẻ loi giữa thời gian và không gian, nơi bắt đầu và điểm kết thúc. Giọng đọc bộc lộ tình cảm sâu nặng của nhà thơ đối với đất nước mình.

“Lớp mây cao đẩy núi bạc con chim nhỏ có cánh trong bóng tối Lòng quê xao xuyến theo dòng nước.

Không khói hoàng hôn và nỗi nhớ ”

Đối lập với khung cảnh hùng vĩ của những đám mây cao, Eunsan là hình ảnh đôi cánh của một chú chim nhỏ đang chìm đắm trong vũ trụ vô tận. Và lúc này, điểm nhìn của nhà thơ đã thay đổi, nhà thơ không còn nhìn cảnh vật bao la nữa mà hướng cái nhìn về chính mình.

Huy Cận, nhà thơ nổi tiếng về đồng hồ trong nước với nhiều tác phẩm tiêu biểu, có đóng góp không nhỏ cho phong trào thơ mới. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của ông. “Tràng Giang” là một đoạn trích trong tác phẩm “Lửa thiêng” được viết trước Cách mạng tháng Tám. Với một phong cách nghệ thuật độc đáo, bài thơ này là một bức tranh tuyệt đẹp pha trộn giữa cổ điển và hiện đại.

Phân tích chất cổ điển và hiện đại Tràng giang học sinh giới
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang khổ 4

Từ tiêu đề của bài thơ ‘Jjangjang’, nó thể hiện vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Hai từ “Tràng Giang” là từ Hán Việt cổ điển nhưng tao nhã, gợi nhớ đến thơ cổ thời bấy giờ. Tuy nhiên, nếu thi nhân xưa đến với thiên nhiên để tìm sự giao cảm thì thi nhân hiện đại Huy Cận lại đứng trước “Tràng giang” để giãi bày những nỗi niềm, nỗi niềm trước kiếp người lẻ loi, bé nhỏ. Đó là một tâm hồn rất hiện đại mà ở đó ta thấy được sức hấp dẫn của thơ.

Như khổ thơ đầu tiên:

Tràng giang gợn sóng buồn man mác. Thuyền đi dưới mái nhà song song Thuyền về quê lại buồn

Củi cành khô xếp thành nhiều hàng

Hai chữ “điệp” và “song hành” trong hai đoạn đầu là kinh điển thời bấy giờ. Giữa sóng và nước khổng lồ có hình ảnh “con tàu trên mái nhà”. Tàu và nước thường đi đôi với nhau, câu “tàu về nước” nghe thật xót xa. Cụm từ cuối cùng ‘lạc vào vài dòng trên cành chết’ thể hiện sự cô đơn khi lạc vào vũ trụ bao la. Vẻ đẹp cổ điển của Yeonja được bộc lộ qua ngòi bút độc đáo của nghệ sĩ. Giải phóng linh hồn của các sinh vật chỉ với một vài cú chạm đơn giản. Nhưng ngoài điều đó ra, chúng ta thấy được vẻ đẹp hiện đại. Hình ảnh ‘cây trên cành khô’ trong cánh diều là một hình ảnh độc đáo và khác lạ, nó thu hút được tâm điểm của toàn bộ cánh diều và bộc lộ không khí của một nhân vật trữ tình cô đơn, lạc lõng.

Cơn gió nhỏ cô đơn Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều? Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm

Sông dài, trời rộng, bến vắng.

Ngôn từ của người nghệ sĩ là một kỹ thuật nghệ thuật sử dụng các từ ‘lười biếng’, ‘dễ chịu’, ‘tháp’ chặt chẽ, và các hình ảnh đối lập ‘nắng – trên trời’ và ‘sông dài – trời rộng’. Nghệ thuật của thơ ca cổ. Vẻ đẹp cổ điển còn được bộc lộ qua những áng văn thơ quen thuộc như sông trời mà kiếp người lẻ loi, buồn tủi. Cái mới là cách thể hiện qua hình ảnh làm thay đổi cảm xúc của người nghệ sĩ khi nhìn ‘mặt trời lặn’ và ‘bầu trời thăm thẳm’ đánh thức sự mở rộng của thời gian và không gian. Nói rõ hơn sự yếu đuối cô đơn của con người.

Trong khổ thơ thứ ba:

Bạn trôi dạt về đâu? khổng lồ mà không có tàu đi qua Không yêu cầu sự thân mật.

Lặng lẽ bãi xanh gặp bãi vàng.

‘Beo’ là hình ảnh ẩn dụ về kiếp người trôi nổi, xuất hiện thường xuyên trong thơ ca cổ điển. Ở đây, bèo tấm không chỉ có một cánh mà “liên hoàn” đến choáng ngợp. Khung cảnh nơi đây thật hiu quạnh. Cụm từ cấu trúc “không … không” nhấn mạnh điều này. Chiếc giường nằm giữa không gian bao la như heo hút vô hồn “bãi biển xanh vàng lặng lẽ gặp nhau”.