Phân tích câu Huống chi ta cùng các ngươi

“ … Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau ! Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…” (Trích Ngữ văn 8- Tập II)
1. Đoạn trích trên trích từ tác phẩm nào ? Tác giả là ai ? Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. (1,5 điểm) 2. Tác phẩm có đoạn trích trên thuộc thể loại nào ? Trình bày hiểu biết của em về thể loại đó.(1,0 điểm) 3. Nêu nội dung của đoạn trích trên.(1,0 điểm) 4. Xét theo mục đích nói, câu văn : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù.” thuộc kiểu câu nào? Thực hiện chức năng gì? (1,0 điểm)

"huống chi ta cùng các ngươi.... cho khỏi tai họa về sau? " (Hịch tướng sĩ -Trần Quốc Tuấn) Viết đoạn văn trình bày những gì em cảm nhận được từ đoạn trích

Về hình thức: HS có thể trình bày tùy ý thành một đoạn văn hoặc các ý (nhưng không nên gạch đầu dòng). Chữ viết sạch đẹp, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Về nội dung: - Chỉ ra được các biện pháp tu từ: + Liệt kê các hành động của quân giặc: đi lại nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều, sỉ mắng... bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng,... + Ẩn dụ: Uốn lưỡi cú diều, thân dê chó -> Chỉ bọn Sứ Nguyên. + So sánh: Chẳng khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói... - Tác dụng: + Tố cáo sự ngang ngược và tội ác tày trời của giặc. + Thể hiện thái độ căm giận và lòng khinh bỉ của Trần Quốc Tuấn với quân giặc đồng thời bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn mãnh liệt của ông.

Dưới đây là bài phân tích phần trích từ “Huống chi ta cùng các ngươi” đến “ta cũng vui lòng ” trong bài “Hịch tướng sĩ’’ để thấy được lòng nồng nàn yêu nước của người anh hùng Trần Quốc Tuấn.


Trần Quốc Tuấn (1232 – 1300) là vị anh hùng dân tộc, văn võ toàn tài. Tên tuổi ông trường tồn cùng “Hịch tướng sĩ” và chiến công Bạch Đằng giang bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn giặc Mông cổ.


“ Hịch tướng sĩ” được Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng năm 1283 -1284 trước khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2 nổ ra (1285). Bài văn sôi sục nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng. Đoạn văn dưới đây trích trong phần 2 “ Hịch tướng sĩ”:


“Huống chi. ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan… Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau… nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.



  1. Đoạn văn thứ nhất cho thấy tầm nhìn sâu rộng và cảnh giặc của vị Tiết chế thống lĩnh đời Trần. Tổ quốc Đại Việt lâm nguy trước họa xâm lăng, tướng sĩ cùng chung hoạn nạn: “sinh phải thời hoạn nạn, lớn gặp buổi gian nan”. Một tiếng nói gan ruột, san sẻ. Cay đắng, gian khổ, vinh nhục…, “ta cùng các ngươi” đều chung chịu nếm trải có nhau. Hình ánh bọn sứ giặc Mòna cổ bộc lộ bản chất hống hách, tham lam vô độ. Các ẩn dụ so sánh: “lưỡi cú diều”, “thân dê chó”, “hổ đói”, các hành động như: “đi lại nghênh ngang ngoài đường”, “sỉ mắng triều đình”, “bắt nạt tể phụ”, “đòi ngọc lụa”, “thu bạc vùng”, “vét cùa kho” đã vạch trần bộ mặt ghê gớm cùa Hốt Tất Liệt, Vàn Nam Vương, cúa bọn sứ giặc. Chúng có dã tâm cướp nước ta, bóc lột dã man nhân dân ta. Trần Quốc Tuấn đã chi cho tướng sĩ thấy rõ bộ mặt tham lam, tàn bạo của chúng. Khoanh tay nhìn sứ giặc hoành hành là tui vạ. Mất cảnh giác là chết, bởi lẽ: “Thật khác nào như đem thịt mà môi hô’ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!” Có yêu nước nồng nàn, có nhìn thấy tim đen giặc Nguyên Mông mới có cái nhìn sâu sắc và cảnh giác như thế !

  2. Đoạn văn thứ hai, vị Tiết chế thổ lộ nỗi lòng và quyết tâm của mình với tướng sĩ. Trước họa xâm lăng, vận mệnh của Tổ quốc nghìn cân treo sợi tóc, người anh hùng thời loạn “quên ăn”, “vỗ gối” (trằn trọc, thao thức), “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa“cay đắng, tủi nhục biết bao. Lòng căm thù cháy bỏng về thù nước, về nợ non sông chứa chất, sôi sục trong lòng, “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da. nuốt gan, uống máu quân thù”. Trần Quốc Tuấn đã dùng cách nói cụ thể đầy ấn tượng để biểu thị một thái độ quyết không dung tha lũ giặc phương Bắc. Câu văn chia thành nhiều vế đối nhau tạo cho giọng văn đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn:


“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”.


Tiếng hịch cất lên như một lời thề quyết chiến. Người anh hùng thuở “Binh Nquyên ” sẵn sàng xả thân trên chiến địa để trả nợ non sông: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghi 11 xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. ‘’Trăm thân” “nghìn xác” là cách nói thậm xưng biểu thị một khí phách anh hùng, một tư thế chiến đấu làm liệt vô song. “Phơi ngoài nội cỏ”, ‘‘gói trong da ngựa”, chỉ sự hy sinh oanh liệt trên chiến trường. Bốn chữ “ta cũng vui lòng” thể hiện niềm hạnh phúc to lớn của người anh hùng thời loạn được hiến dâng xương máu cho độc lập tự do của Tổ quốc Đại Việt.


Đọc “Hịch tướng sĩ” hầu như ai cũng nhớ, cũng thuộc đoạn văn này. Đoạn văn đã biểu lộ một cách sâu sắc lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuân. Đó là lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không dung tha quân xâm lược, là tinh thần quyết chiến, hi sinh để bảo vệ TỔ quốc.


Tác giả đã sử dụng cách viết ước lệ tượng trưng, cách diễn đạt bằng phép đối, bằng so sánh và thậm xưng giàu biểu cảm, làm cho giọng văn đanh thép, hùng hồn.


Đọc đoạn văn trên đây, ta càng hiểu sâu hơn câu nói của Trần Quốc Tuấn: “ Nếu bệ hạ muốn hàng thì trước hết hãy chém đầu thần”.


Click vào đây để xem toàn bộ nội dung bài viết
Click vào đây để xem toàn bộ nội dung bài viết

Bỏ ra 15s làm khảo sát để chúng tôi phục vụ bạn tốt hơn nhé.

Thế kỉ XIII, đất nước Đại Việt liên tục đứng trước mối đe doạ của giặc Nguyên. Chiến đấu để độc lập, tự chủ, hay đầu hàng để chịu mất nước, nô lệ? Vua tôi nhà Trần đã quyết chọn con đường chiến đấu. Nhưng làm sao để có thể chọn được con đường ấy? Trần Quốc Tuấn đã đưa ra một lời giải đáp vừa thấu lí vừa đạt tình trong bài ‘Hịch tướng sĩ ‘ bất hủ của mình. Bài hịch, mặc dầu là một bài văn chính luận, nhưng có những đoạn văn đọc lên nghe rất thống nhất, tràn đầy tình cảm nhưđoạn ông viết về lòng căm thù đối với quân giặc.

Trần Quốc Tuấn viết:

‘...Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc’.

Không phải riêng ta hay riêng các ngươi, mà ta ‘cùng các ngươi’. Nói thế Trần Quốc Tuấn đã chia sẻ tâm sự của mình cùng với các tướng sĩ, cũng là chia một chân lí của thời đại: trong thời bình, cương vị của mọi người có thể khác nhau, nhưng khi đất nước bị lâm nguy, nền tự chủ của đất nước bị đe doạ hoặc nếu mất nước thì tất cả mọi người, không trừ ai, sẽ giông nhau trước nỗi nhục chung, nỗi khổ chung của kẻ mất nước.

Bởi vậy, nỗi nhục sau đây không phải của riêng ai:

ngó thấy sứ giặc đi lại nghêng ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ... ‘

Những sự việc như thế có thể nhiều người đã biết một cách riêng biệt và cụ thể, đã được vị tướng họ Trần hệ thống lại, dựng thành một bức tranh sinh động về hành động láo xược của sứ nhà Nguyên. Ông chỉ nêu lên ba sự việc của bọn chúng: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ (tức là bậc đứng đầu trong các quan), kèm theo những hình ảnh diễn tả đầy căm giận: ‘uốn lưỡi cú diều’, ‘đem thân dê chó’. Những sự việc đó nhằm nói lên điều gì? Danh dự của đất nước bị sỉ nhục, chủ quyền của đất nước xâm phạm. Làm sao có thể không cảm thấy chính mình bị nhục, làm sao có thể không cảm thấy lòng đầy căm giận khi chính mắt mình nhìn thấy những sự việc nhưthế.

Tác giả bài hịch lại kể tiếp về bọn giặc:

'... lại thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn’.

Không chỉ dừng lại ở những hành động láo xược, bọn xứ giặc còn có những đòi hỏi vô lý về của cải vật chất. Ý nghĩa toát ra từ việc trở nên rất sinh động khi tác giả đặt ra sự tương phản giữa ‘của kho có hạn’ với ‘lòng tham khôn cùng’ của bọn sứ Mông cổ. Thế thì, với những hành động ngông cuồng, sỉ nhục về mặt tinh thần, vơ vét về mặt vật chất, bọn sứ giặc đã lộ rõ bản chất tham tàn của kẻ xâm lược. Từ đó, thái độ nhìn xa trông rộng đầy tinh thần cảnh giác của tác giả đã hoàn toàn đúng đắn:

‘Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, sao cho khỏi gây tai vạ về sau! ‘

Như thế có nghĩa là sự nhân nhượng đã đến chỗ tận cùng giới hạn. Không thể nhân nhượng hơn được nữa! Không thể nhẫn nhục hơn được nữa! Đến đầy, Trần Quốc Tuấn bày tỏ lòng căm giận của mình:

‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng’.

Trong văn thơ cổ, thật chưa có ở đâu, lòng căm thù giặc và ý chí quyến chiến được diễn tả một cách chân thành, thống thiết và mãnh liệt đến thế. Đây là lòng căm thù và ý chí riêng của một người nhưng cũng tiêu biểu cho lòng căm thù và ý chí của toàn thể nhân dân Đại Việt. Hay có thể nói: ý chí của cả một dân tộc, một đất nước dồn nén lại trong nỗi niềm của một con người.

Có một điều đáng lưu ý: ở đoạn trên tác giả nói đến hoàn cảnh chung của ‘ta’ và ‘các ngươi’, nhắc đến nguy cơ chung, nỗi nhục chung của ‘ta cùng các ngươi’ nhưng đến đoạn sau, nói lên ý chí căm thù giặc, tác giả chỉ nói ‘ta’. Vì sao vậy? Vì đó chính là điều mà vị tổng tư lệnh quân đội mong đợi ở tướng sĩ, đòi hỏi ở mỗi tướng sĩ của mình. Đằng sau đoạn văn là một câu hỏi bức bách: thời cuộc rối ren như vậy, đất nước gặp buổi khó khăn như vậy, nỗi lòng ta như vậy, còn lòng các ngươi ra sao? Các ngươi đã thấy nỗi nhục của nước, nhưng các ngươi đã có lòng căm hận đến như thế chăng?

Nếu ‘Hịch tướng sĩ’ của Trần Quốc Tuân là một trong những áng văn hay nhất thời cổ, thì đoạn văn trên là một trong những đoạn văn vừa hùng hồn vừa tình cảm nhất của bài hịch. Đọc đoạn văn, ta còn như nghe vang lên khí thế của cả một thời kì lịch sử oanh liệt.